Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.43 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ THÚY QUYÊN

PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN KIẾN XƯƠNG,
TỈNH THÁI BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ THÚY QUYÊN

PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN KIẾN XƯƠNG,
TỈNH THÁI BÌNH
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀO THỊ HẰNG

Hà Nội - 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Thúy Quyên

i


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ...................................................................... iv
DANH MỤC BẢNG ..................................................................................... v
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC. .... 7
1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội bắt buộc .................................................... 7
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc ..................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội bắt buộc.............................................. 10
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội bắt buộc .................................................. 13

1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc ................ 16
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ............................... 16
1.2.2. Nguyên tắc của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ....................... 18
1.2.3. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc................................. 21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................... 37
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN KIẾN
XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH .................................................................... 38
2.1. Thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................. 38
2.1.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc..................................... 38
2.1.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc .................................................. 42
2.1.3. Trình tự, thủ tục giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc. ............. 63
2.1.4. Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc.. 68
2.2. Thực tiễn thực hiện, pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại huyện
Kiến Xương, tỉnh Thái Bình ......................................................................... 71
2.2.1. Vài nét về tình hình kinh tế - xã hội huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. 71
ii


2.2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. ............................................................. 73
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................... 87
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC TẠI HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH ............. 88
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc .................... 88
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ...... 91
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật về BHXH bắt buộc
tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.......................................................... 98
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ......................................................................... 102

KẾT LUẬN ............................................................................................... 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 104

iii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TT

Cụm từ viết tắt

Cụm từ viết đầy đủ

1

BHXH

Bảo hiểm xã hội

2

BLLĐ

Bộ luật lao động

3

BHYT


Bảo hiểm y tế

4

DSPHSK

Dưỡng sức phục hồi sức khỏe

5

NLĐ

Người lao động

6

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

7

TNLĐ, BNN

Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

8

ILO


Tổ chức lao động quốc tế

9

UBND

Ủy ban nhân dân

iv


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Tổng hợp số lượng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc ............. 74
(giai đoạn 2015-2018) .................................................................................. 74
Bảng 2.2: Tình hình tham gia BHXH bắt buộc theo khối quản lý năm 2018 75
Bảng 2.3: Tổng quỹ lương trích đóng BHXH bắt buộc theo các khối ........... 76
(giai đoạn 2015-2018) .................................................................................. 76
Bảng 2.4. Tình hình chi trả các chế độ BHXH bắt buộc năm 2016-2018 ...... 79
Bảng 2.5: Tình trạng nợ đọng BHXH giai đoạn 2015-2018.......................... 81

v


MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
An sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản thể hiện
đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hướng vào mục tiêu phát triển
con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc sống của

nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, đó cũng là tiền
đề quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế và sự ổn định ở mọi quốc gia
trên thế giới.
Hệ thống bảo hiểm xã hội đầu tiên ra đời trên thế giới vào giữa thế kỷ
XIX là công trình của Chính phủ Đức dưới thời Thủ tướng Bismark (18831889) với cơ chế ba bên cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao động
trong một số trường hợp họ gặp rủi ro. Sau đó, trước tác dụng tích cực của
bảo hiểm xã hội trong quan hệ lao động nhiều nước đã bắt đầu áp dụng hệ
thống bảo hiểm xã hội. Hiện nay, trên thế giới nói chung người ta gọi bảo
hiểm xã hội là một trong những bộ phận cấu thành và đóng một vai trò trụ cột
của hệ thống an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội thực sự đã trở thành một công cụ
đắc lực và hiệu quả giúp cho Nhà nước điều tiết xã hội trong nền kinh tế thị
trường, phát triển xã hội bền vững.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường của nước ta giai đoạn này là một
nước đang phát triển, các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động chiếm tỉ
lệ cao việc đó đồng nghĩa với việc tỉ lệ người lao động hoạt động trong các
đơn vị lớn, trong quá trình làm việc người lao động có thể gặp những rủi ro
như ốm đau, tai nạn, lao động nữ thì mang thai và sinh con… , việc đóng bảo
hiểm xã hội là cần thiết để bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
của người lao động khi họ bị giảm sút hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết
1


trên cơ sở mức đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội luôn phát
huy tác dụng trong những lúc người lao động gặp khó khăn hiểm nghèo do bị
ốm đau, lao động nữ trong thời gian thai sản, tai nạn lao động, tuổi già…trên
cơ sở những cam kết đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động
cho một bên thứ ba (cơ quan bảo hiểm) trước khi xảy ra những biến cố
đó.Tuy nhiên thực tế việc thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người
lao động vẫn còn những hạn chế và còn nhiều bất cập. Chính vì vậy, Nhà

nước ta cần phải có một cơ chế thích hợp và quản lý chặt chẽ chính sách bảo
hiểm xã hội bắt buộc để chia sẻ được những rủi ro của người lao động và
nâng cao tính cộng đồng xã hội…Vì vậy việc ban hành và thực hiện bảo hiểm
bắt buộc là một vấn đề cấp thiết và phù hợp với nguyện vọng của đa số người
lao động. Đây là nhu cầu chính đáng và thiết thực cần được Nhà nước và xã
hội quan tâm thực hiện.
Trên cả nước nói chung cũng như trên địa bàn huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái Bình nói riêng, việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc vẫn
còn nhiều hạn chế, gặp nhiều vướng mắc và khó khăn nhất định. Do đó, tác
giả đã chọn đề tài “ Pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện
tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực trạng việc xây dựng và phát triển pháp luật bảo hiểm xã hội của
nước ta hiện nay nói chung và bảo hiểm xã hội bắt buộc nói riêng thì nó
không phải còn là một vấn đề mới nhưng nó đã trở thành mối quan tâm sâu
sắc của các nhà nghiên cứu.
Trong thời gian gần đây, nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và những
người quan tâm đến bảo hiểm xã hội đã có những bài viết và công trình
nghiên cứu khoa học nhằm đóng góp, xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội của
nước ta điển hình như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Vụ BHXH
2


(2010) về “ Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ BHXH bắt buộc giai
đoạn đến 2020” hay đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường (Trường Đại học
Luật Hà Nội) do TS. Nguyễn Hiền Phương làm chủ biên (2015) về “Bình
luận khoa học một số quy định của Luật BHXH năm 2014”.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều công trình Luận văn Thạc sỹ luật học nghiên
cứu về vấn đề BHXH bắt buộc như: Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả
Nguyễn Thị La Giang (2015) về “Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc và

thực tiễn ở Hà Nội”; Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Chu Linh Trang
(2017) về “Pháp luật về BHXH bắt buộc và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng
Sơn”; Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Minh Thúy (2018)
về “Pháp luật về BHXH bắt buộc và thực tiễn thi hành tại Quận Hoàng Mai,
Thành phố Hà Nội”.
Ngoài ra, một số bài viết đăng trên tạp chí tiêu biểu như: Bài viết “Một
số bình luận pháp lý liên quan đến Điều 60 Luật BHXH năm 2014” đăng trên
Tạp chí luật học số 6/2015 của PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS. Bùi Thị
Kim Ngân; bài viết “Những điểm mới về chế độ bảo hiểm theo Luật BHXH
năm 2014” đăng trên Tạp chí luật học số 10/2015 của PGS.TS. Nguyễn Hiền
Phương; bài viết “Tính ưu việt của Luật BHXH, Luật Bảo hiểm y tế - thách
thức trong triển khai và giải pháp bảo đảm an sinh xã hội” đăng trên Tạp Chí
cộng sản của TS. Bùi Sỹ Lợi.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu những vấn đề
lý luận, làm rõ những vấn đề cơ bản về khái niệm và đặc trưng của bảo hiểm
xã hội và chỉ ra được thực tiễn thực hiện làm cơ sở cho việc hoàn thiện pháp
luật bảo hiểm xã hội bắt buộc. Ngoài ra các công trình trên cũng đã nghiên
cứu những giải pháp hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy nhiên, trong số các công
trình này chưa có công trình nào đề cập thực tiễn áp dụng về bảo hiểm xã hội
3


trên địa bàn huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Do vậy, Luận văn đã kế thừa
những công trình nghiên cứu đã có, tập trung làm rõ thêm những vấn đề lý
luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc, tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội bắt
buộc tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình để từ đó đưa ra giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của Luật
Bảo hiểm xã hội bắt buộc, đặc biệt tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Mục đích nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài là góp phần làm rõ một số
vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc, đồng thời đánh giá nội dung quy
định pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn thực hiện bảo hiểm xã hội bắt
buộc để từ đó Luận văn đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ
chức thực hiện hiệu quả các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc trong thực tế tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài
xác định các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc và pháp luật
về bảo hiểm xã hội bắt buộc như khái niệm, vai trò của bảo hiểm xã hội bắt
buộc và nội dung pháp luật của bảo hiểm xã hội bắt buộc.
- Phân tích và đánh giá nội dung quy định pháp luật bảo hiểm xã hội bắt
buộc và thực tiễn thực hiện tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
- Làm rõ yêu cầu hoàn thiện pháp luật và đề xuất một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội bắt
buộc tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội
bắt buộc trong giới hạn nghiên cứu của đề tài. Luận văn nghiên cứu những
vấn đề lý luận và hệ thống các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc; quan điểm của Đảng về các chính sách xã hội, bảo hiểm xã hội và bảo
4


hiểm xã hội bắt buộc của nước ta; nêu ra thực tiễn về thực hiện pháp luật bảo
hiểm xã hội bắt buộc hiện nay ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trên cơ
sở đó có những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và
kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật tại huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái Bình.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của triết học

Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng,
các văn bản pháp luật của Nhà nước về bảo hiểm xã hội bắt buộc và quan
điểm của Tổ chức Lao động Quốc tế(ILO) về bảo hiểm xã hội bắt buộc qua
một số Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
Phương pháp nghiên cứu: Để triển khai luận văn cũng như để đạt được
mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tác giả đã sử dụng một số phương pháp
khoa học trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, sử dụng
tổng hợp các phương pháp khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó coi
trọng phương pháp thu thập thông tin, khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp,
nhận xét thực tiễn…
5: Những đóng góp mới của đề tài
- Luận văn đã phân tích được một số quy định lý luận, nội dung pháp
luật cơ bản về bảo hiểm xã hội bắt buộc như khái niệm, đặc điểm, vai trò, sự
điều chỉnh của pháp luật đối với bảo hiểm xã hội bắt buộc.
- Luận văn cũng đã phân tích và đánh giá được thực trạng pháp luật về
bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện trên địa bàn huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình.
- Luận văn cũng đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc; đồng thời đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ
quan hữu quan trong quá trình hoàn thiện và thực hiện pháp luật về bảo hiểm
xã hội bắt buộc, đặc biệt là cơ quan bảo hiểm xã hội, các đơn vị tham gia bảo
hiểm xã hội trên địa bàn huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Luận văn cũng có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong

công tác giảng dạy, nghiên cứu pháp luật, cũng như cho bất kỳ ai có quan tâm
đến các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
chia thành 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc và pháp
luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn
thực hiện tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

6


CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC.

1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc
Con người muốn tồn tại và phát triển thì đầu tiên cần phải lao động.
Trong quá trình lao động con người luôn luôn tác động vào tự nhiên và tác
động qua lại lẫn nhau để tạo ra những sản phẩm, những giá trị cần thiết cho sự
tồn tại và phát triển của mình. Sản phẩm tạo ra càng nhiều thì đời sống con
người càng đầy đủ, điều đó có nghĩa là việc thỏa mãn những nhu cầu sinh
sống và phát triển của con người phụ thuộc vào khả năng lao động của chính
họ. Tuy nhiên trong quá trình lao động con người không phải lúc nào cũng
gặp thuận lợi mà nhiều khi gặp khó khăn, bất lợi làm cho bị giảm hoặc mất
thu nhập hoặc rơi vào các rủi ro khác như bị ốm đau, tai nạn, tuổi già…Khi

rơi vào các trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng nói trên thì các nhu cầu
cần thiết của cuộc sống vẫn tồn tại không hề bị mất đi, mà trái lại có nhu cầu
còn tăng lên hoặc xuất hiện các nhu cầu mới như ốm đau cần được chữa bệnh,
khi chết đi người phụ thuộc cần được nuôi dưỡng…Để vượt qua những khó
khăn, rủi ro phát sinh, từ lâu người ta thường áp dụng các biện pháp phòng
ngừa và các biện pháp khắc phục những hậu quả khác nhau. Một trong các
biện pháp hữu hiệu nhất là lập các quỹ dự trữ và tiến hành bảo hiểm tập trung
trên phạm vi toàn xã hội.
Như vậy, bảo hiểm xã hội ra đời và phát triển là một quá trình thích ứng
và xử lý những vấn đề liên quan đến nhu cầu của con người. Hệ thống bảo
hiểm xã hội đầu tiên ra đời trên thế giới vào giữa thế kỉ XIX là công trình của
Chính phủ Đức dưới thời thủ tướng Bismark (1883-1889) với cơ chế ba bên
7


(Nhà nước – giới chủ - giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao
động trong một số trường hợp họ gặp rủi ro. Chế độ bảo hiểm xã hội này gồm:
Chế độ bảo hiểm ốm đau (1883); bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp (1884) và bảo
hiểm tuổi già, tàn tật (1889). Sau đó trước tác dụng tích cực của bảo hiểm xã hội
trong quan hệ lao động nhiều nước bắt đầu áp dụng hệ thống bảo hiểm xã hội.
Trong những năm 30 của thế kỷ XX, một số nước còn mở rộng thêm những chế
độ khác ngoài bảo hiểm xã hội và xuất hiện khái niệm mới: Social Security (An
sinh, an tòan xã hội). Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã có Công ước số 102
năm 1952 về an sinh xã hội. Hiện nay trên thế giới nói chung người ta coi bảo
hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành của an sinh xã hội.
Ở nước ta, xét về mặt lịch sử bảo hiểm xã hội xuất hiện vào những năm
30 của thế kỷ XX, một số chế độ được áp dụng khi đó là chế độ ốm đau, chế
độ tai nạn, chế độ hưu trí và cũng chỉ áp dụng cho một số đối tượng làm việc,
phục vụ trong bộ máy hành chính, quân đội Pháp. Sau đó, khi thành lập nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và suốt thời gian dài vừa dựng nước, vừa

giữ nước, nước ta đã từng bước phát triển và hoàn thiện các chế độ bảo hiểm
xã hội. Ngày 29/06/2006 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI nước ta đã thông
qua Luật bảo hiểm xã hội và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007, điều này đã
đánh dấu bước phát triển mới của chính sách an sinh xã hội Việt Nam.
Tuy nhiên, khi bàn đến khái niệm bảo hiểm xã hội thì tùy theo góc độ
nhìn nhận mà khái niệm bảo hiểm xã hội được tiếp cận ở nhiều khía cạnh
khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt, bảo hiểm xã hội là sự: “ Bảo đảm những
quyền lợi vật chất cho công nhân, viên chức khi không làm việc được vì ốm
đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động…[20, tr.36]. Giáo trình Luật lao
động của Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội định nghĩa: “Dưới góc độ pháp
lý, bảo hiểm xã hội là tổng hợp các quy định của Nhà nước để điều chỉnh các
quan hệ kinh tế - xã hội hình thành trong lĩnh vực bảo đảm trợ cấp nhằm ổn
8


định đời sống cho người lao động khi họ gặp những rủi ro, hiểm nghèo trong
quá trình lao động hoặc khi già yếu không còn khả năng lao động”[6, tr.312313]. Có tác giả lại cho rằng : “ Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến
cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bằng cách hình
thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của người sử
dụng lao động và người lao động, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người
lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội[9, tr.11]. Còn theo
Giáo trình bảo hiểm của Trường đại học kinh tế quốc dân Hà nội thì bảo hiểm
xã hội “là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích
dần do sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động dưới sự điều
tiết của Nhà nước nhằm đảm bảo nguồn thu nhập thỏa mãn những nhu cầu
thiết yếu của người lao động và gia đình họ khi gặp những biến cố làm giảm
hoặc mất thu nhập theo lao động[12].
Sở dĩ khái niệm bảo hiểm xã hội được tiếp cận với những nội dung đa
dạng như trên bởi trước khi có Luật bảo hiểm xã hội thì không có văn bản pháp

lý nào quy định một cách cụ thể và chính thức về vấn đề này, hơn nữa sự đa
dạng đó còn được giải thích bởi góc độ tiếp cận và nhu cầu nghiên cứu khác
nhau. Hiện nay, theo quy định tại khoản 1, Điều 3 Luật bảo hiểm xã hội 2014
thì bảo hiểm xã hội được định nghĩa như sau: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết
tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.”
Có thể thấy bảo hiểm xã hội ra đời và phát triển là một quá trình thích
ứng và xử lý những vấn đề liên quan đến nhu cầu của con người. Việc đảm
bảo vật chất cho người lao động khi họ gặp những biến cố, rủi ro, trong thời
gian dài lao động sẽ khó được thực hiện thường xuyên và đầy đủ nếu chỉ dựa
9


vào sự tương trợ mang tính hảo tâm. Ngược lại, nó chỉ có thể được bảo đảm
chắc chắn, ổn định và bền vững khi có sự tổ chức và bảo đảm của Nhà nước
với những quy định về sự đóng góp mang tính bắt buộc để hình thành nên
một loại quỹ tiền tệ tập trung ở phạm vi lớn. Chính điều này làm cơ sở cho
việc hình thành nên hình thức bảo hiểm xã hội bắt buộc. Qua nghiên cứu các
quan điểm về bảo hiểm xã hội ở trên ta có thể hiểu rằng “bảo hiểm xã hội bắt
buộc là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
động (và trong một số trường hợp gồm cả thành viên gia đình) khi họ gặp rủi
ro hoặc biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động do một số nguyên nhân
nhất định gây ra (như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
già yếu hoặc chết) trên cơ sở nghĩa vụ bắt buộc tham gia của người sử dụng
lao động và người lao động”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật bảo hiểm xã hội 2014 “Bảo hiểm
xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người
lao động và người sử dụng lao động phải tham gia.”
Như vậy bảo hiểm xã hội bắt buộc là một hình thức đảm bảo về thu nhập

cho người lao động và có thể là thành viên trong gia đình của họ. Việc đảm
bảo này được thực hiện trên cơ sở nghĩa vụ phải tham gia đóng góp của các
đối tượng nhất định nhằm tạo lập ra nguồn chi trả. Hay có thể nói cách khác,
các đối tượng không có quyền lựa chọn tham gia hay không tham gia mà họ
bắt buộc phải tham gia loại hình bảo hiểm xã hội này khi thuộc các trường
hợp mà pháp luật quy định. Tính bắt buộc là một trong những điểm đặc thù
của loại hình bảo hiểm xã hội này.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Thứ nhất: BHXH bắt buộc có những đặc điểm của BHXH nói chung:
Bảo hiểm cho NLĐ trong và sau quá trình lao động. Khi tham gia vào
BHXH thì NLĐ sẽ được bảo hiểm cho đến lúc chết. Khi còn làm việc, NLĐ
10


sẽ được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội trợ cấp ốm đau, lao động nữ được trợ
cấp thai sản khi mang thai, sinh con; người bị tai nạn được trợ cấp tai nạn lao
động; khi không còn làm việc nữa thì được hưởng tiền hưu trí (ở Việt Nam
còn gọi là lương hưu), khi chết thì được hưởng tiền chôn cất và gia đình được
hưởng trợ cấp tuất… Đây là đặc điểm riêng biệt của BHXH thể hiện tính xã
hội rất cao mà không một loại hình bảo hiểm nào có được.
Các sự kiện bảo hiểm và các rủi ro xã hội được bảo hiểm trong BHXH
liên quan đến thu nhập của NLĐ gồm: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thai sản, mất việc làm, già yếu, chết... Do những sự kiện và rủi ro này
mà NLĐ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, dẫn đến việc họ bị giảm hoặc
mất nguồn thu nhập từ hoạt động nghề nghiệp. Trong những trường hợp đó,
NLĐ cần phải có khoản thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống và sự bù
đắp này được thông qua các trợ cấp BHXH. Tuy nhiên, trong BHXH, không
phải NLĐ cứ bị mất thu nhập bao nhiêu là được bù bấy nhiêu. Điều này liên
quan đến quyền và nghĩa vụ của NLĐ được pháp luật BHXH quy định.
Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao

động và phát sinh giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được
BHXH. Các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về quyền lợi, nghĩa vụ và
trách nhiệm, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật về BHXH. Theo đó,
bên tham gia BHXH có thể chỉ là NLĐ hoặc NLĐ và NSDLĐ, là những đối
tượng đóng góp trực tiếp vào quỹ BHXH. Bên BHXH hay chính là bên thực
hiện nhiệm vụ BHXH thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và
bảo trợ. Bên BHXH có trách nhiệm thực hiện chi trả trợ cấp cho bên được
BHXH khi có nhu cầu phát sinh và có trách nhiệm quản lý, đầu tư cho quỹ
BHXH phát triển. Bên hưởng BHXH là NLĐ và có thể là gia đình của họ khi
đáp ứng được các điều kiện hưởng BHXH. Đối với NLĐ, họ vừa là người
tham gia BHXH đồng thời họ vừa là người được quyền hưởng BHXH vì họ
đóng phí BHXH để bảo hiểm cho chính họ.
11


Nhà nước tham gia BHXH với tư cách là người bảo hộ cho các hoạt
động của quỹ BHXH, bảo đảm giá trị đồng vốn và hỗ trợ cho quỹ BHXH
trong những trường hợp cần thiết. Ngoài ra Nhà nước còn tham gia BHXH
với tư cách là chủ thể quản lý, định ra những chế độ, chính sách, định hướng
cho các hoạt động BHXH.
Quỹ BHXH cơ bản được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham
gia BHXH, bao gồm NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. Mặt khác, để bảo đảm duy
trì ổn định quỹ BHXH thì còn có các nguồn khác như lợi nhuận từ đầu tư
phần nhàn rỗi tương đối của quỹ và các nguồn thu hợp pháp khác theo quy
định của pháp luật.
Thứ hai: Bên cạnh những đặc điểm chung kể trên thì BHXH bắt buộc có
những đặc điểm riêng biệt so với hình thức BHXH tự nguyện, cụ thể:
Về đối tượng tham gia: NLĐ và NSDLĐ chính là đối tượng chủ yếu
tham gia BHXH. Vì hiện nay, theo quy định của pháp luật thì tất cả các doanh
nghiệp phải tham gia BHXH cho NLĐ khi sử dụng lao động. Và việc tham

gia BHXH này sẽ do cả NLĐ và NSDLĐ cùng đóng phí cho cơ quan BHXH
mà không phụ thuộc vào việc họ có muốn tham gia BHXH hay không. Việc
tham gia BHXH của những đối tượng này là bắt buộc, không phụ thuộc vào ý
chí của họ. Nếu không tham gia vào BHXH bắt buộc thì NLĐ và NSDLĐ sẽ
phải chịu chế tài xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Trong khi đó đối
tượng tham gia BHXH tự nguyện là những người từ một độ tuổi nhất định và
không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, tham gia BHXH trên cơ sở
tự nguyện.
Mức đóng BHXH bắt buộc được quy định với nghĩa vụ của NLĐ và
NSDLĐ. Các bên tham gia BHXH bắt buộc không có quyền thương lượng,
thỏa thuận về mức đóng BHXH mà pháp luật quy định cho mỗi bên. Pháp luật
thường quy định NSDLĐ có trách nhiệm đóng theo tỷ lệ % trên cơ sở quỹ
12


tiền lương trả cho NLĐ, NLĐ sẽ đóng theo tỷ lệ % trên cơ sở mức tiền lương,
tiền công hàng tháng mà NSDLĐ trả cho NLĐ. Như vậy pháp luật quy định
trách nhiệm của cả hai bên để san sẻ nghĩa vụ về tài chính khi đóng BHXH
cho NLĐ, điều này sẽ làm giảm chi phí và đảm bảo cuộc sống hiện tại của
NLĐ và đồng thời cũng để người SDLĐ có trách nhiệm hơn đối với NLĐ, từ
đó sẽ làm cho mối quan hệ lao động giữa NLĐ và NSDLĐ có sự gắn kết lâu
dài, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên. Còn người tham gia BHXH tự
nguyện được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập,
điều kiện của mình.
Về chế độ hưởng BHXH: BHXH bắt buộc bao gồm nhiều chế độ hưởng
bảo hiểm như: Ốm đau, thai sản; TNLĐ, bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất.
BHXH tự nguyện chỉ có chế độ hưởng là hưu trí và tử tuất.
Về trách nhiệm đóng BHXH: Đối với BHXH bắt buộc, NLĐ và người
SDLĐ có trách nhiệm đóng BHXH bắt buộc cho người lao động. Còn đối với
BHXH tự nguyện, NLĐ khi tham gia BHXH thì phải tự mình đóng toàn bộ số

tiền bảo hiểm.
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trong đà phát triển của nền kinh tế hiện nay, BHXH đã tồn tại ở hầu hết
tất cả các nước trên thế giới. BHXH phát triển có hoàn thiện hay không phụ
thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế, khi kinh tế càng phát triển thì BHXH
càng hoàn thiện và ngược lại. Vì vậy với những đặc trưng riêng của mình
BHXH nói chung và BHXH bắt buộc nói riêng đã có những vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của kinh tế xã hội. Cụ thể:
 Đối với người lao động và gia đình của họ
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước,
BHXH bắt buộc sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân NLĐ gặp phải những rủi
ro, bất hạnh bằng cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế khi NLĐ đã
13


thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ, đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất mà
còn là nguồn động viên tinh thần to lớn, giúp họ ổn định cuộc sống và yên
tâm công tác. Bên cạnh đó, nhờ có BHXH bắt buộc mà cuộc sống của các
thành viên trong gia đình NLĐ cũng được bảo đảm tốt hơn.
Có thể thấy rằng, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống
cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Có nghĩa là
tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho NLĐ khi họ gặp phải các rủi ro thuộc
phạm vi BHXH. Đồng thời, việc NLĐ tham gia BHXH bắt buộc thể hiện sự
tự gánh chịu trực tiếp rủi ro cho chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa
vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ [13, tr99].
 Đối với người sử dụng lao động
BHXH bắt buộc thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của NSDLĐ đối với
NLĐ. BHXH bắt buộc giúp cho các tổ chức sử dụng lao động nói chung hay
các doanh nghiệp nói riêng ổn định hoạt động, ổn định sản xuất kinh doanh
thông qua việc phân phối cho NLĐ một cách hợp lý. Đóng góp vào quỹ

BHXH không trực tiếp mang lại lợi nhuận cho NSDLĐ nhưng sẽ giúp họ
tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi trả một khoản tiền lớn khi có rủi ro
xảy ra đối với NLĐ. Đồng thời góp phần giảm bớt tranh chấp, tạo mối quan
hệ tốt đẹp giữa chủ - thợ.
 Đối với kinh tế - xã hội
Tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước, NSDLĐ và NLĐ, đây là mối
quan hệ ràng buộc, chặt chẽ, chia sẻ rủi ro, mối quan hệ này thể hiện trên các
góc độ khác nhau. Người lao động tham gia BHXH với vai trò bảo vệ quyền
lợi cho chính mình đồng thời phải có trách nhiệm đối với cộng đồng và xã
hội. Người sử dụng lao động tham gia BHXH là để tăng cường tình đoàn kết
và cùng chia sẻ rủi ro cho người lao động, đồng thời cũng bảo vệ, ổn định
cuộc sống cho các thành viên trong xã hội. Mối quan hệ này thể hiện tính
nhân sinh, nhân văn sâu sắc của BHXH.
14


Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, BHXH đặc biệt là BHXH bắt buộc
là trụ cột của an sinh xã hội, là cơ sở để phát triển các bộ phận khác của hệ
thống an sinh xã hội. Các Nhà nước thường dựa vào mức độ bao phủ của
chính sách BHXH để xác định những đối tượng nào còn gặp khó khăn, cần
cộng đồng chia sẻ nhưng chưa được tham gia BHXH để đưa ra những giải
pháp như trợ cấp, cứu trợ xã hội…Trên cơ sở đó BHXH là căn cứ để đánh giá
trình độ quản lý rủi ro của từng quốc gia và mức độ an sinh xã hội đạt được
của mỗi nước.
BHXH còn phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.
Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến mức độ nào đó thì hệ
thống BHXH có điều kiện ra đời và phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế cho
rằng, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh
tế. Khi nền kinh tế chậm phát triển, đời sống dân sinh thấp thì không thể có
một hệ thống BHXH vững mạnh được. Ngược lại, khi kinh tế càng phát triển,

hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các
hình thức BHXH ngày càng phong phú.
BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm khoảng cách chênh
lệch giàu nghèo. Bên cạnh đó, hoạt động BHXH cũng góp phần vào việc huy
động vốn đầu tư, làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội
ngày càng phát triển.
Ngoài ra đối với các doanh nghiệp, khi những người lao động không
may gặp rủi ro thì đã được chuyển giao cho cơ quan BHXH chi trả. Nhờ vậy
tình hình tài chính của các doanh nghiệp được ổn định hơn. Hệ thống BHXH
đã bảo đảm ổn định xã hội tạo tiền đề phát triển nền kinh tế thị trường.
Tóm lại, BHXH nói chung và đặc biệt là BHXH bắt buộc là một trong
những chính sách xã hội quan trọng không thể thiếu được của mỗi quốc gia
nhằm ổn định đời sống kinh tế - xã hội, là tiền đề thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
bền vững và góp phần làm vững chắc thể chế chính trị.
15


1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Kể từ khi ra đời cho đến nay, BHXH vẫn là hình thức bảo vệ hữu hiệu
nhất được hầu hết các quốc gia trên thế giới tổ chức thực hiện, BHXH được
xác định như một quyền cơ bản của NLĐ và trở thành một bộ phận vô cùng
quan trọng trong hệ thống pháp luật an sinh xã hội của mỗi quốc gia.
Pháp luật về BHXH bắt buộc là tổng hợp các quy định của Nhà nước
điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và sử dụng
một quỹ tiền tệ tập trung, dựa trên sự đóng góp bắt buộc của người SDLĐ và
những NLĐ nhất định nhằm đảm bảo các điều kiện vật chất và tinh thần của
NLĐ và gia đình khi họ gặp rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập[10, tr11].
Từ lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật BHXH trên thế giới cho
thấy, BHXH bắt buộc là vấn đề của mỗi quốc gia. Từ cuối thế kỷ thứ XIX

chính quyền nhiều bang ở Đức bắt tay với giới thợ thuyền lập quỹ ốm đau do
chính những người thợ đóng góp bắt buộc để hỗ trợ cho những người bị ốm
đau. Đây là lần đầu tiên đánh dấu sự ra đời của loại hình BHXH bắt buộc.
Năm 1883, đạo luật đầu tiên về BHXH ở Đức được ban hành, nhằm trợ cấp
cho NLĐ ốm đau. Năm 1884 mở rộng thêm hình thức trợ cấp rủi ro nghề
nghiệp, sau này gọi là trợ cấp TNLĐ, BNN. Sau đó đến năm 1889 thì phát
triển thêm hình thức trợ cấp tuổi già và trợ cấp tàn tật. Pháp luật BHXH của
Đức quy định việc tổ chức quản lý thực hiện BHXH gồm 3 bên bao gồm: đại
diện NLĐ, đại diện NSDLĐ và Nhà nước. Cả 3 bên đều có trách nhiệm đóng
góp một phần vào quỹ BHXH. Mọi người làm công ăn lương đều bắt buộc
phải đóng góp BHXH và từ đây NLĐ được bảo hộ về mặt pháp lý từ phía
Nhà nước khi họ gặp rủi ro hay già yếu.
Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã có pháp luật BHXH về
BHXH bắt buộc. Mục tiêu đặt ra của BHXH bắt buộc ở các nước đều là sự
16


bảo vệ cho NLĐ khi gặp rủi ro, bất hạnh do bị mất hoặc giảm thu nhập thì họ
sẽ nhận được một khoản trợ cấp để sinh sống. Từ đó phạm vi và đối tượng áp
dụng của pháp luật BHXH được mở rộng dần. Các hình thức trợ cấp cũng dần
được bổ sung, nhằm hạn chế những rủi ro có thể xảy ra đối với NLĐ. Như ở
trên ta có thể thấy, đạo luật BHXH đầu tiên trên thế giới ở Đức mới chỉ thực
hiện dạng trợ cấp ốm đau, sau đó là bảo hiểm TNLĐ, BNN, tàn tật, già yếu
mới lần lượt được quy định bổ sung thêm. Nước Nga là quốc gia đầu tiên quy
định loại trợ cấp cho phụ nữ góa bụa và có con nhỏ khi công chức chết. Sau
đó, ở các nước khác cũng thực hiện loại trợ cấp này. Năm 1911, Vương quốc
Anh là nước đầu tiên có luật về bảo hiểm thất nghiệp, rồi một số nước khác ở
Châu Âu, Canada và Hoa Kỳ cũng thực hiện trong thập kỷ 30 [14, tr6]…
Để phát triển và hoàn thiện pháp luật về BHXH của nhiều nước và trước
sự thúc đẩy tiến bộ xã hội, ngày 28/06/1952, Tổ chức ILO đã thông qua công

ước số 102 về BHXH bao gồm 9 dạng trợ cấp. Công ước này đã định ra một
cơ cấu thống nhất và có phối hợp về BHXH giữa các nước thành viên của
ILO. Tuy nhiên, Công ước cũng giành một số các lựa chọn có tính chất ngoại
lệ cho việc vận dụng đối với những nước chưa phát triển về kinh tế và y tế
trong một thời gian thích hợp.
Vấn đề được đặt ra là để thực hiện được mục đích của BHXH bắt buộc
thì pháp luật của các nước đều phải quán triệt tăng cường vai trò mọi mặt của
Nhà nước đối với BHXH bắt buộc, mọi hoạt động liên quan đến BHXH bắt
buộc phải do Nhà nước thống nhất quản lý. Vai trò của Nhà nước được thể
hiện trước hết ở việc Nhà nước trực tiếp ban hành các quy định về BHXH bắt
buộc, trực tiếp tổ chức ra bộ máy thực hiện BHXH và kiểm tra việc thực hiện
BHXH bắt buộc. Tùy theo tình hình điều kiện kinh tế, xã hội trong từng thời
kỳ phát triển của đất nước mà Nhà nước hoạch định chính sách quốc gia về
BHXH bắt buộc một cách phù hợp.
17


Từ đây có thể thấy việc điều chỉnh pháp luật về BHXH bắt buộc mang yếu
tố khách quan và là cần thiết. Nếu có một chính sách đúng đắn thì BHXH đóng
vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định tình hình chính trị của đất nước và sự
phát triển nền kinh tế quốc dân, ngược lại, nếu không có định hướng đúng thì nó
sẽ có tác động tiêu cực tới tình hình chính trị, kinh tế và tiến bộ xã hội.
1.2.2. Nguyên tắc của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Nguyên tắc của pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc là những tư tưởng
chỉ đạo xuyên suốt và chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật về
BHXH bắt buộc. Nó thể hiện quan điểm, đưởng lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước về kinh tế - xã hội nói chung.
Việc thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng cần phải tuân thủ các
nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc này bao gồm:
Thứ nhất: Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian

đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm.
Nguyên tắc này được hiểu là có đóng BHXH thì sẽ được hưởng chế độ.
Bảo hiểm xã hội là một trong những hình thức phân phối tổng sản phẩm quốc
dân nên việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải dựa trên cơ sở sự kết hợp hài hòa
giữa cống hiến và hưởng thụ. Nghĩa là phải đảm bảo hợp lý giữa mức đóng
góp và hưởng thụ, tức là phải căn cứ vào mức đóng góp của người lao động
cho xã hội thể hiện thông qua mức đóng, thời gian đóng góp cho quỹ bảo
hiểm xã hội…để từ đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng trợ cấp
phù hợp với sự đóng góp cho xã hội của người lao động. Tuy nhiên bảo hiểm
xã hội bên cạnh nội dung kinh tế còn chứa đựng trong mình nội dung xã hội
và một trong những biểu hiện của nó là nguyên tắc “chia sẻ rủi ro”, “lấy số
đông bù số ít”. Do đó, người lao động đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội
không có nghĩa chắc chắn sẽ hưởng mọi chế độ bảo hiểm xã hội, sự đóng góp
của họ sẽ có ý nghĩa rất lớn cho những đối tượng gặp phải những rủi ro
18


×