Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Tổ chức và hoạt động của công an xã, thị trấn qua thực tiễn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.93 KB, 125 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH HUYấN

Tổ CHứC Và HOạT ĐộNG CủA CÔNG AN Xã,
THị TRấN QUA THựC TIễN TỉNH THANH HóA

Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: GS. TSKH. O TR C


HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin xchân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thị Huyên


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CÔNG AN XÃ, THỊ TRẤN......................................................9
1.1.

Vị trí của chính quyền xã, thị trấn trong bộ máy Nhà nước và
yêu cầu về xây dựng chính quyền xã, thị trấn..................................9

1.2.

Khái niệm, vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của Công
an xã, thị trấn....................................................................................12

1.2.1. Khái niệm Công an xã, thị trấn..............................................................12
1.2.2. Vị trí, vai trò của Công an xã, thị trấn................................................13
1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ của Công an xã, thị trấn...................................15
1.3.

Nội dung tổ chức và hoạt động của Công an xã, thị trấn..............21


1.3.1. Cơ cấu tổ chức Công an xã, thị trấn....................................................21
1.3.2. Nội dung công tác tổ chức Công an xã, thị trấn..................................22
Kết luận chương 1.........................................................................................28
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG
AN XÃ, THỊ TRẤN VÀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÔNG
AN XÃ, THỊ TRẤN Ở THANH HÓA.............................................29
2.1.

Thực trạng chính quyền cơ sở xã, thị trấn.....................................29

2.2.

Tổ chức và hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
Công an xã, thị trấn ở Thanh Hóa...................................................33


2.2.1. Thực trạng tổ chức của lực lượng Công an xã, thị trấn......................33
2.2.2. Một số kết quả nổi bật của lực lượng Công an xã, thị trấn khi
thực hiện đề án của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa và Pháp
lệnh Công an xã..................................................................................38
2.3.

Công tác tổ chức, xây dựng lực lượng Công an xã, thị trấn ở
Thanh Hóa.........................................................................................44

Kết luận chương 2.........................................................................................50
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG AN XÃ, THỊ TRẤN Ở THANH
HÓA HIỆN NAY...............................................................................52
3.1. Yêu cầu tăng cường bảo đảm an ninh trật tự ở

Thanh Hóa hiện nay................................................................52
3.2.

Dự báo tình hình có liên quan và phương hướng
xây dựng lực lượng Công an xã, thị trấn ở
Thanh Hóa trong thời gian tới...........................................56

3.3.

Các giải pháp về tổ chức và hoạt động của Công an xã, thị
trấn ở Thanh Hóa..............................................................................68

3.3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của Công an xã, thị trấn
trong quản lý hành chính ở cơ sở và trong hệ thống tổ chức của
lực lượng công an nhân dân; nâng cao chất lượng lãnh đạo của
cấp uỷ, quản lý, điều hành của Uỷ ban nhân dân................................69
3.3.2. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ
phối hợp của Công an xã, thị trấn với các ban ngành, tổ chức
đoàn thể trong việc bảo đảm an ninh trật tự ở cơ sở...........................71
3.3.3. Củng cố, hoàn thiện mô hình tổ chức, bộ máy Công an xã, thị trấn,
nhằm tăng cường sức mạnh trong công tác đảm bảo an ninh trật tự


ở cơ sở.................................................................................................75
3.3.4. Đổi mới công tác quản lý, hướng dẫn xây dựng lực lượng Công an
xã, thị trấn...........................................................................................77
3.3.5. Coi trọng và tổ chức thường xuyên công tác tuyển dụng, đào tạo,
bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ Công an xã, thị trấn................79
3.3.6. Trang bị phương tiện phù hợp, thiết thực, bảo đảm điều kiện làm
việc và chính sách, chế độ đãi ngộ đối với lực lượng Công an xã,

thị trấn.................................................................................................81
3.4.

Các kiến nghị tiếp tục tăng cường xây dựng và củng cố lực
lượng Công an xã, thị trấn ở Thanh Hóa........................................84

Kết luận chương 3.........................................................................................87
KẾT LUẬN....................................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................91
PHỤ LỤC.......................................................................................................93


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ANCT:

An ninh chính trị

ANQG:

An ninh quốc gia

ANTT:

An ninh trật tự

BCA:

Bộ Công an

CA:


Công an

CAND:

Công an nhân dân

CAV:

Công an viên

CAXTT: Công an xã, thị trấn
CCB:

Cựu chiến binh

HĐND:

Hội đồng nhân dân

MTTQ:

Mặt trận Tổ quốc

QLHC:

Quản lý hành chính

TTXH:


Trật tự xã hội

UBND:

Uỷ ban nhân dân

XDLL:

Xây dựng lực lượng


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Bảng 2.1: Thống kê phân loại cơ sở xã, thị trấn tỉnh Thanh

Trang

Hóa từ năm 2008 – 2013
Bảng 2.2: Biểu mẫu thống kê về tổ chức, biên chế của lực

97

lượng Công an xã, thị trấn
Bảng 2.3: Thống kê kết quả giải quyết vụ việc của Công an

98

xã, thị trấn từ năm 2008 - 2013
Bảng 2.4: Thực trạng bố trí Công an phụ trách xã của tỉnh


100

Thanh Hóa
Bảng 2.5: Thống kê phân loại ban Công an xã, thị trấn

102

thuộc tỉnh Thanh Hóa từ 2008 – 2013
Bảng 2.6: Thống kê phân loại phong trào bảo vệ an ninh tổ

104

quốc của tỉnh Thanh Hóa từ 2008 – 2013
Bảng 2.7: Thống kê phân loại CAXTT thuộc tỉnh Thanh

106

Hóa từ 2008 - 2013
Bảng 3.1: Thống kê số lượng thành viên tham gia công tác

108

ANTT ở xã, thị trấn, thôn, bản của tỉnh Thanh Hóa
Bảng 3.2: Biểu mẫu thống kê trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ,

109

phương tiện làm việc đối với Công an xã, thị trấn
Bảng 3.3: Biểu mẫu thống kê trụ sở làm việc và trang phục


111

của Công an xã
Bảng 3.4: Biểu mẫu thống kê số Công an xã, thị trấn được

113

hưởng chế độ, chính sách
DANH MỤC CÁC BẢNG

115



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
CAXTT là lực lượng vũ trang bán chuyên trách, là công cụ trọng yếu
của Đảng và Nhà nước ở cơ sở để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội ở xã, thị
trấn. CAXTT có nhiệm vụ tham mưu cho cấp uỷ và chính quyền địa phương
đề ra kế hoạch, biện pháp cụ thể nhằm giải quyết những vấn đề về ANTT; làm
nòng cốt xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; trực tiếp thực
hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm; bảo vệ
Đảng, chính quyền, tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, tài sản và quyền
lợi hợp pháp của nhân dân.
Những vấn đề trên được quy định tại Luật Công an nhân dân; Pháp
lệnh công chức; Pháp lệnh số 06/2008/PL-UBTVQH12 ngày 01/7/2009 của
Quốc Hội về Công an xã; Nghị định số 73/2009/NĐ-CP ngày 07/9/2009
của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh CAX;
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, ngày 22/10/2009 của Chính Phủ về chức

danh, số lượng, một số chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và
các Thông tư, Quyết định hướng dẫn thực hiện. Các quy định của Chính
phủ, của các Bộ đối với lực lượng CAXTT đã khẳng định vai trò rất quan
trọng của lực lượng này ở cơ sở, song qua nhiều năm vận hành, đang bộc lộ
nhiều vấn đề chưa phù hợp với thực tế hoặc chưa đáp ứng được tình hình,
cần phải bổ sung, điều chỉnh.
Trong nghiên cứu khoa học, đã có nhiều đề tài, chuyên đề nghiên cứu
về CAXTT nhưng chủ yếu mới tập trung vào các vấn đề về chức năng, nhiệm
vụ; xây dựng phong trào thi đua vì an ninh Tổ quốc, về chính sách đối với
CAXTT, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn
diện vấn đề tổ chức và hoạt động của CAXTT.
1


Thanh Hóa có 607 xã, thị trấn, trong đó có 220 xã, thị trấn miền núi, 15
xã biên giới giáp với tỉnh Hủa Phăn (Lào), 50 xã, thị trấn ven biển, 25 xã nằm
trong khu kinh tế công nghiệp trọng điểm của tỉnh, có liên doanh với nước
ngoài. Trung bình hàng năm, trên địa bàn toàn tỉnh xảy ra từ 1.800 - 2.000 vụ
phạm pháp hình sự (giết người chiếm khoảng 2,4%; cướp chiếm khoảng
2,9%). Ngoài việc phối hợp với các lực lượng nghiệp vụ của công an huyện,
công an tỉnh trong việc phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm, các vi
phạm hành chính, lực lượng CAXTT hàng năm trực tiếp giải quyết 70% vụ
việc liên quan đến ANTT, hoà giải 5.000 vụ mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân,
cảm hoá hàng ngàn đối tượng thuộc diện giáo dục tại địa bàn. Riêng năm
2013, đưa vào diện 3.242 người vi phạm pháp luật; lập hồ sơ 2.721 người
nghiện ma tuý, giao cho các đoàn thể, tổ chức xã hội. Đồng thời mở từ 6.000
đến 9.000 buổi nói chuyện tuyên truyền pháp luật tại các khu dân cư; tổ chức
trên dưới 6.000 cuộc mít tinh, diễu hành, kẻ vẽ 1 đến hơn 2.000 panô, áp
phích phục vụ tuyên truyền pháp luật và phòng chống tội phạm; riêng năm

2013, do công tác tuyên truyền vận động của CAXTT, quần chúng đã cung
cấp 30.798 tin có giá trị, giúp công an làm rõ 7.162 vụ phạm pháp hình sự,
liên quan đến 4.412 đối tượng, bắt 267 tên tội phạm nguy hiểm [8].
Để bảo đảm ANTT ở cơ sở, hiện nay Công an tỉnh Thanh Hóa đang bố
trí 294 đồng chí Công an phụ trách xã (trung bình hơn 2 xã có 1 cán bộ công
an chính quy); 598 Trưởng CAXTT, 1.176 cấp phó và 5.862 CAV [9]. Lực
lượng Công an phụ trách xã chủ yếu làm nhiệm vụ hướng dẫn nghiệp vụ cho
lực lượng CAXTT. Nhiệm vụ bảo đảm ANTT ở địa bàn xã, thị trấn chủ yếu
do lực lượng CAXTT đảm nhiệm. Cách bố trí lực lượng, phân công nhiệm vụ
như trên là tương đối hợp lý. Song, với thực tiễn tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ
bảo đảm an ninh trật tự trong tình hình mới sẽ hết sức phức tạp, trong khi đó
những bất cập về mô hình tổ chức; bất cập trong cơ chế chỉ đạo nghiệp vụ,

2


trong mối quan hệ giữa công an phụ trách xã với CAXTT và thẩm quyền, vị
trí, chức năng, nhiệm vụ của công an phụ trách xã với thực tế nhu cầu công
việc phải giải quyết hàng ngày của lực lượng này; bất cập trong chính sách,
chế độ đối với CAXTT để họ có đủ điều kiện về tinh thần và vật chất tập
trung cho công tác được giao và để lực lượng CAXTT thực sự là nòng cốt
trong bảo đảm an ninh, trật tự ngay tại cơ sở trong phạm vi toàn tỉnh đang là
vấn đề đặt ra cần giải quyết.
Trước Nnhững vấn đề lý luận và thực tiễn đó, nếu không được nghiên cứu
một cách khoa học, có hệ thống, tìm ra căn cứ để có giải pháp kịp thời thì không
thể phục vụ tích cực cho công tác đảm bảo an ninh trật tự trong tình hình hiện
nay, khi mà tất cả hoạt động của tội phạm, tất cả mầm mống, xuất xứ của vấn đề
phức tạp về an ninh trật tự đều nảy sinh hàng ngày ở cơ sở xã, thị trấn, thôn bản.
Do vậy, đặt ra vấn đề tổ chức và hoạt động của CAXTT chính là muốn
thông qua các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp soi rọi vào thực tế

để thấy được thực trạng mô hình tổ chức và hiệu quả hoạt động của lực lượng
CAXTT ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay; chỉ rõ những vấn đề còn bất cập làm hạn
chế sức mạnh của lực lượng này, từ đó đề xuất các giải pháp xây dựng mô
hình tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của CAXTT trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu
Do vai trò quan trọng của xã, phường, thị trấn và yêu cầu thực tiễn
trong công tác đảm bảo ANTT ở cơ sở của lực lượng CAXTT, từ 1995 đến
nay, có rất nhiều công trình, nghiên cứu, khảo sát của Chính Phủ và các cơ
quan của Chính phủ, của các nhà khoa học, cán bộ lãnh đạo, quản lý về vấn
đề này: kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tế về củng cố tổ chức bộ máy làm
việc của cấp xã, phường, thị trấn (Năm 1995); Ban Tổ chức cán bộ Chính Phủ
có văn bản báo cáo kết quả điều tra cơ bản, đánh giá thực trạng, đề xuất các

3


giải pháp xây dựng và nâng cao chất lượng cán bộ hệ thống chính trị ở cơ sở
(năm 1999); Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ và Viện Khoa học tổ chức Nhà
nước công bố công trình nghiên cứu về chính quyền cấp xã và quản lý nhà
nước ở cấp xã (năm 2000); các tờ trình, báo cáo thẩm tra của các bộ, ngành là
căn cứ để Chính phủ ra các quyết định phê duyệt chương trình tổng thể cải
cách hành chính đến năm 2010 (từ năm 2001 đến nay) và phê chuẩn kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức giai đoạn 2001 - 2005; ban hành Nghị
định 92/2009/NĐ-CP, ngày 22/10/2009 của Chính Phủ về chức danh, số
lượng, một số chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu và các tài liệu của Chính phủ, nhiều
đề tài khoa học bàn về xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ở cơ sở: "Chuyên
khảo xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã, phường,

thị trấn" (Bộ Nội vụ- 1993); "Thực hiện pháp luật trong CAND để bảo vệ an
toàn xã hội ở nước ta hiện nay" (Tiến sỹ Đỗ Tiến Triển - Bộ Công an -1996);
đề tài cấp Bộ "Chất lượng cán bộ chủ chốt xã vùng cao phía Bắc thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", (Tiến sỹ Nguyễn Đức Ái và
Thạc sỹ Nguyễn Thị Mão - 2003 - Phân viện Báo chí tuyên truyền).
Nhiều luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ, nghiên cứu vấn đề cán bộ
công chức ở xã, thị trấn của một số tỉnh, thành phố và tập trung chủ yếu vào
các vấn đề: đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trong điều
kiện cải cách nền hành chính nhà nước; nâng cao cất lượng đội ngũ cán bộ
công chức chính quyền cấp xã; giáo dục pháp luật cho cán bộ chính quyền
cấp xã; hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền cấp cơ sở theo yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay; nâng cao chất lượng quy
chế dân chủ cấp xã; hoàn thiện pháp lệnh về giám sát hoạt động hành chính
của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; tăng cường quản lý nhà

4


nước bằng pháp lệnh về hoà giải ở cơ sở; luật tục và sự vận dụng trong quản
lý nhà nước của chính quyền cấp xã; nâng cao chất lượng bồi dưỡng đại biểu
HĐND cấp xã.
Trong lực lượng Công an nhân dân đã có các công trình khoa học nghiên
cứu về lực lượng CAXTT, cụ thể là: "Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động của CAXTT, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự ở nông thôn trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại đất nước" (Vụ Pháp chế BCA -2000); "Nâng cao
chất lượng hiệu quả công tác của lực lượng Công an phụ trách xã về ANTT Thực trạng và giải pháp" (Cục Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội2003). Ngoài ra cũngcũng có một số địa phương nghiên cứu đề tài khoa học
cấp cơ sở về lực lượng CAXTT trong phạm vi cấp huyện hoặc cấp tỉnh. Trong
quá trình soạn thảo Luật Công an nhân dân và sau khi Luật Công an nhân dân
được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành, nhiều tác giả trong ngành
công an có các chuyên đề nghiên cứu về CAXTT đăng trên Tạp chí CAND.

Ở tỉnh Thanh Hóa cũngcũng đã có một số công trình nghiên cứu, áp
dụng pháp luật vào công tác củng cố, hoàn thiện đội ngũ cán bộ công chức và
lực lượng CAXTT: Đề án "Chế độ, chính sách đối với cán bộ không chuyên
trách xã, phường, thị trấn, cán bộ thôn, bản, phố" (Sở Nội vụ Thanh Hóa);
Công an tỉnh Thanh Hóa có các đề án và quyết định: "Đề án bố trí lực lượng
CAXTT trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa"; "Đề án xây dựng khu dân cư an toàn
về ANTT"; "Quyết định số 114 của Giám đốc Công an tỉnh về hướng dẫn
CAXTT xử lý vi phạm về trật tự an toàn giao thông".
Các công trình, đề tài nghiên cứu và văn bản nêu trên đã giải quyết
nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng, củng cố, hoàn
thiện đội ngũ cán bộ công chức ở xã, thị trấn nói chung và về lực lượng
CAXTT nói riêng. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu hệ
thống đầy đủ, toàn diện về mô hình tổ chức và hoạt động của CAXTT và làm

5


rõ thực trạng, những vướng mắc, bất cập hiện nay của lực lượng này và trên
cơ sở đó đề ra quan điểm, giải pháp, tổ chức, hoạt động đáp ứng một cách tốt
nhất yêu cầu đảm bảo ANTT ở cơ sở xã, phường, thị trấn trong toàn quốc nói
chung và trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói riêng. Đó chính là lý do của việc tác
giả chọn vấn đề “ Tổ chức và hoạt động của Công an xã, thị trấn - Qua thực
tiễn tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài luận văn Thạc sỹ Luật học, chuyên ngành lý
luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất các quan điểm và giải
pháp xây dựng lực lượng CAXTT ở Thanh Hóa thật sự trong sạch, vững
mạnh, hoạt động thực sự hiệu quả, trở thành nòng cốt trong phong trào đấu
tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo đảm ANTT trên địa

bàn cơ sở.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Hệ thống hoá, khái quát, hoàn thiện cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt
động của CAXTT.
- Hệ thống hoá chủ trương, chính sách, pháp luật về tổ chức, hoạt động
của CAXTT và phân tích, đánh giá thực trạng mô hình tổ chức và hiệu qủa
hoạt động của lực lượng CAXTT trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm xây dựng tổ chức, nâng cao
hiệu quả hoạt động của CAXTT ở Thanh Hóa thực sự là lực lượng nòng cốt
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo đảm ANTT
ngay từ địa bàn cơ sở.

6


4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu vấn đề tổ chức và hoạt động của
CAXTT trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa qua các thời kỳ, nhưng chủ yếu tập
trung vào thời kỳ từ 2008 đến nay.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các chủ trương, chính sách, pháp luật về tổ chức lượng công
an cấp xã thể hiện ở các văn bản của Trung ương, của ngành và của địa phương.
- Nghiên cứu thực tiễn hiệu quả hoạt động của CAXTT ở Thanh Hóa,
những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu về lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải
pháp xây dựng tổ chức và hiệu quả hoạt động của lực lượng CAXTT hiện nay
ở tỉnh Thanh Hóa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Nhà nước, pháp
luật, pháp chế XHCN, về chính quyền cơ sở, về đấu tranh phòng chống tội
phạm, vi phạm pháp luật bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Phương pháp luận nghiên cứu đề tài là phương pháp biện chứng của
triết học Mác - Lênin, xem xét vấn đề một cách khách quan, toàn diện và đặt
trong hoàn cảnh cụ thể của từng địa bàn để nghiên cứu.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, phỏnỏng vấn sâu những chuyên
gia, những bậc lão thành có kinh nghiệm trong ngành.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá, phân tích, hoàn thiện cơ sở lý luận về lực lượng công
an cơ sở nói chung và CAXTT nói riêng.
- Đánh giá toàn diện thực trạng tổ chức, hoạt động của CAXTT trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa.
7


- Đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm chấn chỉnh, đổi mới tạo
bước chuyển có tính đột phá trong công tác tổ chức và hoạt động của CAXTT
ở Thanh Hóa hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tổ
chức, hoạt động của CAXTT, củng cố chính quyền cơ sở, bảo đảm an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở.
- Góp phần tổng kết thực tiễn, đánh giá thực trạng và đề xuất các quan
điểm, giải pháp phù hợp thực tế, thiết thực, khả thi nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của CAXTT trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
- Là tài liệu tham khảo tốt cho công tác tổng kết thực tiễn, xây dựng
lực lượng công an nói chung và công an ở cơ sở nói riêng cũngcũng như
công tác nghiên cứu, giảng dạy về xây dựng chính quyền cơ sở, xây dựng

lực lượng công an ở cơ sở, đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp
luật, bảo đảm ANTT.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương, 10 tiết.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CÔNG AN XÃ, THỊ TRẤN
1.1. Vị trí của chính quyền xã, thị trấn trong bộ máy Nhà nước và
yêu cầu về xây dựng chính quyền xã, thị trấn
Trong lịch sử nước ta, trải qua các triều đại, từ thời kỳ đô hộ của phong
kiến phương Bắc đến chế độ cai trị của thực dân Pháp, tuy tên gọi và tổ chức
bộ máy ở mỗi vùng, mỗi miền, mỗi thời kỳ có khác nhau, nhưng đều có điểm
chung nhất là: Làng, xã Việt Nam luôn là một cấp trong hệ thống tổ chức bộ
máy hành chính Nhà nước, vừa thực thi các nhiệm vụ có tính quản lý hành
chính nhà nước do cấp trên giao, vừa chăm lo công việc tự quản trong các cộng
đồng dân cư. Chính quyền xã có con dấu, có tài sản riêng. Nhà nước công nhận
và bổ nhiệm những người thay mặt Nhà nước quản lý xã hội nông thôn. Trước
đây việc duy trì an ninh, trật tự ở nông thôn kể cả việc giải quyết các vụ án hình
sự, chính quyền cơ sở luôn được xác định là cấp thụ lý đầu tiên, vì vậy dân
không được thưa kiện vượt cấp khi vụ kiện chưa qua cấp cơ sở hoà giải.
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (năm 1946)
tại Điều 57 đã quy định:" Nước Việt Nam về phương diện hành chính có 3 bộ:
Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi
huyện chia thành xã". Điều 58 khẳng định"ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có
Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra" [13]. Như

vậy vị trí chính quyền xã đã được khẳng định và phát huy ngay từ những ngày
đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Từ đó đến nay Đảng và Nhà
nước ta không ngừng củng cố, tăng cường hệ thống các cấp chính quyền nói
chung, hệ thống chính trị cơ sở, chính quyền xã nói riêng. Hiện nay, chính
quyền xã ở nước ta có 9.583 đơn vị, chiếm 89,1% tổng số đơn vị chính quyền

9


cơ sở (11.115 xã, phường, thị trấn) [1]. Năng lực và hiệu quả hoạt động của
chính quyền xã tác động trực tiếp đến việc thực hiện quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, là nơi tổ chức thực hiện và đưa các chủ trương, chính
sách, pháp luật vào cuộc sống; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo
đảm cho khối đại đoàn kết toàn dân được thiết lập ngay từ cơ sở; bảo đảm cho
sự phát triển và bình an của 76,5% dân số nước ta trên địa bàn chiến lược và
rộng lớn ở nông thôn, là cơ sở cho sự bình yên của đất nước (hiện nay có trên
60 triệu nông dân đang làm ăn, sinh sống ở các làng, xã).
Theo quy định của Điều 114 Hiến pháp năm 2013:
Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội
đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước
cấp trên [16, Điều 114].
Theo quy định này, UBND do HĐND bầu, có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ
của HĐND; là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương. Tính chất chấp hành của UBND được thể hệ thông qua việc chấp
hành các nghị quyết của HĐND và các văn bản của cơ quan cấp trên. Đồng
thời UBND còn là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương chịu trách
nhiệm tổ chức quản lý hành chính (QLHC) nhà nước ở địa phương. Các cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương có vai trò rất quan trọng. Cơ quan

hành chính nhà nước ở địa phương được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc phụ thuộc hai chiều: Phụ thuộc theo chiều dọc và phụ thuộc theo chiều
ngang. Điều này có nghĩa là, Uỷ ban nhân dân các cấp vừa phụ thuộc cơ quan
hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp trên vừa phụ thuộc vào cơ
quan quyền lực cùng cấp. Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
chuyên môn vừa phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền

10


chuyên môn cấp trên, vừa phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền chung cùng cấp.
Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn là cơ quan chấp hành, cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp
và cơ quan nhà nước cấp trên, là cấp thấp nhất và có một vai trò quan trọng
trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.
Cơ quan hành chính nhà nước được thành lập để thực hiện chức
năng quản lý nhà nước và là một bộ phận của của bộ máy nhà nước.
CũngCũng như các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, cơ quan hành
chính nhà nước có cơ cấu tổ chức riêng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định của hiến pháp, luật, pháp lệnh và những văn bản
pháp luật khác. Theo nguyên tắc bộ máy nhà nước thì cơ quan quản lý
hành chính nhà nước được tổ chức theo một hệ thống thống nhất từ trung
ương đến địa phương và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Khi
tham gia vào các quan hệ pháp luật cơ quan hành chính nhà nước có tư
cách chủ thể nhân danh nhà nước được sử dụng quyền lực nhà nước và
khi cần thiết có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND xã, thị trấn được xác định
dựa vào vị trí, sự phân công quyền lực trong hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước. Theo quy định của pháp luật hiện hành, UBND xã, thị trấn chịu trách

nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên
và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ
trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và
thực hiện các chính sách khác trên địa bàn; thực hiện chức năng quản lý nhà
nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ
máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở. Với chức năng nêu trên Uỷ
ban nhân dân xã, thị trấn là chủ thể xây dựng, thực hiện các nhiệm vụ trên các

11


lĩnh vực kinh tế, giao thông vận tải. giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá và thể dục
thể thao; quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và thi hành pháp luật ở
địa phương.
Trong việc thi hành pháp luật, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn là tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật; giải
quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định
của pháp luật; tổ chức tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của
công dân theo thẩm quyền; tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan
chức năng trong việc thi hành án theo quy định của pháp luật; tổ chức thực hiện
các quyết định về xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
1.2. Khái niệm, vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của Công an
xã, thị trấn
1.2.1. Khái niệm Công an xã, thị trấn
Để thực hiện được chức năng bảo đảm ANCT, trật tự an toàn xã hội,
đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật, xây dựng phong trào
toàn dân bảo vệ ANTQ ở xã, thị trấn phải xây dựng lực lượng CAXTT hoạt
động bán chuyên trách. Luật CAND (2005) ghi rõ:
CAXTT là lực lượng vũ trang bán chuyên trách, làm nòng cốt
phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ, đảm bảo ANTT, an toàn xã hội

ở cơ sở, chịu sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp uỷ Đảng, sự
quản lý, điều hành của UBND xã và sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp
vụ của công an cấp trên [14].
Từ điển Bách khoa CAND Việt Nam cũngcũng ghi:
Công an xã là lực lượng vũ trang bán chuyên trách được tổ
chức theo đơn vị hành chính cấp xã ở những nơi không bố trí lực
lượng công an chính quy, có trách nhiệm tham mưu cho cấp uỷ
Đảng và UBND xã về công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn xã và
thực hiện việc quản lý Nhà nước về ANTT ở xã [6].
12


Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu CAXTT là lực lượng vũ trang
bán chuyên trách, được tổ chức theo một mô hình thống nhất ở địa bàn xã, thị
trấn nhằm đảm bảo ANTT, làm nòng cốt thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ
ANTQ và tiến hành các công tác quản lý Nhà nước về ANTT ở cơ sở. Thành
phần của CAXTT gồm Trưởng CAXTT, Phó CAXTT và CAV (cũngcũng có
thể gọi là Ban CAXTT).
1.2.2. Vị trí, vai trò của Công an xã, thị trấn
Quá trình ra đời và phát triển của lực lượng CAXTT được xác định gắn
liền với sự ra đời của lực lượng vũ trang cách mạng. Trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 – 1931) "Đội tự vệ đỏ” được thành lập để chống khủng bố,
trấn áp phản cách mạng, giữ gìn an ninh trật tự ở nông thôn, làm nòng cốt
trong các cuộc đấu tranh của quần chúng và đây cũngcũng chính là lực lượng
tiền thân của các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam nói chung và lực
lượng CAXTT nói riêng.
Cách mạng tháng Tám thành công, để từng bước củng cố tổ chức bộ
máy chính quyền các cấp, tổ chức và hoạt động của lực lượng CAXTT
cũngcũng đã hình thành: "Công việc trị an ở cấp xã do một uỷ viên trong Uỷ
ban kháng chiến kiêm hành chính xã phụ trách" [3]. Ngày 10/10/1950, Bộ
Nội vụ ban hành Nghị định số 438-/ NV/-NgĐ, Điều 2 quy định:

Thành lập tại mỗi xã trong toàn quốc một Ban Công an gọi là
Ban CAXTT, nằm trong hệ thống tổ chức Việt Nam Công an vụ, đặt
dưới quyền điều khiển trực tiếp của Uỷ ban kháng chiến kiêm hành
chính xã, dưới quyền điều khiển chuyên môn của Ty Công an tỉnh và
Quận Công an huyện nếu có uỷ quyền của Ty Công an tỉnh [2].
Bắt đầu từ thời điểm này, CAXTT có tổ chức, bộ máy ổn định trong hệ
thống cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở, chức năng nhiệm vụ cụ
thể, rõ ràng là giữ gìn an ninh, trật tự ở cơ sở.

13


Vai trò nòng cốt của CAXTT được thể hiện thông qua phát động phong
trào toàn dân bảo vệ ANTQ và trong phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội
phạm. Nhằm huy động sức mạnh to lớn của nhân dân trong phát hiện, đấu
tranh với các loại tội phạm, các vi phạm khác nhằm đảm bảo ANTT ở từng
vùng, miền và trên toàn quốc, xây dựng, củng cố thế trận an ninh nhân dân.,
trong những năm qua, lực lượng CAXTT đã từng bước nhận thức đầy đủ tầm
quan trọng của phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ nên đã chú trọng tới công
tác tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền cấp xã và trực tiếp làm nòng cốt trong
xây dựng phong trào BVANTQ, coi đó là nhiệm vụ chính yếu, hàng đầu của
CAXTT. Vì thế, trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, tuỳ vào tình hình, đặc điểm của từng địa
phương, lực lượng CAXTT đã biết lồng ghép các chủ trương chính sách, chỉ
thị, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào các phong trào đang
có ở địa phương để vận động các tầng lớp nhân dân tham gia như: phong trào
toàn dân phát hiện, tố giác tội phạm; vận động đối tượng tự thú, tự báo; phong
trào tự quản, cảm hoá, giáo dục, giúp đỡ những người lầm lỗi tại cộng động
dân cư; phòng, chống ma tuý... Lực lượng CAXTT đã biết tìm tòi, phát huy
sáng kiến, chủ động xây dựng kế hoạch tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền cơ

sở chỉ đạo tổ chức thực hiện, đồng thời luôn xác định là lực lượng nòng cốt
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện. Do đó, đã huy động được đông
đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ luôn
có bước phát triển, phong phú đa dạng về hình thức, nội dung, biện pháp, ở
địa bàn miền xuôi, miền ngược, ở trong nội bộ cơ quan, doanh nghiệp và
vùng dân tộc, tôn giáo..., góp phần ngăn chặn, kiềm chế hoạt động của bọn tội
phạm, giữ vững ANTT, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của từng địa phương.
Trong đấu tranh phòng chống tội phạm, là lực lượng tại chỗ, thông
thuộc địa bàn, là lực lượng gần dân, sát dân, mọi hoạt động của CAXTT luôn

14


gắn liền với dân, gắn với phong trào bảo vệ an ninh, trật tự, vừa là bộ phận
của chính quyền xã, nên lực lượng này là lực lượng chủ yếu giải quyết các vụ
việc về ANTT. Đánh giá kết quả hoạt động của lực lượng CAXTT cho thấy
đây là lực lượng tại chỗ, trực tiếp giải quyết 80% những vấn đề về ANTT tại
cơ sở. Đối với những vụ việc lớn về ANTT do Công an cấp trên thụ lý, giải
quyết theo quy định của pháp luật thì lực lượng CAXTT cũngcũng là lực
lượng tiếp cận từ ban đầu và phối hợp trong quá trình điều tra, xử lý.
1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ của Công an xã, thị trấn
1.2.3.1. CAXTT có nhiệm vụ tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền về đảm
bảo an ninh trật tự và là lực lượng chủ công, nòng cốt trong xây dựng phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
Lực lượng CAXTT từ khi thành lập đến nay, trong các quy định của các
văn bản pháp luật cũngcũng như trên thực tế luôn chịu sự lãnh đạo "song
trùng": CAXTT là lực lượng vũ trang bán chuyên trách, là công cụ trọng yếu
của Đảng và Nhà nước ở xã, thị trấn để đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội
ở cơ sở nên vừa chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ, sự quản lý, điều hành của chính
quyền, vừa chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Công an

cấp trên. Đó là vừa là nguyên tắc, vừa là điều kiện, nhân tố cơ bản để xây dựng
tổ chức và hoạt động của CAXTT; đồng thời là điều kiện đảm bảo cho việc
hoàn thành nhiệm vụ của lực lượng CAXTT trong bất kể tình huống nào.
Trong những năm qua, lực lượng CAXTT đã từng bước nhận thức đầy
đủ tầm quan trọng của công tác tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền cấp xã và
trực tiếp làm nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là
nhiệm vụ chính yếu, hàng đầu của CAXTT. Hàng năm các ban CAXTT đều
xây dựng chương trình công tác bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa bàn xã, thị trấn của mình. Chương
trình công tác hàng năm đều được thông qua cấp uỷ, chính quyền để chỉ đạo

15


phối hợp các ban, ngành cùng tham gia. Đồng thời, CAXTT còn tham mưu
cho cấp uỷ, chính quyền xã ra nghị quyết về công tác an ninh, trật tự của địa
phương mình và chịu trách nhiệm theo dõi, nắm tình hình kết quả và tham
mưu kịp thời cho cấp uỷ và chính quyền sơ kết, tổng kết định kỳ rút ra những
bài học để chỉ đạo tiếp theo. Trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của Công an
cấp trên như: Nghị quyết số 09/NQ-CP của Chính phủ, Chương trình quốc gia
phòng chống tội phạm, phòng chống ma tuý, các nghị quyết liên ngành... lực
lượng CAXTT đã biết tìm tòi, phát huy sáng kiến chủ động xây dựng kế
hoạch tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền cơ sở chỉ đạo tổ chức thực hiện.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, lực lượng CAXTT luôn xác định, và giao
nhiệm vụ là lực lượng nòng cốt để triển khai thực hiện các chủ trương, kế
hoạch đó đến nhân dân. Do đó đã huy động được đông đảo các tầng lớp nhân
dân tham gia, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phong phú đa
dạng cả về hình thức, nội dung, biện pháp, cả ở địa bàn miền xuôi và miền
ngược, cả ở trong nội bộ cơ quan, doanh nghiệp và cả vùng dân tộc, tôn

giáo... đã góp phần ngăn chặn, kiềm chế hoạt động của bọn tội phạm, giữ
vững an ninh, trật tự, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của từng địa phương.
Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ là huy động sức mạnh to lớn của
nhân dân để phát hiện, đấu tranh với các loại tội phạm và các vi phạm khác
nhằm đảm bảo ANTT ở từng vùng, miền và trong toàn quốc, xây dựng, củng
cố thế trận an ninh nhân dân. Tuỳ vào tình hình, đặc điểm của từng địa
phương, lực lượng CAXTT đã biết lồng ghép các chủ trương chính sách, chỉ
thị, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào các phong trào đang
có ở địa phương để vận động các tầng lớp nhân dân tham gia như. Qua công
tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, từ thực tiễn, nhiều
nơi đã sáng tạo, xây dựng các mẫu điển hình về phong trào đã đem lại hiệu

16


×