Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Pháp luật về hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại quốc tế theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƢƠNG
MẠI QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
BÙI THỊ THU HẰNG

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: TS.TRẦN MINH NGỌC

HÀ NỘI - 2019

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, các kết luận, số liệu trong luận văn là trung thực,
đảm bảo độ tin cậy./.
Tác giả luận văn

ii



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn TS.Trần Minh Ngọc – người hướng dẫn
khoa học, đã tận tình hướng dẫn tôi trong thời gian tôi viết luận văn thạc sỹ
này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo và các cán bộ của Đại
học Mở Hà Nội đã truyền đạt kiến thức cũng như quan tâm giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn thạc sỹ.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân và bạn bè đã
luôn ở bên, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập, nghiên cứu cũng như hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên

iii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ Luật Tố tụng Dân sự

BLDS

: Bộ Luật Dân sự

LTTTM

: Luật Trọng tài Thương mại

PLTTTM


: Pháp lệnh Trọng tài Thương mại

UNCITRAL

: Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế

iv


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ ........ 7
1.1. Khái quát về Trọng tài Thương mại Quốc tế ............................................. 7
1.1.1. Khái niệm Trọng tài Thương mại Quốc tế .............................................. 7
1.1.2. Các tranh chấp Thương mại Quốc tế phổ biến được giải quyết bằng
Trọng tài .......................................................................................................... 13
1.2. Khái quát về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài
Thương mại Quốc tế........................................................................................ 16
1.2.1.Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng
tài Thương mại Quốc tế...................................................................................16
1.2.2.Nội dung sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài Thương
mại Quốc tế.....................................................................................................22
CHƢƠNG 2: SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN HÀNH ..................................................................................... 377
2.1.Tòa án hỗ trợ thi hành thỏa thuận trọng tài ............................................. 377
2.2. Tòa án hỗ trợ thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc, thay đổi trọng tài viên
......................................................................................................................... 41

2.3. Vấn đề tòa án hỗ trợ trọng tài trong thu thập chứng cứ, triệu tập người
làm chứng ........................................................................................................ 45
2.4. Việc yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ...................... 48
2.5. Tòa án giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa
thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài .......................................................................... 51
2.6. Đăng ký phán quyết của trọng tài vụ việc.............................................. 577
2.7. Công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài ............ 61

v


CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỖ TRỢ CỦA TÒA
ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC
TẾ TẠI VIỆT NAM ...................................................................................... 72
3.1.Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hỗ trợ của tòa án đối với Trọng tài
thương mại quốc tế..........................................................................................72
3.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt
động của Trọng tài Thương mại Quốc tế ở Việt Nam .................................... 74
3.2.1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về hỗ
trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài Thương mại Quốc tế ........... 74
3.2.1.1. Về tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài theo Điều 2
LTTTM 2010................................................................................................... 74
3.2.1.2. Về vấn đề Tòa án hỗ trợ thi hành thoả thuận trọng tài ...................... 75
3.2.1.3. Về vấn đề Tòa án ra quyết định hỗ trợ thành lập Hội đồng trọng tài vụ
việc .................................................................................................................. 76
3.2.1.4. Về vấn đề Tòa án hỗ trợ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ........ 77
3.2.1.5. Về vấn đề thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể
thực hiện được ................................................................................................. 81
3.2.1.6. Về đăng ký phán quyết trọng tài........................................................84

3.2.1.7. Về vấn đề công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước
ngoài .............................................................................................................. 845
3.2.2. Các giải pháp khác .............................................................................. 877
3.2.2.1. Đẩy mạnh việc nâng cao trình độ của đội ngũ thẩm phán và thành lập
các Tòa án chuyên trách ................................................................................ 877
3.2.2.2. Tăng cường quản lý và giám sát việc giải quyết các vụ việc liên quan
đến hoạt động Trọng tài Thương mại Quốc tế của Tòa án ........................... 877
3.2.2.3. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ Trọng tài viên .............. 888
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 91

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, các tranh chấp trong lĩnh vực thương mại
diễn ra ngày càng gay gắt và phức tạp. Các quan hệ tranh chấp này không chỉ
được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng tới các
tổ chức, cá nhân nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp thương mại là điều
không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời. Pháp luật Việt
Nam nói chung cũng như pháp luật thương mại Việt Nam nói riêng đã quy
định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế (tranh chấp
thương mại có yếu tố nước ngoài) như: Thương lượng, Hòa giải, Tòa án hay
Trọng tài. Với những quy định của pháp luật hiện hành đã góp phần giải
quyết các tranh chấp trong quan hệ thương mại quốc tế một cách nhanh
chóng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Trước tình hình đó, việc
lựa chọn phương thức nào để giải quyết tranh chấp có tầm quan trọng đặc biệt
bởi nó có thể quyết định mức độ thiệt hại của doanh nghiệp một khi thương
vụ bị đổ bể. Hiện nay, không có phương thức giải quyết tranh chấp nào chiếm

vị thế tuyệt đối cả. Tuy nhiên, một trong những phương thức được lựa chọn
nhiều nhất trên thế giới để giải quyết các tranh chấp Thương mại Quốc tế đó
là Trọng tài.
“Quyền lực” của Trọng tài xuất phát từ “quyền lực theo hợp đồng” hay
“quyền lực đại diện” do các bên trong quan hệ tranh chấp giao phó. Bởi
“quyền lực này” của Trọng tài không mang tính cưỡng chế đối với các chủ thể
do không xuất phát từ quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, để đạt được hiệu
quả cao trong hoạt động Trọng tài Thương mại Quốc tế, cần phải có cơ chế hỗ
trợ của Nhà nước nhằm đảm bảo cho tố tụng trọng tài được vận hành trơn tru,
phán quyết của trọng tài được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh của nhà nước.
Vấn đề hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài Thương mại Quốc

1


tế chính là thể hiện vai trò của Tòa án – cơ quan đại điện cho Nhà nước trong
việc hỗ trợ quá trình tố tụng của Trọng tài Thương mại Quốc tế kể cả khâu thi
hành phán quyết trọng tài.
Sự ra đời của PLTTTM 2003, BLTTDS 2004 đã thừa nhận vai trò, trách
nhiệm của Tòa án nhân dân trong hỗ trợ hoạt động tố tụng giải quyết tranh
chấp của Trọng tài Thương mại Quốc tế, tuy nhiên quá trình áp dụng trên thực
tế đã bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sót. Để khắc phục những khiếm khuyết này,
pháp luật Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện với sự ra đời của LTTTM
2010, Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
Nhân dân Tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài
Thương mại (Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP), BLTTDS 2015 quy định về
vấn đề hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài Thương mại Quốc tế
khá toàn diện và phù hợp với Luật Mẫu về Trọng tài Thương mại Quốc tế của
Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế 1985 và Quy tắc trọng tài
UNCITRAL. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy có không ít quy định còn

hạn chế, bất cập gây khó khăn trong quá trình áp dụng trên thực tế, ngoài ra
cũng phải nhắc đến những bất cập trong cơ chế quản lý, giám sát, trình độ của
thẩm phán, trọng tài viên,… làm ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam.
Vì thế, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung, thực trạng pháp luật
về vấn đề hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài Thương mại
Quốc tế, đưa ra giải pháp cải thiện sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của
Trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế là vấn đề thiết thực
và vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm đảm bảo cho việc giải
quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng con đường trọng tài đạt hiệu quả
cao. Với mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, em xin chọn đề tài “Pháp

2


luật về hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của Trọng tài Thương mại Quốc
tế theo pháp luật Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài Thương mại
Quốc tế là vấn đề đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu
khoa học như luận văn thạc sỹ luật học “Mối quan hệ giữa Tòa án và Trọng
tài trong giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài” của tác giả
Tào Thị Huệ năm 2012; luận văn thạc sỹ luật học “Mối quan hệ pháp lý giữa
Trọng tài Thương mại và Tòa án trong giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế” của tác giả Nguyễn Ngọc Diệp năm 2016; bài viết “Thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài và vai trò của Tòa án trong quá trình tố tụng trọng tài”
của tác giả Đào Trí Úc đăng trên tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội
số 26/2010; bài viết “Hoàn thiện pháp luật Trọng tài Thương mại Việt Nam
trong việc phân định thẩm quyền của Tòa án và Trọng tài thương mại khi các
bên có thỏa thuận trọng tài” của tác giả Vũ Thị Hương đăng trên tạp chí

Nghề luật, số 1/2015; bài viết “Khái quát về trọng tài, mối quan hệ giữa Tòa
án và Trọng tài ở Liên bang Nga – Kinh nghiệm đối với Việt Nam” của tác
giả Trần Hoàng Hải đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số 2/2011,…Tuy
nhiên, những công trình khoa học trên mới chỉ phân tích quy định của pháp
luật tại thời điểm nghiên cứu và khai thác một số khía cạnh mà chưa đi sâu
nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của pháp luật Việt Nam về
sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài Thương mại Quốc tế.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật
Việt Nam, pháp luật nước ngoài, một số điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên, Luật Mẫu UNCITRAL về vấn đề hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt
động của Trọng tài Thương mại Quốc tế.

3


- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đề cập những vấn đề cơ bản về việc
hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài Thương mại Quốc tế
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Các câu hỏi nghiên cứu
+ Thực trạng pháp luật Việt Nam về hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt
động của Trọng tài Thương mại Quốc tế?
+ Pháp luật Việt Nam về hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng
tài Thương mại Quốc tế có tương thích với pháp luật nước ngoài, Luật Mẫu
UNCITRAL hay không?
+ Những hạn chế, bất cập trong pháp luật Việt Nam và các giải pháp
nâng cao hiệu quả hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài Thương
mại Quốc tế tại Việt Nam?
4. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 đã có hiệu lực thi hành được gần

10 năm (kể từ ngày 1/1/2011). Những quy định pháp luật về Trọng tài
Thương mại không hẳn là do nhận thức trong nước phát triển về vấn đề Trọng
tài mà đôi khi là do sức ép từ việc hội nhập, từ việc ký kết các điều ước quốc
tế. Hiện nay, các tổ chức trọng tài chưa nhiều nhưng cũng bắt đầu có sự phát
triển mạnh mẽ hơn so với giai đoạn trước. Việc nghiên cứu đề tài: “Vấn đề hỗ
trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài Thương mại Quốc tế theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành” hướng tới những mục đích sau:
-Thứ nhất, nghiên cứu vấn đề lý luận về sự hỗ trợ của Tòa án đối với
hoạt động của Trọng tài Thương mại Quốc tế.
-Thứ hai, phân tích và giải thích rõ hơn những quy định của pháp luật
Việt Nam về vấn đề hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài
Thương mại Quốc tế thể hiện chủ yếu ở các văn bản pháp luật: Luật Trọng tài
Thương mại 2010, Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm

4


phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định
Luật Trọng tài Thương mại và Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
-Thứ ba, chỉ ra những điểm chưa rõ ràng, còn mâu thuẫn trong các quy
định của pháp luật về vấn đề hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng
tài Thương mại Quốc tế trong các các văn bản hiện hành.
-Thứ tư, đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ của Tòa án đối
với hoạt động của Trọng tài Thương mại Quốc tế tại Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy
vật Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật,
quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về hoàn
thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Các
phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: phương pháp phân tích, so sánh,

tổng hợp.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Khái quát được một số vấn đề lý luận về sự hỗ trợ của tòa án đối với
hoạt động của trọng tài thương mại quốc tế.
- Làm rõ và đánh giá được thực trạng pháp luật Việt Nam về sự hỗ trợ
của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại quốc tế.
- Đề xuất được những giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả hỗ trợ của
tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam trong
thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của
Trọng tài Thương mại Quốc tế

5


Chương 2: Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài Thương
mại Quốc tế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt
động của Trọng tài Thương mại Quốc tế tại Việt Nam

6


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1.


Khái quát về Trọng tài Thƣơng mại Quốc tế

1.1.1. Khái niệm Trọng tài Thƣơng mại Quốc tế
Theo Plato, Trọng tài đã được sử dụng từ rất lâu ở thời Hy Lạp cổ
đại[38]. Trong xã hội hiện đại, Trọng tài trở thành phương thức chuẩn để giải
quyết các tranh chấp liên quan đến ngành kinh doanh như xây dựng, mua bán
hàng hóa, vận chuyển hay bảo hiểm. Rõ ràng có thể thấy Trọng tài là phương
thức giải quyết tranh chấp được giới kinh doanh trên thế giới ưa chuộng lựa
chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các giao dịch thương mại.
Theo từ điển Black’s Law Dictionary, Trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp liên quan đến một hoặc nhiều chủ thể trung lập (bên thứ ba)
- người mà được sự đồng ý của các chủ thể tranh chấp và quyết định của họ sẽ
ràng buộc các bên.[35, tr.119].
Theo từ điển Oxford Dictionary of Law, Trọng tài được định nghĩa là
quyết định giải quyết tranh chấp của một hoặc nhiều chủ thể thứ ba độc lập
(những trọng tài viên) thay vì Tòa án. Trọng tài viên được chỉ định bởi các
chủ thể có liên quan đến các điều khoản của thỏa thuận trọng tài hoặc do Tòa
án chỉ định.[36, tr.31].
Theo James and Nicholas, Trọng tài được coi như một tiến trình tư được
mở ra theo sự thỏa thuận của các bên nhằm giải quyết một tranh chấp đang
tồn tại hoặc có thể phát sinh bởi một Hội đồng Trọng tài gồm một hoặc nhiều
trọng tài viên. Hội đồng trọng tài này là kết quả của sự lựa chọn của chính các
bên tranh chấp hoặc thông qua những đại diện của họ, và chính các bên cũng
sẽ là những người thiết lập nên các thủ tục mà Hội đồng Trọng tài phải áp

7


dụng để giải quyết tranh chấp. Hay Okezie Chukwumerije cho rằng: “Trọng

tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên lựa chọn hoặc bởi việc
dựa trên những thủ tục hay những tổ chức nhất định được lựa chọn bởi chính
các bên”.[34, tr.7].
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về trọng tài, nhưng rõ ràng,
những đặc điểm cơ bản sau đây của Trọng tài không thể thay đổi: (1) Trọng
tài thường diễn ra trên cơ sở thỏa thuận trọng tài của các bên tranh chấp; (2)
Các bên tranh chấp được quyền quyết định thủ tục trọng tài và có quyền lựa
chọn Hội đồng trọng tài gồm một hoặc một số lẻ khác các trọng tài viên; (3)
Quyết định của Hội đồng trọng tài về toàn bộ vụ tranh chấp có hiệu lực chung
thẩm, buộc các bên phải thực hiện.
Trọng tài Thương mại Quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp và
luôn mang những đặc điểm chung của một trọng tài. Như vậy một trọng tài
được gọi là Trọng tài Thương mại Quốc tế phải chứa đựng hai yếu tố “quốc
tế” và “thương mại”.
Thuật ngữ “quốc tế” được sử dụng để chỉ ra sự khác nhau giữa Trọng tài
thuần túy nội địa và Trọng tài có những yếu tố vượt ra ngoài biên giới quốc
gia. Các trọng tài nội địa thường bắt buộc phải tuân theo những quy định về
Trọng tài của quốc gia đó như: tố tụng trọng tài, luật điều chỉnh nội dung
tranh chấp, ngôn ngữ trọng tài. Nhưng, với Trọng tài Thương mại Quốc tế thì
điều này là không nhất thiết. Có nghĩa là, Trọng tài Thương mại Quốc tế có
thể tiến hành phiên xử và đưa ra phán quyết ở nước ngoài trên cơ sở một trình
tự tố tụng, ngôn ngữ và luật áp dụng cho tranh chấp do chính các bên tranh
chấp thỏa thuận ra.[32, tr.25].
Có thể căn cứ vào hai yếu tố chính để xác định tính “quốc tế” của Trọng
tài đó là: tính chất của tranh chấp và đặc điểm của chủ thể tham gia tranh
chấp.

8



-Tính chất của tranh chấp
Theo khoản 1 Điều 1 Quy tắc tố tụng trọng tài của Phòng Thương mại
Quốc tế ICC năm 1998, chức năng của Tòa án Trọng tài Quốc tế ICC là:
“Giải quyết bằng trọng tài các tranh chấp thương mại có đặc điểm quốc tế
phù hợp với những quy tắc trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế”. ICC
đã không đưa ra bất kỳ khái niệm nào về “tranh chấp thương mại mang đặc
điểm quốc tế”, tuy nhiên trong sách hướng dẫn được xuất bản bởi ICC có đề
cập tới những nội dung về tính chất quốc tế của một tranh chấp: Tính chất
quốc tế của trọng tài không có nghĩa là buộc các bên nhất định phải có quốc
tịch khác nhau. Hợp đồng vẫn có thể mở rộng phạm vi ra khỏi biên giới quốc
gia, khi, ví dụ như, một hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể cùng quốc tịch
nhưng việc thực hiện hợp đồng lại ở một nước khác, hoặc trong trường hợp,
hợp đồng được ký kết giữa một nhà nước và một chi nhánh của một công ty
nước ngoài kinh doanh trên lãnh thổ nước đó.
Điều 1492 Bộ luật Tố tụng Dân sự Cộng hòa Pháp năm 1981 quy định
rằng: “Một trọng tài sẽ được coi là trọng tài quốc tế nếu nó giải quyết các
tranh chấp quyền lợi trong thương mại quốc tế”. Và Tòa án Thượng thẩm
Pháp đã giải thích lại cụm từ “tranh chấp quyền lợi trong thương mại quốc tế”
là “định nghĩa này sẽ bao hàm sự di chuyển hàng hóa hay tiền tệ từ nước này
tới nước khác, hoặc những yếu tố khác như quốc tịch của các bên, địa điểm
ký kết hợp đồng...”.[37, tr.42].
Như vậy, một tranh chấp thương mại sẽ được coi là có tính quốc tế nếu
có liên quan đến bất kỳ yếu tố nước ngoài nào như: nơi thực hiện hợp đồng ở
nước ngoài, hàng hóa di chuyển qua biên giới, nơi giao kết hợp đồng ở nước
ngoài, các bên tham gia hợp đồng ở các nước khác nhau…
-Đặc điểm của chủ thể tham gia tranh chấp

9



Hai dấu hiệu chính để xác định đặc điểm của chủ thể tham gia tranh chấp
là quốc tịch của các chủ thể hoặc trụ sở thương mại của các chủ thể hay nơi
cư trú thường xuyên của họ. Hai dấu hiệu này có thể sử dụng tách biệt nhau
hoặc sử dụng kết hợp với nhau.
Điều I.1(a) Công ước Châu Âu 1961 về Trọng tài Thương mại Quốc tế
quy định: “Công ước này sẽ được áp dụng đối với: (a). Thỏa thuận trọng tài
được ký kết với mục đích giải quyết tranh chấp phát sinh từ thương mại quốc
tế giữa các cá nhân hoặc pháp nhân có cư trú thường xuyên hoặc trụ sở ở các
nước ký kết khác nhau…”.
Điều 176 (1) Đạo luật Tư pháp Quốc tế của Liên bang Thụy Sĩ giới hạn
việc áp dụng Chương 12 của Đạo luật (Chương về Trọng tài Quốc tế) đối với
những vụ việc mà địa điểm trọng tài ở Thụy Sĩ và vào thời điểm ký kết thỏa
thuận trọng tài, ít nhất một bên chủ thể không cư trú ở Thụy Sĩ.
Tại Luật Mẫu UNCITRAL năm 1985 về Trọng tài Thương mại Quốc tế
là một ví dụ điển hình. Điều 1(3) Luật này quy định:
“Trọng tài là quốc tế nếu:
(a)

Các bên tham gia thỏa thuận trọng tài, tại thời điểm ký kết thỏa thuận

trọng tài đó, có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau; hoặc
(b)

Một trong những địa điểm sau đây được đặt ở ngoài quốc gia nơi các

bên có trụ sở kinh doanh;
(i)

Nơi tiến hành trọng tài nếu được xác định trong hoặc theo thỏa thuận


trọng tài;
(ii)

Nơi mà phần chủ yếu của các nghĩa vụ trong quan hệ thương mại

được thực hiện hoặc nơi mà nội dung tranh chấp có quan hệ mật thiết nhất;
(c)

Các bên đã thỏa thuận rõ ràng vấn đề chủ yếu của thỏa thuận trọng

tài liên quan đến nhiều nước”.

10


Theo quy định của Điều 1(3)(a) thì tính quốc tế của trọng tài có liên quan
tới yếu tố chủ thể, trong khi Điều 1(3)(b)(ii) có liên quan tới tính chất quốc tế
của tranh chấp.
Hiện nay, chưa có một khái niệm “thương mại” được chấp nhận chung
trên toàn thế giới. Mặc dù Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi
hành quyết định trọng tài nước ngoài đã nỗ lực ghi nhận một sự giải thích về
thuật ngữ “thương mại” nhưng lại dành cho các nước thành viên quyền bảo
lưu đối với khái niệm này.
Thuật ngữ “thương mại” được hiểu theo nghĩa hẹp là dùng để chỉ các
hoạt động buôn bán hàng hóa của các thương nhân với mục đích tìm kiếm lợi
nhuận. Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì khái niệm
“thương mại” được hiểu theo nghĩa rất rộng.
Trong phần chú thích khoản 1 Điều 1 Luật Mẫu (UNCITRAL) năm
1985, sửa đổi, bổ sung năm 2006 (Luật Mẫu của UNCITRAL), thuật ngữ
“thương mại” được giải thích như sau:

Thuật ngữ “thương mại” phải được giải thích theo nghĩa rộng, để chỉ
những vấn đề liên quan đến các quan hệ có tính chất thương mại, dù quan hệ
đó phát sinh từ hợp đồng hay không có hợp đồng. Ví dụ, quan hệ có tính chất
thương mại gồm một số giao dịch như sau: giao dịch cung cấp trao đổi hàng
hóa, dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện thương mại; ủy nhiệm thu hồi nợ;
thuê mua; xây dựng nhà xưởng; dịch vụ tư vấn; hợp đồng tổng thầu; li-xăng;
đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc giao thầu
công chính; liên doanh hoặc các hình thức hợp tác sản xuất, kinh doanh khác;
vận tải hàng hóa hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt
hoặc đường bộ.
Luật thương mại Thái Lan có phạm vi điều chỉnh khái niệm “thương
mại” khá rộng, bao gồm: mua bán hàng hóa, thuê tài sản, tín dụng, thế chấp,

11


đại diện, môi giới, bảo hiểm, công ty, hợp danh…Luật thương mại Philippine
định nghĩa thương mại là hoạt động của con người nhằm thúc đẩy sự trao đổi
hàng hóa và dịch vụ với mục đích thu lợi nhuận và bao gồm các giao dịch
thương mại trong tất cả các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực vận chuyển hành khách
và hàng hóa.[28, tr.32].
Bộ Luật Thương mại Cộng Hòa Pháp hiện hành dù không đưa ra bất kỳ
định nghĩa nào về “thương mại” nhưng, tại Điều L 110-1 đã liệt kê khá nhiều
hành vi thương mại được thực hiện bởi các thương nhân, như: Mua hàng hóa
để bán lại; mua bất động sản để bán lại; mọi hoạt động trung gian về mua,
thuê, hoặc bán các công trình xây dựng, các cơ sở kinh doanh hay cổ phần của
các công ty bất động sản; cho thuê tài sản,…
Như vậy, tuy được định nghĩa với những ngôn từ khác nhau, song đều
dùng để chỉ những hoạt động có mục đích sinh lợi của thương nhân. Điều này
giúp phân biệt với mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của các giao dịch dân sự như

việc chia tài sản thừa kế, hay các hợp đồng tặng cho, hoặc việc chia tài sản
trong quan hệ ly hôn.
Theo Susan Gualtier, Trọng tài Thương mại Quốc tế là giải quyết các
tranh chấp phát sinh dưới hợp đồng thương mại quốc tế. Nó được sử dụng
như là sự thay thế cho việc kiện tụng tại tòa và được kiểm soát chủ yếu bởi
các điều khoản đã được các bên ký kết trước đó, thay vì theo pháp luật quốc
gia hoặc các quy tắc tố tụng. Hầu hết các hợp đồng có một điều khoản giải
quyết tranh chấp quy định rằng mọi tranh chấp phát sinh trong hợp đồng sẽ
được xử lý thông qua Trọng tài thay vì Tố tụng tại Tòa án. Các bên có thể chỉ
định nơi giải quyết tranh chấp, quy tắc tố tụng và luật điều chỉnh tại thời điểm
hợp đồng.[39]. Theo tác giả Trần Minh Ngọc, Trọng tài Thương mại Quốc tế
là một phương thức giải quyết tranh chấp mà sự bắt đầu của nó dựa trên sự
thỏa thuận của các bên tham gia tranh chấp nhằm giải quyết các tranh chấp
thương mại có yếu tố quốc tế (hay yếu tố nước ngoài) giữa các thương nhân
12


với nhau bởi một Hội đồng trọng tài gồm một hoặc nhiều trọng tài viên trên
cơ sở trình tự thủ tục do các bên tranh chấp thỏa thuận chọn ra. Tính quốc tế
của trọng tài được quyết định dựa trên hai yếu tố, hoặc được sử dụng riêng rẽ
hoặc được kết hợp với nhau đó là tính chất quốc tế của tranh chấp
(International Nature of the dispute) và đặc điểm của chủ thể tham gia tranh
chấp (Identity of the parties).[32, tr.29].
Tóm lại, Trọng tài Thương mại Quốc tế là một phương thức giải quyết
tranh chấp dựa trên sự thỏa thuận của các bên tham gia tranh chấp, nhằm giải
quyết các tranh chấp liên quan trong lĩnh vực thương mại có yếu tố quốc tế.
Tính quốc tế của trọng tài thể hiện ở tính chất quốc tế của tranh chấp hoặc/và
đặc điểm của chủ thể tham gia tranh chấp. Các bên tham gia trọng tài có
quyền chọn Trọng tài viên, nơi giải quyết tranh chấp, quy tắc tố tụng trọng tài.
1.1.2. Các tranh chấp Thƣơng mại Quốc tế phổ biến đƣợc giải quyết

bằng Trọng tài
Tranh chấp Thương mại Quốc tế là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các
bên phát sinh từ hoặc có liên quan đến giao dịch thương mại giữa họ. Sau đây
là một số tranh chấp phổ biến:
- Tranh chấp từ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Tranh chấp này là dạng tranh chấp phổ biến nhất trong Thương mại
Quốc tế. Tranh chấp xảy ra khi các bên đã không hoàn thành một hay nhiều
nghĩa vụ của mình theo quy định trong hợp đồng, kể cả việc thực hiện không
đúng quy cách hoặc thực hiện chậm. Ví dụ như: Tranh chấp liên quan tới việc
không giao nhận hàng hay giao nhận hàng chậm trễ; Tranh chấp do giao hàng
không đúng quy cách, số lượng, chất lượng; Tranh chấp liên quan tới nghĩa
vụ mua bảo hiểm hàng hóa, vận chuyển; Tranh chấp liên quan tới trách nhiệm
hoàn tất thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa; Tranh chấp do vi phạm nghĩa vụ
thanh toán;…

13


- Tranh chấp từ hợp đồng phân phối, đại lý
Loại tranh chấp này thường liên quan tới các bí mật thương mại và quan
hệ làm ăn lâu dài, liên quan đến uy tín lâu năm giữa nhà phân phối đại lý với
người sản xuất, người bán. Ví dụ như: Nhà sản xuất, người bán không cung
cấp hàng hóa cho nhà phân phố, đại lý theo đúng hợp đồng, hoặc vào thời
điểm quy định trong hợp đồng; Nhà sản xuất, người bán cung cấp hàng hóa
cho các đối thủ cạnh tranh của nhà phân phối đại lý; trong trường hợp, hợp
đồng phân phối quy định rõ ràng sự độc quyền cho nhà phân phối, đại lý; Nhà
phân phối, đại lý phân phối hàng hóa ngoài khu vực mà nhà sản xuất người
bán cho phép; Nhà phân phối, đại lý chỉ định nhà phân phối phụ, đại lý phụ,
trong trường hợp nhà sản xuất, người bán không cho phép điều này…
- Tranh chấp từ hợp đồng xây dựng

Tranh chấp này là vô cùng đa dạng, do xuất phát từ tính chất những hợp
đồng xây dựng như: thiết kế công trình kỹ thuật, tiến độ hoàn thành công
việc, chi phí xây dựng lắp đặt các thiết bị, việc thanh toán chi phí toàn bộ hay
một phần công trình của chủ đầu tư, thi công không đúng quy định hoặc chậm
thi công theo quy định tại hợp đầu đã được thỏa thuận giữa nhà thầu và chủ
đầu tư…Tranh chấp này được giải quyết bởi một ủy ban phân xử, gồm một
hoặc ba thành viên theo thủ tục được quy định trong điều kiện hợp đồng của
Liên đoàn Quốc tế các Kỹ sư Tư vấn (FIDIC – International Federation of
Consulting Engineers). Mặc dù vậy, phương thức giải quyết tranh chấp này
không có tính chất bắt buộc với các bên tranh chấp mà trông chờ vào sự tự
nguyện thi hành. Vì vậy vẫn cần tới tòa án hay Trọng tài để giải quyết tranh
chấp.
- Tranh chấp từ hợp đồng vận chuyển quốc tế
Các tranh chấp này thường xuất phát từ một số nguyên nhân như: tranh
cãi về nghĩa vụ lập vận đơn, người thuê vận chuyển đã giao hàng vận chuyển

14


vượt quá số lượng, trọng lượng, khối lượng theo thỏa thuận, chậm thanh toán
cước phí vận chuyển, người chuyên chở không giao hàng đúng địa điểm và
thời hạn được ghi trong vận đơn, hàng hóa vận chuyển bị hư hỏng, hao hụt,
hoặc chậm giờ vận chuyển hành khách, mất mát thất lạc hành lý ký gửi hay
xách tay….Một số phương thức vận chuyển như đường hàng không, hàng hải,
đường bộ hay đường sắt….Vì vậy sẽ tạo ra các loại hợp đồng vô cùng đa
dạng, nhiều tình huống tranh chấp có thể xảy ra.
- Tranh chấp từ hợp đồng sở hữu trí tuệ
Có nhiều loại hợp đồng sở hữu trí tuệ nhưng loại phổ biến nhất là hợp
đồng li xăng (license). Ví dụ như: phạm vi sử dụng đối tượng được chuyển
giao, thanh toán trong hợp đồng, phát triển đối tượng li xăng trong hợp đồng

cấm đoán hành động này, chuyển giao đối tượng li xăng cho người thứ ba, các
trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng,…Tuy nhiên, pháp luật ở một số
quốc gia không cho phép Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh
chấp liên quan đến sở hữu trí tuệ.
- Tranh chấp từ hợp đồng liên doanh
Thông thường, các nước trên thế giới sẽ lựa chọn Tòa án hoặc Trọng tài
để giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư quốc tế. Các tranh chấp này
xuất phát từ các vấn đề như góp vốn, sử dụng vốn, phân bổ nguồn vốn, phân
chia lợi nhuận, bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo, đào tạo nguồn nhân lực, chấm
dứt liên doanh,….
- Tranh chấp tên miền
Ngày nay, mạng Internet là một công cụ không thể thiếu và đem lại
nguồn thu nhập lớn. Vì vậy, các tên miền trên Internet rất hay xảy ra tranh
chấp, bắt nguồn từ những việc như: sử dụng tên miền không được sự đồng ý
của chủ sở hữu, đăng ký và sử dụng tên miền đã được dùng trước đó hoặc có
nội dung tương tư gây nhầm lẫn,…

15


- Các tranh chấp ngoài hợp đồng
Bên cạnh tranh chấp từ hợp đồng còn có những tranh chấp khác liên
quan đến bán phá giá, độc quyền, tung tin thất thiệt, hạ uy tín của đối thủ cạnh
tranh, cản trở quyền tự do kinh doanh của người khác, tranh chấp về bồi
thường ngoài hợp đồng…[34, tr.27]. Mặc dù, hầu hết các tranh chấp ngoài
hợp đồng trong thương mại quốc tế đều có thể giải quyết bằng Trọng tài, tuy
nhiên cũng có những tranh chấp liên quan tới bán phá giá, độc quyền, cạnh
tranh chỉ thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tóm lại, Trọng tài càng ngày càng trở nên được ưa chuộng trên thế giới,
bởi các ưu điểm vượt trội của mình như sự linh hoạt của các quy tắc tố tụng

trọng tài, sự độc lập của trọng tài viên, sự mềm dẻo của các thủ tục hay tính bí
mật của phiên xét xử, và cuối cùng phải nhắc đến sự hỗ trợ giúp đỡ của Tòa
án trong nhiều khâu của tố tụng trọng tài kể cả khâu thi hành phán quyết trọng
tài.
1.2.

Khái quát về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài

Thƣơng mại Quốc tế
1.2.1. Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của
Trọng tài Thƣơng mại Quốc tế
Có thể khẳng định rằng hoạt động của trọng tài thương mại không thể
thoát ly khỏi sự kiểm soát của Nhà nước. Trong quá trình tố tụng trọng tài,
Nhà nước luôn đóng vai trò quan trọng và có tác động nhất định đến hoạt
động của trọng tài. Sự can thiệp đó sẽ là tích cực nếu Nhà nước quan tâm
đúng thời điểm và cần thiết nhằm giúp đỡ các bên tham gia tố tụng trọng tài.
Tuy nhiên, sự can thiệp đó sẽ gây hại nếu quyền và lợi ích của một trong các
bên không được đảm bảo công bằng. Theo thông lệ và tập quán thương mại
của nhiều nước trên thế giới và quốc tế, trọng tài là một quá trình giải quyết
tranh chấp dựa trên sự lựa chọn tự nguyện của các bên tranh chấp. Các bên tự

16


thỏa thuận về phạm vi tranh chấp mà trọng tài được quyền giải quyết, thỏa
thuận về luật áp dụng, thỏa thuận về tính chung thẩm và hiệu lực bắt buộc của
phán quyết trọng tài. Trong khi đó, Tòa án sẽ là cơ quan đại diện quyền lực
Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ và giám sát hoạt động của Trọng tài. Tòa án là
cơ quan Nhà nước xét xử theo pháp luật của Quốc gia giải quyết các tranh
chấp trong phạm vi thẩm quyền mà pháp luật cho phép. Các bản án, quyết

định của Tòa án có hiệu lực bắt buộc đối với mọi công dân, tổ chức có liên
quan và được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do
vậy, chính sự khác biệt về nguồn gốc quyền lực đã tạo nên sự cần thiết phải
gắn kết mối quan hệ của Tòa án và Trọng tài.
Thứ nhất, sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài
Thƣơng mại Quốc tế là một đòi hỏi tất yếu
Hoạt động của Trọng tài Thương mại đòi hỏi sự hỗ trợ của Tòa án
xuất phát từ bản chất “Phi Chính phủ” của trọng tài: Trong tài không đại
diện cho nhà nước nên cũng không có tính quyền lực nhà nước. Trọng tài
là phương thức giải quyết tranh chấp dựa trên sự tự nguyện của các bên.
Bằng một Điều khoản trọng tài trong hợp đồng hay một thỏa thuận trọng
tài lập ra sau khi có tranh chấp phát sinh. Các bên tự thỏa thuận về phạm
vi các tranh chấp mà trọng tài được quyền giải quyết, thủ tục trọng tài,
trọng tài viên,…vì thế, thẩm quyền của trọng tài thương mại bắt nguồn từ
quyền lực trong hợp đồng hay quyền lực đại diện do các bên tranh chấp
giao phó, ủy nhiệm. Ngược lại, Tòa án là cơ quan đại diện quyền lực Nhà
nước để xét xử các tranh chấp trong phạm vi quyền hạn của mình. Mọi
bản án, quyết định của Tòa án sẽ có hiệu lực bắt buộc đối với mọi cá
nhân, tổ chức có liên quan và được đảm bảo thi hành bằng các biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước.

17


Về sự hỗ trợ, Trọng tài có quyền quyết định có hiệu lực bắt buộc đối với
các bên tranh chấp nhưng lại không có quyền ra lệnh bắt buộc đối với bất kỳ
bên thứ ba nào khác có liên quan đến tranh chấp; Hay như việc thành lập Hội
đồng trọng tài vụ việc, thay đổi trọng tài viên, việc tòa án hỗ trợ áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trọng tài chỉ có thể hoạt động trong phạm vi
thẩm quyền do các bên giao phó, cụ thể là trọng tài chỉ được giải quyết một số

loại tranh chấp nhất định và theo cách thức nhất định do các bên lựa chọn và
thỏa thuận trong điều khoản trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài. Nếu trọng tài
vượt quá thẩm quyền được ủy nhiệm hoặc không tuân thủ các nguyên tắc tố
tụng trong thỏa thuận trọng tài, không thực hiện đầy đủ, đúng đắn, khách
quan, vô tư, công bằng trách nhiệm được các bên giao phó thì theo nguyên tắc
đại diện, các quyết định của trọng tài sẽ có thể bị chính các bên tranh chấp
yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, hủy bỏ, không công nhận
và không cho thi hành để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của họ và để thực thi
công lý. Mặc dù phán quyết của trọng tài là chung thẩm và có giá trị bắt buộc
các bên phải thi hành, tuy nhiên trọng tài lại không có quyền lực bắt buộc các
bên phải thi hành quyết định của mình. Bởi sự hạn chế về mặt quyền lực của
mình, nên quá trình trọng tài muốn diễn ra suôn sẻ và đạt hiệu quả thì sự giúp
đỡ của Tòa án đóng vai trò vô cùng quan trọng để lấp khoảng trống này của
trọng tài.
Thứ hai, sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài Thƣơng
mại Quốc tế là nhu cầu mang tính lịch sử
Giai đoạn trước khi PLTTTM 2003 ra đời, Tòa án và Trọng tài dường
như hoàn toàn biệt lập với nhau. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với các hoạt động
của Trọng tài thương mại gần như là mờ nhạt.
BLTTDS 2004 và PLTTTM 2003 ra đời đã đánh dấu mốc quan trọng
trong quá trình cải thiện mối quan hệ giữa Tòa án và Trọng tài thương mại.

18


Các văn bản pháp luật đã thừa nhận vai trò, trách nhiệm của Tòa án Nhân dân
trong việc hỗ trợ, giám sát hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp của Trọng
tài thương mại. PLTTTM 2003 đã có những quy định về sự hỗ trợ của Tòa án
đối với các Trung tâm trọng tài như:
-Tòa án chỉ định Trọng tài viên trong trường hợp các bên thỏa thuận giải

quyết vụ án tranh chấp tại Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập được quy
định tại Điều 26 PLTTTM 2003.
-Thay đổi Trọng tài viên theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 27
PLTTTM 2003.
-Áp dụng, thay đổi hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Điều 33
PLTTTM 2003.
-Hủy bỏ phán quyết của Trọng tài, theo quy định tại Điều 54 PLTTTM
2003
Vào thời điểm năm 2007, Tòa án Kinh tế TAND TP Hà Nội đã giải
quyết 80 vụ việc và đội ngũ cán bộ có 10 người trong đó chỉ có 5 thẩm phán
và 5 thư ký. Tòa Kinh tế TAND TP Hà Nội rất muốn công việc được phân tải
sang bên Trung tâm Trọng tài thương mại nhưng rất khó vì nhiều doanh
nghiệp vẫn cứ yêu cầu Tòa án giải quyết.
Xuất phát từ thực tiễn đó, LTTTM 2010 đã ra đời nhằm khắc phúc
những hạn chế của PLTTTM 2003. Về cơ bản, quy định của LTTTM 2010 đã
thúc đẩy sự hỗ trợ từ phía cơ quan nhà nước và đẩy mạnh sự giám sát của cơ
quan Tòa án. Tuy nhiên, một số quy định vẫn còn chưa rõ ràng cần có văn
bản hướng dẫn thi hành và cần có sự giúp đỡ thêm từ một số quy định của
BLTTDS.
Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định
của LTTTM 2010 thông qua ngày 20 tháng 03 năm 2014 và có hiệu lực ngày
01 tháng 07 năm 2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao.

19


×