Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

Thi hành án dân sự liên quan đến phật giáo qua thực tiễn tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.62 KB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒ THỊ THU HẰNG

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ LIÊN QUAN ĐẾN PHẬT GIÁO
QUA THỰC TIỄN TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Công Bình


HÀ NỘI - 2013

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.


Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

HỒ THỊ THU HẰNG


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Bảng chữ viết tắt
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.............................................1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài..................................................................2

3.

Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài...............................4

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài..............................................5


5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài.........................5

6.

Tính mới và đóng góp của việc nghiên cứu đề tài................................5

7.

Kết cấu của luận văn............................................................................6

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO VÀ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ LIÊN QUAN ĐẾN PHẬT GIÁO......................................7
1.1.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM..........................7

1.1.1. Lược sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam.........................7
1.1.2. Chính sách của Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo.........................15
1.2.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ LIÊN QUAN
ĐẾN PHẬT GIÁO.............................................................................21

1.2.1. Đặc điểm Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo....................21
1.2.2. Các yêu cầu trong thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo..........26
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ LIÊN QUAN ĐẾN PHẬT GIÁO Ở THỪA THIÊN - HUẾ
............................................................................................................31

2.1.

THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở THỪA THIÊN - HUẾ
............................................................................................................31


2.1.1. Các yếu tố tự nhiên - xã hội có ảnh hưởng đến công tác thi hành
án dân sự ở Thừa Thiên - Huế............................................................31

2


2.1.2. Tổ chức cơ quan thi hành án dân sự ở tỉnh Thừa Thiên - Huế...........35
2.1.3. Hoạt động thi hành án dân sự ở Thừa Thiên - Huế............................39
2.2.

THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ LIÊN QUAN ĐẾN
PHẬT GIÁO Ở THỪA THIÊN - HUẾ..............................................42

2.2.1. Thực trạng Phật giáo ở Thừa Thiên - Huế..........................................42
2.2.2.

Đặc điểm thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo ở Thừa Thiên - Huế.....48

2.2.3.

Hoạt động thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo ở Thừa Thiên - Huế
............................................................................................................54

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ RÚT RA TỪ THỰC TIỄN TỔ

CHỨC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ LIÊN QUAN ĐẾN PHẬT
GIÁO Ở THỪA THIÊN - HUẾ........................................................89
3.1.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ..........................................................................89

3.1.1. Về hoàn thiện các quy định thủ tục thi hành án.................................89
3.1.2. Về hoàn thiện các quy định cưỡng chế thi hành án dân sự................95
3.1.3. Về hoàn thiện các chế tài để xử lý nghiêm minh đối với Tăng, Ni,
Phật tử vi phạm pháp luật.................................................................101
3.2.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ........................................................................102

3.2.1. Về tổ chức cán bộ.............................................................................102
3.2.2. Về tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan và tổ chức.................107
3.2.3. Về tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật.............................109
KẾT LUẬN..................................................................................................113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................115


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

CQTHADS

: Cơ quan thi hành án dân sự

CHV


: Chấp hành viên

GHPGVN

: Giáo hội phật giáo Việt Nam

GHPGVNTN

: Giáo hội phật giáo Việt Nam Thống nhất

HĐND

: Hội đồng nhân dân

LTHADS

: Luật Thi hành án dân sự năm 2008

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

QĐTHA

: Quyết định thi hành án

THA

: Thi hành án


THADS

: Thi hành án dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Công tác thi hành án (THA) nói chung và thi hành án dân sự (THADS)
nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động Nhà nước và đời sống
xã hội. Về phương diện nhà nước, THA là một trong những phương thức thực
hiện quyền lực nhà nước về tư pháp, giữ nghiêm kỷ cương phép nước, bảo vệ
lợi ích của nhà nước. Đối với đời sống xã hội, THA góp phần bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và mọi công dân, tạo ra niềm tin
vững chắc của quần chúng nhân dân đối với pháp luật của Nhà nước và bảo
đảm trật tự trị an xã hội.
Khi nói đến công tác THADS, hầu hết mọi người đều có một quan
điểm chung, đây là một công tác hết sức khó khăn và phức tạp. Chính điều
này đã làm cho hiệu quả THADS thường đạt kết quả thấp. Bên cạnh đó, khối
lượng công việc đồ sộ và tính phức tạp của nó ngày càng tăng đã dẫn đến số
vụ việc tồn đọng chưa giải quyết ở các cơ quan thi hành án ngày một tăng làm
ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật và ảnh hưởng đến tình

hình chính trị tại địa phương. Vì vậy, vấn đề này không những thường xuyên
được quan tâm đề cập tại các kỳ họp của Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp
mà cũng được quan tâm ngay cả tại các kỳ họp của Quốc hội. Các cấp có
thẩm quyền cần phải khẩn trương hoàn thiện cơ chế pháp luật về THADS,
kiện toàn tổ chức bộ máy để nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan thi
hành án dân sự (CQTHADS) trong cả nước nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng là vấn đề cấp thiết nhất trong giai đoạn hiện nay.
Cho đến nay, hệ thống các CQTHADS đã được thành lập trên 63 tỉnh,
thành và đã điều hành thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, nét đặc
thù riêng của hoạt động THADS là nó có sự phụ thuộc rất lớn vào điều kiện

1


phát triển, hoàn cảnh kinh tế - xã hội của từng địa phương cụ thể. Chúng ta
biết rằng, khả năng thi hành pháp luật trên thực tế phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế, trình độ học vấn, sự nhận thức cũng như ý thức chấp hành pháp luật
của người dân, sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan
hữu quan…Từ những vấn đề đó, trong quá trình tổ chức THADS, CQTHADS
có thể cá thể hóa việc áp dụng pháp luật cho từng đối tượng cụ thể. Tất nhiên
khi áp dụng các chế tài dân sự thường dẫn đến những hậu quả phức tạp, xáo
trộn về hoạt động trong đời sống xã hội, vì thế công tác THADS phải có sự
gắn kết với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Hơn thế nữa
tỉnh Thừa Thiên - Huế là một trong những địa bàn được xem là vùng trọng
điểm tôn giáo của cả nước. Ở đây, có các tôn giáo lớn như Phật giáo, Công
giáo. Tính riêng Phật giáo, theo số liệu thống kê, tín đồ theo đạo Phật lớn nhất
trong dân cư, chiếm 60% dân số toàn tỉnh (quy y và không quy y). Hiện nay,
cán bộ làm công tác THADS vẫn chưa tìm hiểu kỹ hệ thống tổ chức của Phật
giáo và thật sự chưa nhận thức được tầm ảnh hưởng của giáo hội mà đứng đầu
là Ban trị sự giáo hội phật giáo tỉnh đến các tăng ni, phật tử đối với công tác
THADS. Do đó, trong quá trình tổ chức THADS đối với các vụ việc có liên

quan đến Phật giáo vẫn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, chưa thật sự đảm
bảo được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật và hiệu quả công tác
THADS chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và sự quan tâm,
mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Để góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập nhằm nâng cao hiệu quả
công tác thi hành án dân sự, nhất là công tác thi hành án dân sự liên quan đến
Phật giáo, tác giả chọn đề tài: “Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo
qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế” để làm Luận văn Thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thi hành án dân sự là một lĩnh vực tương đối rộng và phức tạp. Vì vậy,

2


thời gian qua đã có một số công trình và bài viết trên các tạp chí về THADS,
như: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi
hành án”, mã số 96-98-207/ĐT do Cục quản lý thi hành án dân sự Bộ Tư
pháp chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Những cơ sở lý
luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại”, mã số 95-98-114/ĐT do Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí
Minh chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước: “Luận cứ
khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở
Việt Nam trong giai đoạn mới” do Viện nghiên cứu khoa học pháp lí thuộc Bộ
Tư pháp chủ trì thực hiện năm 2003; và công trình nghiên cứu khác, như:
Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Công Long (2000): “Các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự. Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện”; Luận
văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thanh Thủy (2001): “Hoàn thiện pháp luật
về thi hành án dân sự”; Luận văn thạc sĩ luật học của Trần thị Bích Thủy:
“Đổi mới tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự thực tiễn tại thành phố
Hồ Chí Minh”; Luận văn thạc sĩ luật học của Cù Hoàng Hanh (2008): “Đổi

mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh
Thừa Thiên Huế”; Luận văn thạc sĩ luật học của Đỗ Thị Lý (2010): “Thực
tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Thái Bình”; Hoàng Thọ Khiêm (2006): “Đổi
mới tổ chức cơ quan thi hành án”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội; Đề tài
khoa học cấp cơ sở: “Triển khai áp dụng Luật thi hành án dân sự trong công
tác đào tạo nghiệp vụ thi hành án” do TS Lê Thu Hà, trưởng khoa đào đạo
Chấp hành viên và các chức danh tư pháp khác làm chủ nhiệm; “Những
vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự”, của Nguyễn Thị
Khanh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 05/2010; “Công tác cán bộ thi hành
án dân sự - Một số vấn đề từ thực tiễn” của Đinh Duy Bằng, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật, số 09/2010; “Vướng mắc trong hoạt động thi hành án dân sự”

3


của Ngọc Biên, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 09/2011; “Một số khó khăn
sau hai năm áp dụng Luật Thi hành án dân sự” của Lạc Phong, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, số 02/2012; “Nguyên nhân của tình trạng án dân sự tồn
đọng” của Hoàng Thế Anh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 06/2012; Giáo
trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội;
Giáo trình kỹ năng thi hành án dân sự của Học viện tư pháp và một số bài viết
trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí luật học, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật; Tin thi hành án dân sự,…Đây là những công trình nghiên cứu công
phu, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi
hành án dân sự ở Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chỉ đề
cập đến các vấn đề mang tính chung trên phạm vi cả nước còn vấn đề về thi
hành án dân sự liên quan đến Phật giáo từ thực tiễn ở một địa phương cụ thể
thì chưa được nghiên cứu và đề cập đến. Thế nhưng, đây vẫn là những tài liệu
nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện việc
nghiên cứu đề tài luận văn của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận
về THADS cũng như thực trạng của công tác THADS nói chung và công
tác THADS liên quan đến Phật giáo nói riêng trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên
- Huế, từ đó tìm ra nguyên nhân và những giải pháp tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan THADS
trong giai đoạn hiện nay
Để thực hiện được mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ
nghiên cứu một cách có hệ thống một số vấn đề lý luận về THADS như khái
niệm, ý nghĩa và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của CQTHADS ở Việt
Nam; khảo sát thực trạng của công tác THADS ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, phát
hiện những vấn đề tồn tại, vướng mắc, tìm ra nguyên nhân và đề xuất được

4


những giải pháp cơ bản cần giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
THADS nói chung và công tác THADS liên quan đến Phật giáo nói riêng ở
tỉnh Thừa Thiên - Huế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng của việc nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận cơ bản về
THADS, các quy định pháp luật Việt Nam về THADS và thực tiễn tổ chức
THADS của các CQTHADS tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Tổ chức và hoạt động THADS là lĩnh vực rộng, phức tạp có liên quan
đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu đề
tài chủ yếu tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản về THADS, các vấn đề
liên quan đến quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Phật giáo, các quy định
của pháp luật THADS hiện hành và thực tiễn thực hiện chúng ở tỉnh Thừa
Thiên - Huế. Trong đó, tập trung nghiên cứu những vấn đề THADS có liên
quan đến Phật giáo.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp.
Các phương pháp được sử dụng nghiên cứu đề tài bao gồm: Phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh và phương pháp
thực tiễn. Trong đó, phương pháp thực tiễn là phương pháp được sử dụng chủ
yếu trong quá trình thực hiện đề tài nhằm qua thực tiễn làm rõ những vấn đề
về THADS liên quan đến Phật giáo.
6. Tính mới và đóng góp của việc nghiên cứu đề tài
Đây là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đầu tiên về THADS liên
quan đến Phật giáo. Việc nghiên cứu đã đưa ra và luận giải được một số quan

5


điểm về THADS nói chung và THADS liên quan đến Phật giáo nói riêng;
những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang đặt
ra đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của CQTHADS. Qua đó, việc
nghiên cứu bổ sung, làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về THADS.
Trên cơ sở lý luận soi rọi vào thực tiễn THADS, quan điểm của Đảng,
Nhà nước về cải cách hành chính, cải cách tư pháp nói chung và THADS nói
riêng, việc nghiên cứu đã đưa ra được một số giải pháp chủ yếu về hoàn thiện
và thực hiện pháp luật THADS, đổi mới tổ chức và hoạt động THADS nhằm
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,nội dung
của luận văn gồm có 3 chương.

Chương 1: Một số vấn đề về Phật giáo và thi hành án dân sự liên quan
đến Phật giáo
Chương 2: Thực trạng thi hành án dân sự ở Thừa Thiên - Huế và thi
hành án dân sự liên quan đến Phật giáo ở Thừa Thiên - Huế
Chương 3: Một số kiến nghị rút ra từ thực tiễn tổ chức thi hành án dân
sự liên quan đến Phật giáo ở Thừa Thiên - Huế

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO VÀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
LIÊN QUAN ĐẾN PHẬT GIÁO
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1.1. Lược sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam
Phật giáo là một tôn giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, vào khoảng
đầu Công nguyên. Truyền vào Việt Nam, Phật giáo đã hoà nhập thích nghi và
kết hợp với đời sống tâm linh, văn hoá của người dân Việt Nam nên có những
đặc điểm riêng biệt làm cho Phật giáo ở Việt Nam trở nên linh hoạt, phong
phú. Phật giáo Việt Nam trở thành một tôn giáo gắn bó giữa đạo với đời, thể
hiện tinh thần nhập thế; có truyền thống yêu nước, gắn bó, cùng đồng hành
với dân tộc trong những giai đoạn thăng trầm của đất nước; góp phần đấu
tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam. Văn hoá, đạo đức Phật giáo thấm đẫm trong tâm tưởng phần lớn con
người Việt Nam, đã góp phần tạo dựng nên nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản
sắc dân tộc.
Lật lại những trang sử của dân tộc, chúng ta biết rằng dưới ách thống trị
của thực dân Pháp, đạo Phật chỉ được xem là một hội đoàn (Đạo dụ số 10 của
Cựu Hoàng Bảo Đại ký vào ngày 6/8/1950 trên một chiếc tàu của thực dân
Pháp cắm neo tại vịnh Hạ Long) [2, tr.487]. Do vậy, hoạt động và quy mô tổ

chức của Phật giáo thời bấy giờ rất lỏng lẻo, thiếu sự thống nhất, đòi hỏi cần
phải có một tổ chức Phật giáo ra đời để tập hợp lực lượng Tăng Ni, Tín đồ.
Tình hình đó diễn tiến qua những phong trào chấn hưng Phật giáo của các bậc
cao tăng thạc đức có uy tín từ những thập niên 30, 40 của thế kỷ trước. Tuy
vậy, vấn đề truyền bá chánh pháp, xây dựng tổ chức Giáo hội, tập hợp quần
chúng tín đồ của Phật giáo chỉ thực sự lớn mạnh sau khi 06 tập đoàn lớn của

7


Phật giáo 3 miền Bắc - Trung - Nam (03 tập đoàn tăng già và 03 tập đoàn cư
sỹ) cử đại biểu về họp tại Chùa Từ Đàm - Huế để bàn việc thống nhất Phật
giáo. Sau 4 ngày họp, từ ngày 06-09/5/1951, Hội nghị đã đồng thanh quyết
nghị thành lập “Tổng hội Phật giáo Việt Nam” Hòa thượng Thích Tịnh Khiết
(Huế) được suy tôn làm Hội chủ [ 46, tr.14].
Năm 1954, sau Hiệp định Geneve được ký kết, đất nước bị chia đôi.
Miền Nam sống trong vùng tạm chiếm của Mỹ - Ngụy. Cùng chung số phận
của đất nước, tổ chức Phật giáo của hai miền cũng khác nhau. Tổng hội Phật
giáo Việt Nam lúc bấy giờ thuộc ở miền Nam trên danh nghĩa tuy còn 06 tập
đoàn nhưng thực chất đã bị sứt mẻ rất nhiều vì chỉ còn hoạt động từ vĩ tuyến
17 trở vào. Tại miền Bắc vào những năm 1960, Hội Phật giáo Thống nhất Việt
Nam đã được thành lập để tập hợp Tăng Ni, Phật tử, trụ sở đóng tại Chùa
Quán Sứ ở Hà Nội do Hòa thượng Thích Trí Độ làm hội trưởng.
Ở miền Nam, dưới chế độ gia đình trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm
đã thực thi chính sách kì thị tôn giáo, dựa hẳn vào Công giáo và ra tay đàn áp,
chèn ép các tôn giáo khác, nhất là Phật giáo. Chính sách kì thị tôn giáo của
Ngô Đình Diệm thể hiện ở việc thực thi Đạo dụ số 10 của Bảo Đại ngày
6/8/1950. Đạo dụ này ưu đãi Công giáo và cho phép kiềm chế các tôn giáo
khác: “Quốc trưởng Bảo Đại bị phế truất năm 1950 nhưng Đạo dụ số 10 do
ông ký vẫn được chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành, bởi vì Đạo dụ này

không ràng buộc Công giáo vào thể chế hiệp hội và cho phép kiềm chế các
tôn giáo khác” [34, tr.17]. Lễ Phật đản năm 1963, Ngô Đình Diệm đã trấn áp
Phật giáo Huế bằng các phương tiện xe tăng, lựu đạn, hàng rào thép gai….
Trước pháp nạn đó, Phật giáo Huế cùng Tăng Ni, tín đồ Phật giáo cả nước
không chịu khuất phục mà anh dũng đấu tranh với chính quyền tay sai Ngô
Đình Diệm, bảo vệ phật pháp và cứu đời. Noi gương Thượng tọa Thích
Quang Đức và nhà sư Nguyên Hương, các đại đức Thanh Tuệ, đại đức Tiêu

8


Diêu đã liên tiếp tự thiêu tại Huế để chống chính sách kỳ thị tôn giáo, tàn
nhẫn với nhân dân của nhà họ Ngô. Phong trào này từ Huế lan tỏa khắp miền
Nam và trên thế giới ngày càng quyết liệt, phong trào đấu tranh Phật giáo
bùng lên mạnh mẽ đã hòa cùng cách mạng cả nước đánh sập ngụy quyền Ngô
Đình Diệm. Sau khi thắng lợi, những vị đứng đầu các tổ chức hệ phái Phật
giáo ở miền Nam đã đi đến thống nhất quyết định triệu tập một Đại hội để
thành lập một tổ chức Phật giáo chung. Từ ngày 31/12/1963 đến ngày
04/01/1964 Đại hội thống Nhất phật giáo miền Nam được tổ chức tại chùa Xá
Lợi, Sài Gòn đã thông qua Hiến chương gồm có 11 Chương, 32 Điều và lấy
tên tổ chức này là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” (GHPGVNTN)
lãnh đạo Phật giáo miền Nam thay “Tổng hội Phật giáo Việt Nam.”
GHPGVNTN tập hợp bởi 11 tổ chức hệ phái Phật giáo ở miền Nam,
bao gồm: Giáo hội Tăng già Nguyên thủy, Giáo hội Tăng già Trung phần,
Giáo hội Thiền định đạo tràng, Giáo hội Tăng già Nam Việt, Giáo hội Tăng
già Bắc Việt, Giáo hội Tăng sĩ THERAVADA (Khơ-me), Hội Phật giáo
Nguyên thủy, Hội Phật học Việt Nam, Giáo phái THERAVADA, Hội Phật
giáo Việt Nam Trung phần, Hội Việt Nam Phật giáo. Nhân sự khóa đầu của
GHPGVNTN gồm có hai Viện đó: là Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo. Hòa
thượng Thích Tịnh Khiết được suy tôn làm Tăng Thống, Thượng tọa Thích

Trí Quang được suy tôn làm Chánh Thư ký Viện Tăng Thống. Còn Thượng
tọa Thích Tâm Châu được suy tôn làm Viện trưởng Viện Hóa Đạo. Trụ sở của
GHPGVNTN đặt tại Việt Nam Quốc Tự [ 34, tr.18].
Sau khi thành lập được ít ngày, sự thống nhất đã bị rạn nứt giữa
Thượng tọa Thích Tâm Châu- Viện trưởng Viện Hóa Đạo và Thượng tọa
Thích Trí Quang- Chánh Thư ký Viện Tăng Thống. Mối rạn nứt ngày càng
lớn giữa phái Thượng tọa Thích Tâm Châu với phái Thượng tọa Thích Trí
Quang. Giáo phái Theravada đòi rút khỏi GHPGVNTN. Do mối mâu thuẫn

9


ngày càng tăng, ngày 08/9/1966 Thượng tọa Thích Tâm Châu gửi đơn cho
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết xin từ chức Viện trưởng. Ngày 15/9/1966,
Thượng tọa Thích Tâm Châu lại trở về đem theo 200 cảnh sát đến Việt
Nam Quốc Tự và ngày 21/9/1966 Thượng tọa Thích Tâm Châu gửi thư xin
rút đơn từ chức.
Ngày 21/9/1966 Đại hội Phật giáo Thống nhất được tổ chức tại Sài Gòn
(thành phố Hồ chí Minh). Lập trường của Vĩnh Nghiêm (miền Bắc di cư vào
Nam) theo phái Thượng tọa Thích Tâm Châu, Giáo phái Theravada, Tỉnh hội
Phật giáo Gia Định tuyên bố: Giáo hội chẳng cần bầu nữa, Đại hội đã xét bầu
lại Viện Hóa Đạo. Nhiều vụ lộn xộn, nhiều ý kiến bất đồng do chủ mưu
Thượng tọa Thích Tâm Châu gây hấn phá vỡ hội nghị này. Ngày 26/9/1966,
Đại hội Phật giáo Thống nhất họp, nhiều cãi vã, lộn xộn, xô xát nhau, có nhiều
tiếng súng bắn chỉ thiên. Gần sáng ngày 27/9/1966, Tăng Ni bị khối Tâm Châu
là Vĩnh Nghiêm gây rối vác cuốc đánh chư Tăng. Trước tình cảnh đó, Đại hội
lui về Chùa Ấn Quang và bầu Thượng tọa Thích Thiện Hoa làm Viện trưởng
Viện Hóa Đạo, Thượng tọa Thích Trí Quang từ chức Chánh Thư ký Viện Tăng
Thống. Đồng thời quyết định văn phòng Viện Hóa Đạo tạm đặt tại Chùa Ấn
Quang, đường Sư Vạn Hạnh. Những mâu thuẫn tiếp tục kéo dài và căng thẳng,

Thượng tọa Thích Tâm Châu ra thông báo vẫn giữ chức Viện trưởng Viện Hóa
Đạo, trụ sở đặt tại Chùa Ấn Quang (sau quen gọi là phái Ấn Quang). Ngày
28/10/1966 Tăng Thống Thích Tịnh Khiết ra lệnh triệu tập Đại hội Phật giáo để
giải quyết vấn đề hai Viện Hóa Đạo nhưng không đạt kết quả.
Ngày 24/12/1966, Thượng tọa Thích Tâm Châu đề nghị sửa Hiến
chương Phật giáo và Hiến chương mới của GHPGVNTN phái Việt Nam
Quốc Tự được chính quyền Ngụy Sài Gòn phê duyệt với Sắc luật 23/67.
Sau khi lập xong Hiến chương mới (23/67) Thượng tọa Thích Tâm Châu
tuyên bố từ chức Viện trưởng Viện Hóa Đạo của Việt Nam Quốc Tự, cử

10


Thượng tọa Thích Thiện Tường làm Viện trưởng Viện Hóa Đạo Việt Nam
Quốc Tự và cử Lục Cả Lâm Em giữ chức Tăng Thống. Ngày 02/01/1967,
Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Theravada quyết định rút khỏi
GHPGVNTN. Ngày 11/9/1967, Tăng thống Thích Tịnh Khiết triệu tập
trưởng phái đoàn các tổ chức giáo phái (11 tổ chức) tham gia sáng lập
GHPGVNTN họp bàn kháng nghị việc Hiến chương 23/67 nhưng không
thành công. Do vậy, Hiến chương 23/67 vẫn được thi hành.
Ngày 28/10/1967 phái GHPGVNTN (Ấn Quang) trở về Việt Nam
Quốc Tự. Lễ xuất phát về lại Việt Nam Quốc Tự bị cảnh sát đến bao vây và cô
lập chùa Ấn Quang nhằm ngăn ngừa không cho tới chiếm Việt Nam Quốc Tự.
Cuộc trở về này bất thành. Sau khi Thượng tọa Thích Thiện Tường từ chức
Viện trưởng Viện Hóa Đạo Việt Nam Quốc Tự, Thượng tọa Minh Thành được
cử lên thay thế một thời gian đã ký giấy trao trả Việt Nam Quốc Tự cho
GHPGVNTN (Ấn Quang) vào ngày 04/5/1970. Ngày 05/5/1970 phái Ấn
Quang đến tiếp nhận Việt Nam Quốc Tự thì bị chống trả và nổ ra thảm sát tại
đây, đốt cháy toàn bộ mặt tiền Viện Hóa Đạo làm cho một số người bị chết và
bị thương. Thời gian này, khối thống nhất trong phái GHPGVNTN (Ấn

Quang) cũng tiếp tục rạn nứt. Sau khi Thượng tọa Thiện Hoa viên tịch tháng
01/1972 nghi ngờ lớn lại nổ ra trong việc tranh chấp vị trí lãnh đạo. Do đó,
Đại hội kỳ V của GHPGVNTN (Ấn Quang) diễn ra vào ngày 10 đến
12/12/1973 gặp nhiều trở ngại bất thành, vì nổi lên sự vận động tranh chấp
của Thượng tọa Thiện Minh và Thượng tọa Huyền Quang với phái của
Thượng tọa Thích trí Quang để nắm giữ quyền lãnh đạo chủ chốt Giáo hội
này dẫn đến Đại hội kỳ V tan vỡ.
Ngày 08/01/1974, GHPGVNTN cử người ra Huế mời Hòa thượng
Tăng thống Thích Giác Nhiên vào Sài Gòn để dàn xếp nhưng cuộc dàn xếp
này không thành, Thượng tọa Thiện Minh và Thượng tọa Huyền Quang

11


không chịu từ chức và mặc cả như sau: Nếu muốn được giáo chỉ ổn thỏa bổ
nhiệm Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Viện trưởng Viện Hóa Đạo nhiệm kỳ
1974-1975 thì phải dành cho hai Thượng tọa Thiện Minh và Huyền Quang
chức Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo. Sau Đại hội V của GHPGVNTN, sự
rạn nứt tiếp tục nảy sinh và chống đối nhau, 11 tổ chức hệ phái khi đứng ra
thành lập GHPGVNTN hầu như vẫn giữ nguyên tổ chức, hệ phái của mình
cho đến 30/4/1975. Mặc dù bị chi phối bởi những khuynh hướng tiêu cực
nhưng tuyệt đại đa số Tăng Ni và Phật tử gắn bó với dân tộc, tiếp tục duy trì
truyền thống yêu nước, tham gia vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.
Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, từ đó GHPGVNTN vẫn
hoạt động ở Việt Nam, tiếp tục thực hiện Phong trào Chấn hưng Phật giáo
trong điều kiện đất nước hoàn toàn thống nhất đông đảo Tăng Ni, Phật tử có
tâm nguyện thống nhất các tổ chức hệ phái Phật giáo thành một giáo hội.
Ngày 25/4/1976, tổng tuyển cử chung cho cả nước đã được tổ chức, mở đầu
một kỷ nguyên mới. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên dải non

sông gấm vóc từ Lạng Sơn đến Minh Hải, thống nhất trong cơ chế chính trị và
tổ chức nhà nước. Đây là cơ hội tốt nhất trọng lịch sử Phật giáo Việt Nam
chưa từng có. Các vị tôn túc, các vị đứng đầu trong chín hệ phái tổ chức Phật
giáo trong cả nước đều nhất trí tổ chức Hội nghị đại biểu thống nhất Phật giáo
Việt Nam [34, tr.25].
Ngày 19/9/1981 Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (nay là Chính phủ) ký Quyết định 621/V8 cho phép Ban Vận động
thống nhất Phật giáo Việt Nam tiến hành tổ chức Đại hội thống nhất Phật giáo
Việt Nam. Tháng 11-1981, Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo đã được
tổ chức tại Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 165 đại biểu tăng ni, cư sĩ đại
diện cho 9 tổ chức, hệ phái trong cả nước gồm: Giáo hội Phật giáo Việt Nam

12


Thống nhất, Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Cổ
truyền Việt Nam, Ban Liên lạc Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo hội
Tăng già Nguyên thuỷ Việt Nam, Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước Tây Nam Bộ,
Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam, Giáo hội Thiên Thai giáo Quán tông,
Hội Phật học Nam Việt. Hội nghị đã nhất trí thành lập Giáo hội Phật giáo
Việt Nam, thông qua Hiến chương và đường hướng hoạt động "Đạo pháp Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. Kết quả cao nhất có tính quyết định sự thành
công lớn của Hội nghị là đã được Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ban hành Quyết định số 83-BT ngày 29/12/1981 cho
phép thành lập Giáo hội phật giáo Việt Nam (GHPGVN), phê chuẩn văn kiện,
hiến chương Giáo hội (gồm lời nói đầu và 11 chương, 46 điều). Công nhận tư
cách pháp nhân của Giáo hội phật giáo Việt Nam và thành phần lãnh đạo hai
Hội đồng tại Trung ương Giáo hội.
Đến nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã trải qua 6 nhiệm kỳ Đại hội:
- Nhiệm kỳ I (1981 -1987) là thời kỳ xây dựng và củng cố cơ sở với 50
thành viên Hội đồng Chứng minh, 50 thành viên Hội đồng Trị sự, thành lập

28 Ban Trị sự Phật giáo Tỉnh, Thành hội, 06 Ban ngành hoạt động.
- Nhiệm kỳ II (1987-1992) là giai đoạn phát triển các mặt hoạt động theo
chương trình nội dung 6 điểm của Giáo hội trong thời kỳ đổi mới của đất nước,
với 60 thành viên Hội đồng Chứng minh, 60 thành viên Hội đồng Trị sự, thành
lập 33 đơn vị Ban Trị sự Phật giáo Tỉnh, Thành hội, 08 Ban ngành hoạt động.
- Nhiệm kỳ III (1992- 1997) là giai đoạn tiếp tục phát triển một cách
toàn diện và hoàn chỉnh các mặt hoạt động của 10 Ban Ngành, Viện từ Trung
ương đến địa phương trong thời kỳ tiếp tục đổi mới và mở cửa của đất nước,
tiến tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
thành lập 41 đơn vị Ban Trị sự Phật giáo Tỉnh, Thành hội, với 75 thành viên
Hội đồng Chứng minh, 70 thành viên Hội đồng Trị sự.

13


- Nhiệm kỳ IV (1997-2002) thành lập 45 đơn vị Ban Trị sự Tỉnh, Thành
hội Phật giáo, với 65 thành viên Hội đồng Chứng minh, 95 thành viên Hội
đồng Trị sự. Đây là nhiệm kỳ tổng kết những thành quả của Giáo hội trong
những năm cuối của thế kỷ 20 để vững vàng bước sang thế kỷ 21.
- Nhiệm kỳ V (2002-2007) là nhiệm kỳ đầu của thế kỷ 21, với 52 đơn
vị Ban Trị sự Tỉnh, Thành hội Phật giáo, 85 thành viên Hội đồng Chứng minh,
95 thành viên Hội đồng Trị sự chính thức và 24 thành viên Hội đồng Trị sự dự
khuyết.
- Nhiệm kỳ VI (2007-2012) kiện toàn cơ chế tổ chức, triển khai nội
dung hoạt động theo tinh thần Hiến chương đã tu chỉnh, gồm 03 cấp hành
chánh Giáo hội, với 58 đơn vị Ban Trị sự Tỉnh, Thành hội Phật giáo, 97 thành
viên Hội đồng Chứng minh, 147 thành viên Hội đồng Trị sự chính thức và 48
thành viên Hội đồng Trị sự dự khuyết. Trong nhiệm kỳ này, Giáo hội đã công
nhận 06 Hội Phật tử Việt Nam tại các nước Châu Âu như: Cộng hòa Liên
Bang Nga, Đức, Séc, Hungary, Ba Lan và Ucraina [37, tr.2].

Những kỳ Đại hội là những chặng đường phát triển của GHPGVN.
Giáo hội đã từng bước khắc phục khó khăn, phát huy nội lực ngày càng thể
hiện sự thống nhất về mặt tổ chức từ Trung ương đến địa phương, có sự liên
hệ chặt chẽ, điều hành và hướng dẫn Phật sự trong toàn Giáo hội. Hiện nay có
58 đơn vị Ban Trị sự Tỉnh, Thành hội Phật giáo trên 63 tỉnh thành trong cả
nước và có trên 10 triệu tín đồ; khoảng 44.000 chức sắc, nhà tu hành; gần
16.000 cơ sở thờ tự, 4 học viện Phật giáo [55, tr.3].
Về tổ chức, Giáo hội được xây dựng theo cơ cấu: Cấp Trung ương có
Hội đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự, với 11 ban chuyên môn như: Ban
Tăng sự, Ban Giáo dục Tăng ni, Ban Hướng dẫn Phật tử, Ban Hoằng pháp,
Ban Nghi lễ, Ban Văn hoá, Ban Kinh tế - Tài chính, Ban Từ thiện Xã hội,
Ban Phật giáo Quốc tế, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam và Văn phòng.

14


Dưới cấp Trung ương là các Ban Trị sự tỉnh, thành hội và Ban Đại diện huyện
(quận) và Đại diện ở xã (phường). Đơn vị cơ sở của GHPGVN là các chùa, tự
viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường.
1.1.2. Chính sách của Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo
1.1.2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng
trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
tín ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng cũng như trong lãnh đạo việc quản lý xã
hội và điều hành đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến tôn
giáo và có chính sách tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và phù hợp với từng giai
đoạn của cách mạng. Năm 1990, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 24NQ/BCT ngày 16/11 về công tác tôn giáo chỉ rõ "Tôn giáo là vấn đề còn tồn
tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội

mới". Năm 1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 37-CT/BCT ngày 02/7 về Công
tác tôn giáo trong tình hình mới nêu rõ chủ trương cần tiếp tục quán triệt các
quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 24 nhằm làm tốt hơn công tác tôn giáo,
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân và phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo
đức của tôn giáo. Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã ra Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công tác tôn giáo trên cơ
sở vận dụng chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục phát triển
các quan điểm của Nghị quyết số 24 và cụ thể hoá Nghị quyết của Đại hội IX.
Tư tưởng của Nghị quyết số 25 được thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau:
- Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai đoạn mới phải

15


nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc.
- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo
bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
- Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn
kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đoàn
kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và

đồng bào không theo tôn giáo. Đại đoàn kết toàn dân tộc với mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để
gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân
biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập
và thống nhất Tổ quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân
dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
- Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng
tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm
sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời,
nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt
động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân,
chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.

16


- Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, có liên
quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và nhiều cấp, nhiều ngành vì
cuộc sống tinh thần và vật chất của hàng chục triệu tín đồ, chức sắc, nhà tu
hành của các tôn giáo, phân bố ở mọi vùng, miền, địa phương trong cả nước.
- Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự
hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước
thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được
hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh
sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo
đúng quy định của pháp luật. Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn
giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng
tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc
người dân theo đạo cũng như bỏ đạo [30].

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: "Đồng bào
các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện
nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các
chức sắc tôn giáo sống "tốt đời, đẹp đạo." Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt
động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của đồng bào
các tôn giáo. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn
giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm
quyền tự do tôn giáo của công dân".

17


Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định:
“Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo phù hợp với quan điểm
của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước; động viên các tổ chức tôn giáo,
chức sắc tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức
tôn giáo sinh hoạt theo Hiến chương, Điều lệ của các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo Hiến chương, Điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước
công nhận, đúng quy định của pháp luật. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh với
hành vi lợi dụng tôn giáo, để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.”
1.1.2.2. Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
Trước khi có Pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo, Nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản có quy định về tín ngưỡng tôn giáo. Về các quy định của Hiến

pháp, Điều 10 Hiến pháp 1946 ghi nhận: Quyền tự do tín ngưỡng là một
trong năm quyền cơ bản của công dân (Quyền tự do ngôn luận, tự do xuất
bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong
nước và ra nước ngoài) [47]; Điều 26 Hiến pháp 1959 quy định rõ: "Công
dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào” [48]; Điều 68 Hiến pháp 1980 ghi nhận:
"Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách
của Nhà nước” [49]; Điều 70 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2001) khẳng định: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước" [51].
Trên cơ sở các quy định đó của Hiến pháp về tín ngưỡng, tôn giáo, các văn
bản pháp luật khác đã quy định cụ thể hóa.

18


×