Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

cơ quan thi hành án dân sự cơ quan chuyên môn trong bộ máy hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.93 KB, 86 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(1986) đã khẳng định: “Đổi mới đất nước ta,
đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”.
Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đưa đất nước ta sang một
giai đoạn phát triển mới, từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đã và đang đặt ra yêu cầu bức thiết tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam, đó là nhà nước mà trong đó vai trò
pháp chế được đề cao, pháp luật được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Ở đây, yêu cầu
bức xúc hàng đầu là phải tạo ra và duy trì ý thức coi trọng pháp luật trong quản lý xã
hội, quản lý nhà nước.
Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án là một yêu
cầu tất yếu khách quan, là nguyên tắc Hiến định chỉ đạo toàn bộ tổ chức và hoạt động
thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng. Điều 136 Hiến pháp 1992(được
sửa đổi bổ sung năm 2001) khẳng định: “Các bản án, quyết định của Toà án nhân dân
đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị vũ trang
phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Thông qua hoạt động thi hành án dân sự, những phán
quyết của toà án nhân danh quyền lực nhà nước được thực hiện trong thực tế, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân và tập thể được bảo vệ, trật tự kỷ cương xã hội được bảo
đảm, công lý xã hội được thực hiện.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự từng bước được củng cố tăng cường, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ được giao.
Hiện nay công cuộc đổi mới đất nước đã diễn ra sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, giao lưu hợp tác ngày càng
1
phát triển, sinh hoạt đời sống của cá nhân và cộng đồng ngày càng đa dạng và phong
phú. Công tác thi hành án dân sự mặc dù hiện nay đã có luật quy định, nhưng vẫn còn
những hạn chế bất cập về cơ chế tổ chức và hoạt động trước yêu cầu của thực tiễn. Sự
yếu kém trong công tác thi hành án dân sự dẫn đến án tồn đọng kéo dài ngày càng


nhiều, ảnh hưởng đến trật tự kỷ cương xã hội, giảm sút lòng tin của nhân dân vào pháp
luật, công bằng và công lý xã hội.Việc đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động
thi hành án dân sự là một yêu cầu khách quan, là một mắt xích quan trọng của cải cách
tư pháp nói riêng và cải cách bộ máy nhà nước nói chung.
Xác định đúng vai trò và ý nghĩa của hoạt động thi hành án, trước tình hình hoạt
động thi hành án kém hiệu quả, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá XI đã quyết định
chuyển giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan
của Chính phủ. Thực hiện Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà
nước được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX tháng 10 năm
1992, ngày 21/4/1993 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thi hành án
dân sự thay thế cho Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989. Sự kiện pháp lý quan
trọng này đã đánh dấu một bước ngoặt căn bản trong tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự ở Việt Nam. Từ sau khi Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 hệ thống các cơ
quan quản lý nhà nước về công tác thi hành án, các cơ quan Thi hành án dân sự từ
trung ương đến địa phương đã nhanh chóng được hình thành. Trong những năm qua
công tác thi hành án dân sự đã đi vào nề nếp tạo bước chuyển biến quan trọng trong tổ
chức và hoạt động, kết quả đạt được đã khẳng định sự đổi mới đúng hướng của công
tác thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, thi hành án trước đây cũng như hiện nay là vấn đề hết sức phức tạp, sự
nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay đã và đang đặt ra những nhiệm vụ mới
nặng nề đối với công tác thi hành án dân sự nói riêng và công tác thi hành án nói
chung. Do vậy, việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động công tác thi hành án là yêu
cầu cấp thiết, Nghị quyết hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương Đảng khoá
2
VII đã chỉ rõ: “Sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi hành án theo hướng tập
trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ tư pháp. Xây dựng
đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án để bảo đảm tốt hội nghị xét xử.”
Dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng, yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước,
thực trạng về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự hiện nay, hơn nữa
hiện nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu toàn diện về tổ chức và hoạt động của cơ

quan thi hành án dân sự kể từ khi Luật thi hành án dân sự được ban hành với vai trò là
cơ quan chuyên môn trong bộ máy hành chính, chỉ có một số đề tài nghiên cứu có liên
quan, nhưng đều nghiên cứu trên cơ sở của Pháp lệnh thi hành án dân sự cũ. Tất cả
những lý do trên, tác giải chọn đề tài “Cơ quan thi hành án dân sự- Cơ quan chuyên
môn trong bộ máy hành chính nhà nước”, là một yêu cầu cấp thiết nhằm xây dựng
cơ quan thi hành án dân sự ngày càng vững mạnh, hoạt động hiệu quả, đáp ứng yêu cầu
trong giai đoạn hiện nay trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ
chức, cá nhân góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn về tổ chức hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, mục đích của luận văn
làm sáng tỏ cơ sở lý luận và những nội dung nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của
cơ quan thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu của đất
nước trong giai đoạn đổi mới.
Thi hành án dân sự là hoạt động không chỉ mang tính chất chuyên môn thuần tuý,
mà còn mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc. Việc nghiên cứu toàn diện về cơ quan thi
hành án dân sự là vấn đề rộng lớn, phức tạp không chỉ liên quan đến khoa học pháp lý
mà còn liên quan đến các lĩnh vực khoa học xã hội khác.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài cao học Luật, trên cơ sở nghiên cứư quy định
của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của của cơ quan thi hành án dân sự ở
Việt Nam hiện nay, những kết quả đạt được, những mặt tồn tại và hạn chế, từ đó để
3
xuất những giải pháp góp phần đổi mới và hoàn thiện tổ chức và hoạt động lĩnh vực thi
hành án dân sự ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích đó luận văn có nhiệm vụ:
+ Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Cơ quan
thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay như: vị trí, vai trò của cơ quan thi hành án dân
sự trong bộ máy hành chính, thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự, các nguyên
tắc về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, thi hành án dân sự một số
nước trên thế giơi kinh nghiệm và thực tiễn.

+ Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của thi hành án dân sự Việt Nam, tìm
hiểu thực trạng về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, từ những kết
quả đạt được trong những năm qua, chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong giai đoạn hiện
nay.
+ Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan
thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, nhằm nâng cao hiệu quả của cơ quan này
trong bộ máy hành chính.
3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của triết học Mác-Lênin, các văn kiện
Đại hội Đảng và Nghị quyết các hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng đề cập đến
vấn đề cải cách tư pháp, cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam. Đồng thời tác giả cũng nghiên cứu, tìm hiểu những tài liệu, những tác phẩm
chuyên khảo đã được công bố trong lĩnh vực thi hành án dân sự, và phân tích những số
liệu về tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay để làm
sáng tỏ nội dung của luận văn.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lênnin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền. Kết hợp phương pháp
thống kê các số liệu cụ thể về tổ chức và hoạt động của lĩnh vực thi hành án dân sự
4
hiện nay, trên cơ sở đó vận dụng phương pháp phân tích để phân tích các số liệu,
nguyên nhân của những tồn tại hạn chế. Từ đó để đưa ra những giải pháp nhằm đổi
mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự Việt Nam.
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Thông qua phương pháp này, các khái niệm,
đặc điểm, quan điểm liên quan đến tổ chức hoạt động, vị trí vai trò, thẩm quyền của cơ
quan thi hành án dân sự trong bộ máy hành chính được phân tích cụ thể, chỉ ra các mối
liên hệ từ đó đưa ra những kết luận về các vấn đề cần giải quyết trong luận văn.
+ Phương pháp so sánh: Được sử dụng để tìm ra các đặc điểm chung, điểm khác
biệt của cơ quan thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới. Phương pháp này

còn được sử dụng để so sánh mô hình cơ quan thi hành án dân sự từ khi được hình
thành cho đến nay, và so sánh các số liệu về kết quả thi hành án một số năm để thấy
được hiệu quả về tổ chức và hoạt động của cơ quan này.
+ Phương pháp lịch sử: Được sử dụng để nghiên cứu quá trình hình thành và phát
triển về tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự qua các thời kỳ.
+ Phương pháp thống kê: phương pháp này được áp dụng để thống kê số lượng
các vụ việc được thi hành, thống kê số lượng cán bộ công chức của toàn Ngành, số
lượng cán bộ lãnh đạo, cán bộ có chức danh của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự
trong cả nước.
4. Tình hình nghiên cứu.
Đến nay, liên quan đến nội dung của luận văn đã có một số công trình nghiên cứu ở
các mức độ khác nhau liên quan đến tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân
sự. Trong đó đáng chú ý là các công trình bài viết sau:
- Về đề tài cấp nhà nước: có “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và
hoạt động thi hành án dân sự Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ Tư pháp chủ trì, đã
đưa ra một số căn cứ trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án
dân sự.
5
- Về đề tài cấp bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án” mã số
95-98-114/ĐT do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp thành
phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện, đề tài đã đưa ra một số mô hình thi hành án của
một số nước trên thế giới và đề xuất một số mô hình thi hành án ở Việt Nam đề thảo
luận.
- Về Luận văn thạc sĩ: Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Văn Quảng (1996)
“Một số vấn đề tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam” , tác giả thực
hiện công trình nghiên cứu này sau khi pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 có hiệu
lực pháp luật, cũng là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên sau khi cơ quan
thi hành án dân sự chuyển từ Toà án các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ, trong
đề tài của mình tác giả đã nghiên cứu thực trạng thi hành án dân sự giai đoạn đó và đề
ra những ý kiến đề xuất cần phải ban hành Luật thi hành án dân sự và nâng cao số

lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ công chức.
Luận Văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thanh Thủy (2001) "Hoàn thiện pháp
luật thi hành án dân sự", trong công trình nghiên cứu của mình tác giả đã đưa ra các
quan điểm về đặc điểm của cơ quan thi hành án dân sự, và đưa ra một số bất cấp các
quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, từ đó tác giả đề xuất những kiến
nghị cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án dân sự, kiến nghị cần sửa đổi,
bổ sung Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 cho phù hợp với tình hình mới, tác giả
còn đưa ra những ý kiến cần thiết phải ban hành Luật thi hành án dân sự.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Lê Anh Tuấn (2004) “Đổi mới thủ tục thi hành án
dân sự”, tác giả nghiên cứu đề tài sau khi Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã
được ban hành, tuy sửa đổi bổ sung các quy định về thủ tục thi hành án của Pháp lệnh
năm 1993 nhưng vẫn còn nhiều bất cập so với tình hình thực tế, tác giả đã đề xuất giải
pháp ban hành Luật thi hành án dân sự để nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của
cơ quan thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Lê Thị Hồng Hạnh (2008) “Mối quan hệ giữa các
6
cơ quan trong thi hành án dân sự”, công trình nghiên cứu của tác giả được thực hiện
trong khi đang chuẩn bị ban hành Luật thi hành án dân sự, tác giả đưa ra một số khó
khăn trong mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan liên quan, từ
đó đưa ra những ý kiến đề xuất khi ban hành Luật cần chú ý hơn các quy định của Luật
về quy định các mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan liên quan để
nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan thi hành án.
Ngoài ra còn một số các bài viết trên tạp chí Viện kiểm sát, tạp chí Toà án, các bài
báo mỗi bài viết nghiên cứu về những lĩnh vực rất nhỏ trong tổ chức và hoạt động của
cơ quan thi hành án dân sự, như bài viết “bàn về mô hình của cơ quan THADS hiện
nay” của tác giả Nguyễn Thị Thanh đăng trong tạp chí kiểm sát có phân tích một số các
ưu khuyết điểm của một số mô hình cơ quan THADS trước khi có mô hình như hiện
nay và đưa ra một số quan điểm của mình về mô hình tổ chức của cơ quan THADS.
Các bài viết này chủ yếu được đề cập đến các vấn đề còn bất cập khi Luật thi hành án
dân sự chưa được ban hành, chủ yếu đưa ra các ý kiến đề xuất cần ban hành Luật.

5. Điểm mới và ý nghĩa của Luận văn.
Nghiên cứu về cơ quan thi hành án dân sự trong thời gian vừa qua, đã có một số đề
tài của các tác giả triển khai thực hiện, mỗi một đề tài tập trung giải quyết một số khía
cạnh về tổ chức, hoạt động mối quan hệ của cơ quan thi hành án dân sự. Tuy nhiên, các
đề tài đó chưa nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về tổ chức, hoạt động của cơ quan thi hành
án dân sự và bên cạnh đó các đề tài đó được triển khai chủ yếu theo pháp lệnh cũ.
Chính vì vậy, luận văn của tác giả là một trong những công trình nghiên cứu chuyên
khảo đầu tiên có tính hệ thống, tìm hiểu toàn diện về cơ quan thi hành án dân sự ở Việt
Nam kể từ khi được thành lập và đến nay và tổ chức và hoạt động của cơ quan này từ
khi Luật thi hành án dân sự được ban hành.
Những kết luận và kiến nghị được đưa ra trong luận văn không chỉ có ý nghĩa đối
với việc hoàn thiện cơ quan thi hành án dân sự ở Việt Nam nói riêng mà còn có ý nghĩa
trong việc hoàn thiện hơn bộ máy hành chính; luận văn còn là tài liệu tham khảo cho
7
công tác giảng dạy nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này, cho cán bộ ngành thi hành
án và những người có quan tâm đến lĩnh vực thi hành án dân sự.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì luận văn được kêt cấu làm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về cơ quan thi hành án dân sự ở nước ta
hiện nay.
Chương 2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi haàn án dân sự ở
nước ta hiện nay.
Chương 3. Những nội dung cơ bản về đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan
thi hành án dân sự ở nước ta hiện nay.
8
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1.Vị trí, vai trò của cơ quan thi hành án dân sự trong bộ máy hành chính ở nước
ta hiện nay.

1.1.1 Vị trí của cơ quan thi hành án dân sự.
Nhà nước CHXHCNVN ra đời là thành quả của cách mạng tháng 8/1945, trải
qua hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành vẫn giữ vững bản chất nhà nước “ của dân,
do dân và vì dân”, mọi hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung và hệ thống cơ
quan hành chính nói riêng đều thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Cơ quan
THADS cơ quan chuyên môn thuộc hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước thông qua
hoạt động của mình thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội. Vì vậy, một trong
những vấn đề mà Nhà nước luôn quan tâm đó là không ngừng tăng cường bảo vệ các
quyền của công dân, tổ chức trong điều kiện mới hiện nay. Để thực hiện chiến lược này
Nhà nước phải không ngừng xây dựng kiện toàn bộ máy Nhà nước trong đó có cơ quan
thi hành án dân sự, đây là một khâu quan trọng nhằm xây dựng một cơ quan chuyên
trách để tổ chức, thực hiện các bản án, quyết định của tòa án. Tòa án thực hiện chức
năng xét xử của mình để bảo vệ công lý, kết quả của hoạt động tố tụng tại tòa án là các
bản án, quyết định được tòa ban hành. Trong các bản án, quyết định của mình tòa ra
các phán quyết xác định các quan hệ pháp lý, buộc người phải thi hành án có nghĩa vụ
phải làm hoặc không được làm một việc vì lợi ích của người được thi hành án “Xây
dựng một xã hội dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện của nhà nước pháp quyền.
Nói đến dân chủ là nói đến pháp luật, pháp luật vừa là sự phản ánh yêu cầu dân chủ
vừa là công cụ để thực hiện dân chủ”[17,tr.14]. Vì vậy, nhà nước cần phải xây dựng
một cơ quan thi hành án dân sự được tổ chức một cách khoa học, hoạt động có hiệu
9
quả. Có thể nói rằng, cơ quan thi hành án dân sự ở nước ta đã trải qua một quá trình
lịch sử, từng bước được khẳng định và hoàn thiện. Cơ quan thi hành án dân sự trong
điều kiện đổi mới đất nước hiện nay có một vị trí ổn định trong hệ thống cơ quan hành
chính, xứng đáng với nhiệm vụ tổ chức thi hành án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức. Nhà nước pháp quyền là nhà nước của xã hội công dân. Nhà nước
luôn chú trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Trong hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước, cơ quan thi hành án dân sự có chứ năng tổ chức thi hành các bản án,
quyết định của tòa án. Nhờ đó mà phán quyết của tòa án được đảm bảo thực hiện trong

thực tế, mang lại công bằng cho xã hội. Một xã hội phát triển, đòi hỏi cơ quan thi hành
án dân sự phải được tổ chức khoa học tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, có như vậy
mới thực hiện được nhiệm vụ đưa phán quyết của tòa án trở thành hiện thực. Trước yêu
cầu khách quan của xã hội việc chuyển giao công tác thi hành án dân sự và kiện toàn
cơ quan THADS là một việc làm cần thiêt. Vì vậy, từ tháng 7/1993 công tác thi hành án
được chuyển từ Tòa án sang cho Chính phủ quản lý. Cơ quan thi hành án dân sự được
tổ chức thành một hệ thống trực thuộc Bộ Tư pháp. Cơ quan THADS được thành lập từ
trung ương đến địa phương. Ở trung ương đó là Tổng cục thi hành án, cơ quan chuyên
môn thuộc Bộ Tư pháp, cấp Tỉnh thành lập các Cục thi hành án, cấp huyện được tổ
chức thành các Chi cục thi hành án. Chức năng THA được tách khỏi cơ quan Tòa án,
hoạt động THADS là giai đoạn độc lập, từ chỗ hoạt động mang tính tố tụng thuần túy
chuyển sang hoạt động mang tính hành chính- tư pháp. Việc chuyển giao cho Chính
phủ thẩm quyền quản lý thi hành án dân sự đã đánh dấu bước đổi mới căn bản của
công tác THADS, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử, lập lại trật tự kỷ
cương xã hội, tăng cường pháp chế XHCN, bảo đảm sự đồng bộ gắn bó trong quá trình
cải cách tư pháp, cải cách hành chính, cải cách bộ máy Nhà nước, xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam.
Sự chuyển giao cơ quan THADS sang hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đã
đánh dấu một thay đổi quan trọng của bộ máy hành chính của nước ta. Từ nay, cơ quan
10
hành chính có thêm chức năng quản lý, tổ chức hoạt động thi hành án. Cơ quan thi
hành án dân sự là cơ quan hoạt động chuyên sâu về lĩnh vực thi hành án bảo đảm cho
các bản án, quyết định của tòa án được thực hiện trong thực tế hoạt động đó góp phần
quan trọng đối với việc thực hiện và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân, phù
hợp với tiến trình dân chủ hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Ở mỗi quốc gia khác nhau, hoạt động THADS cũng có những cách thức tiến hành
không giống nhau, điều này xuất phát từ điều kiện chính trị- xã hội, điều kiện lịch sử
và truyền thống pháp lý của mỗi nước, ở Pháp, Đức hoạt động THADS được giao cho
các Thừa phát lại thi hành, Thừa phát lại là công chức Nhà nước nhưng được hành
nghề độc lập, được mở văn phòng riêng, có quyền hành rất lớn. Một số nước khác như

Nhật Bản hoạt động THADS lại được đặt dưới sự quản lý của Tòa án các cấp. Ở nước
ta, cơ quan THADS là một cơ quan độc lập được đặt trong hệ thống cơ quan hành
pháp. Văn bản đầu tiên là cơ sở cho sự phát triển của pháp luật về THADS đó là Pháp
lệnh thi hành án dân sự năm 1993 là một trong những cơ sở pháp lý cho việc hình
thành tổ chức và hoạt động thi hành án theo một cơ chế mới.
Về vị trí của cơ quan THADS hiện nay cũng có rất nhiều các ý kiến khác nhau
liên quan đến đặc trưng cũng như mô hình của cơ quan THADS. Có một số ý kiến cho
rằng cơ quan này thuộc tố tụng dân sự, vì chỉ có chức năng thi hành bản án, quyết định
mà nó không có chức năng quản lý hành chính; một số ý kiến lại cho rằng cơ quan
THA thuộc tố tụng hành chính vì từ khi công tác THADS được chuyển giao từ Tòa án
sang các cơ quan thuộc Chính phủ thì cơ quan tiến hành việc thi hành án không phải là
Tòa án nữa. Việc giải quyết khiếu nại, kháng nghị trong thi hành án khác hẳn các hình
thức, thủ tục so với việc giải quyết kháng cáo kháng nghị trong tố tụng dân sự [24,
tr.13]; nhưng hầu hết các quan điểm hiện nay cho rằng thi hành án dân sự là hoạt động
hành chính-tư pháp, vì bản chất của quyết định thi hành án là quyết định hành chính,
khi được ban hành bắt buộc phải được thực hiện, nếu người phải thi hành án không tự
nguyện thực hiện thì sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc phải thực hiện nghĩa vụ.
11
Là cơ quan trong bộ máy hành chính nhưng lại chủ yếu quan hệ tác nghiệp với các cơ
quan tố tụng, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân, do vậy hoạt động này cũng được coi
là hoạt động tư pháp (hành chính- tư pháp).
Mặc dù còn một số ý kiến chưa thống nhất về vị trí, đặc trưng của hoạt động thi
hành án dân sự, nhưng đa số các ý kiến đều cho rằng mô hình cơ quan thi hành án
thuộc cơ quan hành chính như hiện nay là hoàn toàn phù hợp, vừa bảo đảm sự quản lý
tập trung thống nhất của Bộ Tư pháp đồng thời vẫn phát huy được vai trò chỉ đạo của
chính quyền các cấp đối với công tác THA ở địa phương. Mô hình này đã và đang
được kiểm nghiệm bước đầu phát huy hiệu quả trong công tác THA. Cơ chế quản lý
theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ giúp cho hoạt động THA thống nhất trong
phạm vi toàn quốc, đồng thời góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa
phương. Bộ Tư pháp thống nhất quản lý về tổ chức và nghiệp vụ THA đã giúp cho việc

quản lý đội ngũ Chấp hành viên và công chức trong cơ quan THA được chặt chẽ hơn từ
khâu tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, trách nhiệm của đội ngũ này khi vi phạm
pháp luật. Đồng thời thông qua kết quả hoạt động nghiệp vụ, giải quyết khiếu nại tố
cáo mà đánh giá được năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ,
trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng hợp lý thực hiện
chế độ đề bạt, khen thưởng, kỷ luật đối với công chức được chính xác, từ đó phát huy
hiệu quả hơn năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức. UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh thực hiện quản lý Nhà nước về
công tác THADS ở địa phương đã tạo điều kiện cho sự phối hợp giữa các ngành đặc
biệt là những vụ việc phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở
địa phương.
Một trong các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền đó là: những vấn đề về tổ chức
thực hiện quyền lực, vị trí vai trò của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước nói chung và
trong bộ máy hành chính Nhà nước nói riêng; cơ chế hoạt động của các cơ quan nhà
nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức cá nhân điều này đã
12
trực tiếp phát sinh yêu cầu phải tiếp tục đổi mới về tổ chức và hoạt động, nâng cao chất
lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan THADS. Hiệu quả của cơ quan THADS hiện
nay bước đầu đã khẳng định sự đúng đắn của Nhà nước ta khi chuyển cơ quan THADS
sang cho chính phủ quản lý và ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của cơ quan
THADS một cơ quan chuyên môn của hệ thống cơ quan hành chính trong. Hơn 60 năm
xây dựng và trưởng thành, công tác THADS Việt Nam đã góp phần quan trọng vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Qua từng giai đoạn lịch sử, THADS Việt Nam đã
dần được hoàn thiện, củng cố phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mà Nhà nước đặt ra.
Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đang đòi hỏi cấp thiết cải cách
bộ máy Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước CHXHCN Việt Nam, trong tiến
trình đổi mới đó, kiện toàn, tổ chức, hoạt động của cơ quan THADS là một nội dung
quan trọng trước yêu cầu của tiến trình xây dựng đất nước.
Như vậy, cơ quan thi hành án dân sự được xác định là cơ quan chuyên môn
trong bộ máy hành chính, có thẩm quyền trực tiếp tiến hành các hoạt động trong lĩnh

vực THADS.
1.1.2. Vai trò của cơ quan thi hành án dân sự trong bộ máy hành chính.
Dưới chế độ XHCN, Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân,
mọi tổ chức và hoạt động của Nhà nước đều nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích
của con người. Trong hoạt động của Nhà nước, công tác THADS nói chung và THADS
nói riêng có vai trò rất quan trọng, thông qua hoạt động THA, những phán quyết của
Tòa án nhân danh Nhà nước, thể hiện ý chí của Nhà nước trở thành hiện thực, công lý
xã hội được thực hiện trong thực tế. Quá trình giải quyết một vụ án chỉ được coi là kết
thúc khi bản án, quyết định của tòa án được thi hành đầy đủ và kịp thời. Nếu không có
hoạt động của cơ quan THA thì phán quyết của tòa án mới chỉ dừng lại ở bản án hoặc
quyết định, trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm, các khiếu kiện sẽ nhiều hơn gây
ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống xã hội.
13
Vai trò của cơ quan thi hành án thông qua hoạt động của mình còn có ảnh hưởng
tích cực đến kết quả hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố. Thông qua hoạt động cơ
quan thi hành án góp phần biến kết quả hoạt động của những cơ quan này trở thành
hiện thực; Với hiệu quả hoạt động của cơ quan THADS từ khi được chuyển giao từ
Tòa án sang các cơ quan hành pháp, đã chứng tỏ sự đúng đắn của Nhà nước ta, thêm
một công cụ quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mọi tổ chức, cá nhân
trong xã hội đáp ứng được yêu cầu mới đặt ra trong giai đoạn cải cách tư pháp, cải cách
hành chính xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Với vị trí là cơ quan chuyên môn trong bộ máy hành chính có thẩm quyền là trực
tiếp thi hành bản án, quyết định của Tòa án, nhiệm vụ của cơ quan THADS rất nặng nề
đụng chạm trực tiếp đến quyền và lợi ích của con người, sự lẩn tránh nghĩa vụ, sự phản
kháng quyết liệt của người phải THA và người được THA thường xảy ra. Chính vì lẽ
đó, việc tổ chức THA không đơn thuần là một công việc mang tính kỹ thuật nghiệp vụ
mà còn thể hiện tính quyền lực Nhà nước. Cơ quan THA là cơ quan chuyên môn đối
diện với thực tế đó và thông qua hoạt động nghiệp vụ của mình bảo đảm hiệu lực của
các bản án, quyết định của tòa án. Vai trò của cơ quan THA ngày càng được khẳng

định. Hoạt động thi hành án là hoạt động nghiệp vụ chuyên sâu đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi của xã hội.
Hoạt động THADS ở nước ta là một nội dung hoạt động của Nhà nước, mang bản
chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân lao động, điều đó được thể hiện ở chỗ: Cơ
quan THADS là cơ quan Nhà nước, cơ quan chuyên môn trong bộ máy hành chính,
Chấp hành viên là công chức thuộc cơ quan thi hành án được giao trách nhiệm trực tiếp
tổ chức THA, các tổ chức và các cá nhân có liên quan phải có trách nhiệm trong công
tác THADS khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật. công tác THADS có ý nghĩa
quan trọng thể hiện bản chất của Nhà nước hoạt động vì quyền lợi của nhân dân, qua
đó hoạt động đó ngăn chặn hiện tượng “dịch vụ đòi nợ thuê” có xu hướng phát triển
14
làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người dân trong xã hội.
Trong nhiều năm trước đây, tình trạng trì trệ, án tồn đọng không được thi hành
ngày một gia tăng, trước năm 1993, có tới 70% các bản án, quyết định của tòa án có
hiệu lực pháp luật không được thi hành, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân không được đảm bảo, pháp chế bị xâm phạm. Trước tình hình đó việc đổi
mới công tác THADS và hiệu quả của công tác này đã đáp ứng được yêu cầu chính trị,
xã hội của nhà nước ta trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Trong quá trình tổ chức THADS, cơ quan THA và Chấp hành viên chỉ tuân theo
pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật, không một cơ quan, cá nhân nào được can
thiệp vào việc thực thi nhiệm vụ THA. Sự độc lập đó giúp cho cơ quan thi hành án hoạt
động hiệu quả, tạo niềm tin cho nhân dân, quyền lực nhà nước được thực hiện trong
thực tế.
Tổ chức và hoạt động cơ quan THADS là một bộ phận của tổ chức và hoạt động
bộ máy hành chính và có mối quan hệ mật thiết mang tính hệ thống với toàn bộ tổ chức
và hoạt động Nhà nước. Quyền lực nhà nước không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc tòa
án tuyên một bản án, mà bản án đó phải được thực hiện trong thực tế quyền lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức phải được đảm bảo. Những phán quyết của tòa án nhân danh
Nhà nước không được thi hành thì uy tín của nhà nước bị giảm sút, kỷ luật nhà nước

không được tôn trọng, quá trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam sẽ không đồng bộ, thiếu hiệu quả công tác THADS được tổ
chức tốt sẽ giải quyết được tình trạng trên.
Cũng như các hiện tượng kiến trúc thượng tầng khác trong xã hội, THADS hình
thành và phát triển trên cơ sở kinh tế- xã hội, phản ánh sâu sắc những đặc điểm lịch sử,
kinh tế, văn hóa, xã hội đương thời. Là một bộ phận của hệ thống cơ quan hành chính,
tổ chức và hoạt động THADS không phải là vấn đề bất biến, không thể nằm ngoài tiến
trình phát triển của Nhà nước, mà phải phù hợp với yêu cầu phát triển của Nhà nước
qua từng giai đoạn. Ở mỗi nước, mỗi giai đoạn tổ chức và hoạt động THADS không
15
giống nhau. Ở Việt Nam, thực hiện pháp lệnh THADS năm 1993, THADS được
chuyển giao sang các cơ quan thuộc Chính phủ, sự đổi mới này đã tạo ra bước phát
triển mới của THADS. Tuy nhiên, sự đổi mới này không phải là sự sao chép tùy tiện
một hình mẫu của nước nào mà hoàn toàn xuất phát từ bản chất dân chủ của Nhà nước
ta, trên cơ sở điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước. THADS ở nước ta là một loại hoạt
động của Nhà nước, được tiến hành theo cơ chế kết hợp sự chủ động của cơ quan
THA, Chấp hành viên, Thẩm tra viên với sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương
sự. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển dưới sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN, hoạt động THADS sẽ góp phần hạn chế tiêu cực phát sinh trong
lĩnh vực này, trong điều kiện hiểu biết pháp luật của người dân chưa cao như hiện nay
thì THADS có ý nghĩa tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
1.2. Thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự.
Hiện nay trong hệ thống các ngành khoa học nói chung và khoa học pháp lý nói
riêng, có nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến khái niệm thẩm quyền.
Mỗi cơ quan trong bộ máy Nhà nước đều có thẩm quyền của mình trong những
lĩnh vực nhất định, với quan niệm như vậy thẩm quyền được hiểu là tổng thể những
quyền mà pháp luật quy định cho một cơ quan được thực hiện nhiệm vụ trong một lĩnh
vực nhất định.
Theo từ điển tiếng việt: "Thẩm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ quyền xem xét, kết

luận kiến nghị và định đoạt một số vấn đề theo pháp luật hoặc chỉ một tư cách về
chuyên môn được thừa nhận để có ý kiến có tính chất quyết định về một vấn đề" [48,
tr.50] . Theo cách hiểu này thì “khái niệm thẩm quyền được hiểu rất rộng, bất kể một
chủ thể nào trong bộ máy nhà nước, thậm chí là cả những chủ thể được nhà nước ủy
quyền trong những trường hợp nhất định thay mặt nhà nước giải quyết một công việc
cụ thể nào đó cũng có thẩm quyền” [17, tr.50]
Dưới một góc độ cụ thể hơn, Từ điển luật học định nghĩa thẩm quyền là: “ Tổng
16
hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ
thống bộ máy do nhà nước quy định”[40, tr.459].
Với một cách hiểu như vậy, thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước
bao gồm tổng thể quyền và nghĩa vụ do nhà nước quy định, điều đó có nghĩa là cơ
quan nhà nước chỉ có quyền thực hiện nhưng hoạt động nhất định nhằm giải quyết
những vấn đề cụ thể được pháp luật cho phép.
Cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan chuyên môn trong bộ máy hành chính, vì
vậy cũng có thẩm quyền nhất định, thẩm quyền này được giới hạn trong phạm vi giải
quyết những vụ việc được pháp luật thi hành án quy định. Cơ quan thi hành án thực
hiện các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ đó là việc thi hành những bản án, quyết định
của Tòa án theo trình tự thủ tục của pháp luật thi hành án dân sự. Việc bảo đảm hiệu
lực của các bản án quyết định của Tòa án là một tất yếu khách quan, là nguyên tắc chỉ
đạo toàn bộ thi hành án nói chung và THADS nói riêng.
Điều 136 Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2001) ghi nhận: "Các
bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ
quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành".
Như vậy, bản án quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án là bản án, quyết định
có tính chất bắt buộc thực hiện đối với các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội và cá nhân có liên quan, bên cạnh đó, những bản án, quyết định của trọng tài,
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh cũng là những phán quyết có hiệu lực pháp luật và
cũng được đảm bảo thi hành trong thực tế.

Pháp luật THADS ngoài những quy định chung về thẩm quyền của hệ thống cơ
quan THADS, còn quy định cụ thể những nhiệm vụ quyền hạn riêng cho từng cơ quan
THADS ở các cấp khác nhau cụ thể đó là thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự
cấp tỉnh, cấp huyện, cấp quan khu trong việc tổ chức thi hành những bản án, quyết định
của Tòa án theo quy định của pháp luật. Đồng thời Pháp luật THADS cũng có những
17
quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về THADS, với
quy định này việc thực hiện công tác thi hành án dân sự vừa đáp ứng được yêu cầu
chính trị- xã hội ở địa phương, vừa đáp ứng yêu cầu chuyên môn của hoạt động này.
Có thể nói rằng thẩm quyền của cơ quan THADS mang tính quyền lực pháp lý
nhưng quyền hạn đó được giới hạn ở phạm vi, mức độ nhất định theo quy định của
pháp luật, đó là thẩm quyền thi hành những bản án, quyết định của tòa án. Thẩm quyền
của cơ quan THADS được thể hiện thông qua nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm trong
lĩnh vực THADS. Việc nghiên cứu thẩm quyền của cơ quan THADS là một trong
những cơ sở nhằm thực hiện những đổi mới về tổ chức và hoạt động của cơ quan
THADS trong giai đoạn hiện nay.
1.3.Nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự.
Cũng giống như bất kỳ một hoạt động nào, trong công tác THADS nói riêng và
trong quản lý hành chính Nhà nước nói chung đều được tiến hành trên cơ sở những
nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc nó là những tư tưởng chỉ đạo rất quan trọng
trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, giúp cho hoạt động của cơ
quan này hiệu quả hơn.
Cơ quan THADS là cơ quan chuyên môn trong bộ máy hành chính, do đó tổ chức
và hoạt động của cơ quan này cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung về tổ chức
và hoạt động của cơ quan hành chính. Tuy nhiên, là một cơ quan chuyên môn giúp cơ
quan hành chính nhà nước giải quyết trong lĩnh vực cụ thể ngoài các nguyên tắc chung
trong tổ chức và quản lý hành chính Nhà nước, còn có các nguyên tắc đặc thù trong tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự.
Theo nghĩa chung nhất, nguyên tắc được hiểu là những điều cơ bản nhất thiết phải
tuân theo trong một loạt các việc làm, mỗi ngành khoa học, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ

thể đề cập đến vấn đề nguyên tắc theo một góc độ riêng, đặc thù cho ngành khoa học
hay lĩnh vực đó [43, tr.75]. Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của các cơ quan trong bộ
máy Nhà nước được Hiến pháp ghi nhận, các văn bản pháp luật lĩnh vực THADS đã cụ
18
thể hóa những nguyên tắc cơ bản đó trong tổ chức và hoạt động của mình, các nguyên
tắc vừa có đặc điểm chung với các nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của cơ quan
hành chính Nhà nước vừa có những đặc điểm đặc thù của cơ quan THADS.
Các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS có nội
dung rất đa dạng có tính thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau. Nắm vững, vận dụng
đúng các nguyên tắc đảm bảo cho tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS đi đúng
hướng xây dựng nhà nước pháp quyền bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của mọi tổ
chức và cá nhân.
1.3.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS.
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là hạt nhân của mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, bằng những hình thức và phương pháp hoạt động của mình, Đảng
cộng sản giữ vai trò quyết định đối với việc xác định phương hướng hoạt động của Nhà
nước trên mọi lĩnh vực, Đảng định hướng về mặt tư tưởng, xác định đường lối quan
điểm giai cấp, phương châm chính sách, công tác tổ chức trên mọi lĩnh vực chuyên
môn. Hiến pháp của nước ta đã xác định rõ: (Hiến pháp 1992 còn khẳng định " Đảng
cộng sản Việt Nam- đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung
thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo
chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội." (Điều 4 Hiến pháp 1992, được sửa đổi bổ sung năm 2001).
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS được
thể hiện:
Thứ nhất Đảng lãnh đạo trong tổ chức và hoạt động THADS bằng việc đưa ra những
đường lối, chủ trương, chính sách của mình trong tổ chức và hoạt động THADS. Các
Nghị quyết của Đảng đưa ra phương hướng cơ bản tạo cơ sở quan trọng để Ngành thể
chế hóa thành các văn bản pháp luật. Trên cơ sở các quy định làm nền tảng, Chương
trình xây dựng Luật, pháp lệnh được xây dựng trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Khi đưa ra các quy định của pháp
19
luật trong lĩnh vực THADS như: việc xác minh, cưỡng chế thi hành án, giải quyết
khiếu nại, tố cáo Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về những vấn đề có liên
quan bao giờ cũng được coi là cơ sở quan trọng đề các chủ thể đưa ra quyết định của
mình.
Thứ hai, vai trò lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của cơ quan
THADS được thể hiện trong công tác tổ chức cán bộ. Đây là công việc có vai trò đặc
biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của cơ quan THADS trong
việc thực thi pháp luật, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và những tổ
chức và cá nhân có liên quan. Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở chỗ, các tổ chức
Đảng bồi dưỡng, đào tạo những đảng viên ưu tú, có phẩm chất năng lực để gánh vác
những nhiệm vụ mà Ngành giao cho. Việc bổ nhiệm, bầu các chức vụ lãnh đạo phải
được tổ chức Đảng có ý kiến, những ý kiến của tổ chức Đảng không phải là quyết định
nhưng là cơ sở quan trọng để các cơ quan THADS đưa ra những kết luận cuối cùng.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo trong công tác THADS không chỉ bằng việc đưa ra đường
lối, chủ trương, chính sách, bằng công tác tổ chức cán bộ mà còn bằng hình thức kiểm
tra. Việc kiểm tra này nhằm đánh giá hiệu quả, tính thực tế mà Đảng đưa ra trong tổ
chức và hoạt động của cơ quan THADS, trên cơ sở đó phát huy những ưu điểm và khắc
phục những khuyết điểm để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của cơ quan này.
Qua hoạt động kiểm tra của Đảng sẽ có những chính sách biện pháp uốn nắn kịp thời
nhằm đảm bảo cho hoạt động của cơ quan THADS hiệu quả hơn.
Ngoài ra, sự lãnh đạo của Đảng còn được thể hiện thông qua uy tín và vai trò
gương mẫu của các tổ chức Đảng và các đảng viên, việc nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật được coi là kỷ luật của tổ chức Đảng, chính điều đó tạo cơ sở quan trọng để nâng
cao uy tín của Đảng đối với nhân dân, với cơ quan Nhà nước.
Vận dụng nguyên tắc này giúp cho cơ quan THADS trong tổ chức và hoạt động
của mình luôn thực hiện đúng đường lối của Đảng, góp phần quan trọng vào sự nghệp
xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
20

1.3.2. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia vào hoạt động của cơ quan thi hành
án dân sự.
Với bản chất của Nhà nước ta, là nhà nước của dân, do dân và vì dân, trên cơ sở
nguyên tắc cơ bản là tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, được Nhà nước xã
hội chủ nghĩa ghi nhận và bảo đảm. Đảng là tổ chức được lập ra nhằm phát huy tài
năng, sức lực của người lao động trong việc gánh vác các công việc của Nhà nước để
phục vụ cho chính họ.
Ghi nhận nội dung này, Điều 2 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001
nêu rõ: "Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức".
Điều 3 của Hiến pháp khẳng định: Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy
quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân. Quyền được tham gia vào quản lý các công
việc của Nhà nước và toàn xã hội là quyền cơ bản của công dân và được Hiến pháp ghi
nhận và thực tế nó đã được bảo đảm thông qua các hoạt động cụ thể trong quản lý hành
chính Nhà nước nói chung và trong hoạt động của cơ quan THADS nói riêng.
Việc tham gia nhân dân vào hoạt động của cơ quan THADS được thể hiện: Người
dân có quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua hoạt động
của cơ quan thi hành án dân sự, bản án quyết định của Tòa án chỉ có thể có hiệu lực
thực thi trên cơ sở hoạt động của cơ quan THADS, khi liên quan đến quyền và lợi ích
hợp pháp của mình thì các tổ chức, cá nhân có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án,
trong quá trình thực thi nhiệm vụ nếu cán bộ của cơ quan THADS làm sai trình tự, thủ
tục, hoặc vi phạm đạo đức nghề nghiệp thì người dân có quyền làm đơn khiếu nại, tố
cáo lên cơ quan THADS. Ngoài ra, các tổ chức và cá nhân khi liên quan đến quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, trong quá trình tổ chức thi hành án có quyền được thỏa
thuận giữa các bên, có quyền được rút đơn yêu cầu khi không yêu cầu cơ quan THADS
21
giải quyết tiếp
Nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mọi hoạt động

của Nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân, do vậy thực hiện nguyên tắc này
bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức và cá nhân trong liên quan
đến hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự.
1.3.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong hoạt
động của quản lý hành chính Nhà nước, trong tổ chức và hoạt động của cơ quan
THADS cũng tuân thủ nội dung của nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung- dân chủ
được quy định tại Điều 6 Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001):
"Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ". Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp của hai
yếu tố, vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng
dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung [44, tr. 89]. Cần phải có sự phối hợp đồng bộ, chặt
chẽ việc bảo đảm cả hai yếu tố này trong tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS,
nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo điều kiện cho
các hành vi cửa quyền, lạm quyền, tệ quan liêu tham nhũng, hách dịch, tham nhũng
phát triển, ngược lại không có sự lãnh đạo tập trung, thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng
tùy tiện, vô chính phủ.
Nguyên tắc này được thể hiện trong tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS:
Sự phụ thuộc của cơ quan THADS vào cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp:
Hiến pháp Nhà nước ta nghi nhận, nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân, người dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực
Nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt họ trực tiếp thực hiện quyền lực đó. Điều 6
Hiến pháp 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định: " Nhân dân sử dụng
quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân là những cơ quan đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm
22
trước nhân dân".
Để thực hiện chức năng thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, một hệ thống
các cơ quan THADS được hình thành từ trung ương đến địa phương, sự hoạt động của
cơ quan THADS phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp. Trong hoạt

động của cơ quan THADS luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của hệ thống các cơ quan
quyền lực Nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan
quyền lực Nhà nước cùng cấp. Sự phụ thuộc trên bảo đảm cho hoạt động của cơ quan
THADS phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân thông qua việc bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của họ, đồng thời đó chính là việc bảo đảm tập trung
quyền lực và hệ thống các cơ quan quyền lực Nhà nước- cơ quan do dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân. Bên cạnh đó yếu tố dân chủ cũng được thể hiện rõ nét
trong việc cơ quan quyền lực Nhà nước trao quyền chủ động sáng tạo cho các cơ quan
THADS trong việc thực thi nhiệm vụ, không can thiệp vào lĩnh vực chuyên môn của
cơ quan THADS.
Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên: Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp
trên tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới. Thiếu sự phục
tùng đó sẽ dẫn tới buông lỏng sự lãnh đạo, quản lý tập trung của trung ương và cấp
trên, làm nảy sinh tình trạng tùy tiện, cục bộ địa phương. Sự phục tùng ở đây là sự
phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Đồng thời cấp
trên cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới về các lĩnh vực liên quan đến tổ chức và
hoạt động của cơ quan THADS, phải tạo điều kiện để cấp dưới phát huy sự chủ động,
sáng tạo nhằm huy động mọi khả năng về trí tuệ và lao động.
Sự phụ thuộc của cơ quan THADS vào có quan hành chính Nhà nước ở địa
phương: Cơ quan THADS được xác định là cơ quan chuyên môn trong bộ máy hành
chính Nhà nước, như vậy trong tổ chức và hoạt động của mình cơ quan này phụ thuộc
vào sự chỉ đạo của cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương. Về tổ chức, mặc dù khi
bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo được Tổng cục THADS trình và Bộ trưởng Bộ Tư pháp
23
là người ký quyết định, nhưng phải được báo cáo với cơ quan hành chính ở địa
phương; trong hoạt động của cơ quan THADS, Ban chỉ đạo thi hành án dân sự do một
phó chủ tịch tỉnh làm trưởng ban, tất cả các vụ việc khó khăn phức tạp đều được xin ý
kiến chỉ đạo của trưởng ban chỉ đạo. Sau đó UBND cấp tỉnh có trách nhiệm báo cáo về
tình hình tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS cho hội đồng nhân dân cùng cấp.
Mối quan hệ này vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của của cơ quan chuyên môn

đồng thời phát huy thế mạnh của cơ quan hành chính ở địa phương.
Trong tổ chức và hoạt động cơ quan THADS sự kết hợp giữa tôn trọng quyền tự
định đoạt của đương sự với việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, là một trong
những biểu hiện rất quan trọng của nguyên tắc tập trung- dân chủ.
Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ lợi ích của Nhà nước và chính sách nhân đạo nhằm
bảo vệ quyền lợi ích cấp thiết của đương sự, pháp luật quy định quyền chủ động ra
quyết định THA, của cơ quan THA trong những trường hợp “bản án, quyết định về trả
lại tài sản hoặc bồi thường tài sản XHCN; phạt tiền; tịch thu tài sản và án phí; các
quyết định khẩn cấp, tạm thời…” (Điều 20 Luật THADS).
Bản án, quyết định về phần bồi thường dân sự chỉ được đưa ra thi hành khi có
yêu cầu của người được thi hành án, thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự. Đây là
sự khác biệt giữa THADS và THA hình sự, khi bản án hình sự có hiệu lực pháp luật,
không phụ thuộc vào ý chí của đương sự. Đối với phần dân sự trong bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật, các bên vẫn có quyền thể hiện ý chí của mình về việc thi hành
các phán quyết của Tòa án, pháp luật khuyến khích sự thỏa thuận tự nguyện của người
được THA và người phải THA về thời hạn, phương pháp thực hiện nghĩa vụ và những
vấn đề khác liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nếu không trái
với pháp luật, đạo đức xã hội và không làm trở ngại hoạt động THA.
Kết hợp chặt chẽ việc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự và sự chủ động
THA của cơ quan THA, Chấp hành viên tạo nên cơ chế đặc thù của THADS, bảo đảm
quyền lựa chọn cách ứng xử cũng như sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên đương sự,
24
đồng thời khẳng định trách nhiệm của Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân và tổ chức trong hoạt động THADS.
1.3.4. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa với nội dung quan trọng là sự tôn trọng và tuân thủ triệt
để pháp luật của cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức Nhà nước, đã trở thành nguyên
tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, trong
đó có các cơ quan hành chính Nhà nước. Hiến pháp nhà nước ta quy định: "Nhà nước
quản lý Nhà nước bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ

nghĩa".
Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của cơ quan
THADS đòi hỏi: Trong lĩnh vực ban hành pháp luật, các văn bản pháp luật liên quan
đến lĩnh vực thi hành án dân sự phải được ban hành đúng thẩm quyền, các văn bản phải
có nội dung hợp pháp và thống nhất và phải được ban hành theo đúng trình tự, tủ thục
quy định.
Trong lĩnh vực tổ chức thực hiện pháp luật: tổ chức thực hiện pháp luật trong hoạt
động thi hành án dân sự là hoạt động tổ chức thực hiện nội dung các văn bản pháp luật
trong lĩnh vực THADS. Việc thực hiện các hoạt động trong lĩnh vực thi hành án dân sự
phải đúng nội dung, trình tự thủ tục theo quy định của Luật thi hành án dân sự và các
văn bản hướng dẫn thi hành; hoạt động giám sát, kiểm tra thanh tra việc thi hành pháp
luật trong hoạt động của cơ quan THADS, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo phải
được thực hiện một cách nghiêm ngặt, theo đúng các quy định của pháp luật nhằm
ngăn chặn, phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm, đảm bảo cho pháp luật được thực
thi một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong hoạt động cơ quan THADS nguyên tắc này phải được tuân thủ nghiêm
ngặt để việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án được kịp thời, đúng nội dung bản
án, bảo đảm trình tự, thủ tục luật định.
Chấp hành viên có trách nhiệm thi hành đầy đủ, đúng phán quyết của Tòa án,
25

×