Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện tại tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LƢỜNG THANH HUYỀN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành
Mã số

: Luật Kinh tế
: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Thúy Lâm

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả được nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu và trích dẫn nêu trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Xác nhận của giảng viên hƣớng dẫn

Tác giả luận văn



PGS.TS. Trần Thị Thúy Lâm

Lƣờng Thanh Huyền


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

TNLĐ, BNN

Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động



DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1. Số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc giai đoạn 2010 - 2015...............56
Bảng 3.2: Số người tham gia BHXH bắt buộc 3 tháng đầu năm 2016....................57
Bảng 3.3: Tổng hợp thu, chi quỹ BHXH bắt buộc giai đoạn 2010 - 2015...............57
Bảng 3.4: Chi quỹ BHXH bắt buộc 3 tháng đầu năm 2016 ....................................58
Bảng 3.5: Giải quyết chế độ BHXH bắt buộc giai đoạn 2010 - 2015......................59
Bảng 3.6: Giải quyết chế độ BHXH bắt buộc 3 tháng đầu năm 2016......................60


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................2
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu ........................................................................3
4. Đối tượng nghiên cứu .........................................................................................3
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn .................................................................3
6. Các phương pháp nghiên cứu .............................................................................4
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................4
8. Bố cục của luận văn ............................................................................................4
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ..................................... 5
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của Bảo hiểm xã hội bắt buộc ......................................5
1.1.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội bắt buộc .......................................................5
1.1.2. Ý nghĩa của Bảo hiểm xã hội bắt buộc .....................................................8
1.2. Các nguyên tắc của Bảo hiểm xã hội bắt buộc ..............................................10
1.3. Nội dung pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc ..........................................12
1.3.1. Đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc .......................................12
1.3.2. Quỹ Bảo hiểm xã hội bắt buộc ............................................................... 13

1.3.3. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc .....................................................15
1.3.4. Xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội bắt buộc ...........................................23
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO
HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC .............................................................................. 26
2.1. Đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc ..............................................26
2.2. Quỹ Bảo hiểm xã hội bắt buộc......................................................................29
2.3. Các chế độ Bảo hiểm xã hội bắt buộc ...........................................................31
2.3.1. Chế độ bảo hiểm ốm đau ........................................................................31
2.3.2 Chế độ bảo hiểm thai sản.........................................................................35
2.3.3. Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ............................38
2.3.4. Chế độ bảo hiểm hưu trí ........................................................................40
2.3.5. Chế độ bảo hiểm tử tuất..........................................................................45
2.4. Xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội bắt buộc ..................................................48


Chương 3. THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT
BUỘC Ở TỈNH SƠN LA VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ......................................... 53
3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc ở tỉnh Sơn La ...53
3.1.1. Một số nét về tình hình lao động ở tỉnh Sơn La và Bảo hiểm xã hội tỉnh
Sơn La ...............................................................................................................53
3.1.2.Thực tiễn thi hành pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc ở tỉnh Sơn La ...55
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thiện
pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ở tỉnh Sơn la ............................................64
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................ 64
3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm
xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Sơn La ..........................................................68
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử văn minh của nhân loại là lịch sử của lao động và sáng tạo. Lao động
là điều kiện cơ bản để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Tuy nhiên
trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện sức
khỏe và khả năng lao động để nuôi sống được bản thân và gia đình. Bên cạnh đó
ngay cả trong quá trình lao động họ cũng không thể tránh khỏi những rủi ro làm ảnh
hưởng đến sức lao động như ốm đau, tai nạn, tuổi già, chết hoặc do những tác nhân
xã hội khác như điều kiện sống và sinh hoạt...
Chính bởi trong cuộc sống con người luôn phải đối mặt với những rủi ro
không lường trước được nên cần phải có những biện pháp để đảm bảo an toàn khi
gặp phải các rủi ro, một trong các biện pháp đó chính là tham gia bảo hiểm xã hội.
Trên thế giới, hình thức bảo hiểm xã hội xuất hiện đầu tiên ở Đức vào khoảng giữa
thế kỷ XIX khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ với một số
chế độ bảo hiểm xã hội mang tính bắt buộc. Sau đó, bảo hiểm xã hội được lan rộng
ra các nước châu Âu và các nước khác. Cho đến nay, hầu hết các quốc gia đều đã
xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội. Ở Việt Nam, bảo hiểm xã hội cũng là vấn đề
được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Ngay từ khi mới giành được độc lập
trong Sắc lệnh số 29/SL do Hồ Chủ Tịch ký cũng đã có quy định về chế độ phụ cấp
cho công nhân như phụ cấp gia đình, phụ cấp thâm niên; chế độ nghỉ đẻ và cho con
bú của phụ nữ; chế độ nghỉ ốm đau cho công nhân, chế độ tai nạn lao động và trách
nhiệm của chủ sử dụng lao động. Đây là những yếu tố có tính chất tiền đề đánh dấu
một nền móng vững chắc cho sự phát triển của pháp luật bảo hiểm xã hội trong
những giai đoạn phát triển của đất nước sau này. Điểm mốc đánh dấu bước ngoặt
quan trọng trong lịch sử pháp luật về bảo hiểm xã hội Việt Nam chính là Luật bảo
hiểm xã hội năm 2006, trong đó có quy định cụ thể 5 chế độ bảo hiểm xã hội mang
tính bắt buộc, đó là chế độ bảo hiểm xã hội ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. Tuy nhiên sau gần 10 năm thực hiện, Luật bảo hiểm xã
hội cũng đã bộc lộ nhiều điểm còn bất cập, mâu thuẫn và đặc biệt là nhiều điểm còn

chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tế. Chính vì vậy, năm 2014, Quốc Hội đã ban
hành luật bảo hiểm xã hội mới đánh dấu sự phát triển hơn nữa của pháp luật về bảo
hiểm xã hội ở Việt Nam
Các chế độ bảo hiểm được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội 2014 sẽ


2
ngày càng đáp ứng tốt hơn trong việc chăm lo đời sống cho người lao động, đặc biệt
là các quy định của chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc. Luật bảo hiểm xã hội năm
2014 bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/2016 nên việc triển khai thực hiện sao cho có
hiệu quả là vấn đề cần thiết phải đặt ra. Sơn La là một trong các tỉnh vùng núi Tây
Bắc có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống. Sự am hiểu pháp luật nói chung và pháp
luật về bảo hiểm xã hội còn có nhiều hạn chế. Chính vì vậy nắm bắt và hiểu rõ các
quy định luật bảo hiểm xã hội và triển khai thực hiện có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Với mong muốn làm rõ hơn và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận cũng như
pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội 2014
cũng như thực tiễn thực hiện trên thực tế, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về bảo
hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La” làm luận văn thạc sĩ
luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đặc biệt khi Luật Bảo hiểm xã hội 2014 được ban hành
đã có một số công trình nghiên cứu khoa học, bài báo, tạp chí viết về vấn đề bảo
hiểm xã hội. Ở phạm vi, mức độ khác nhau đã có một số công trình nghiên cứu, bài
viết đề cập đến pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc nói chung và các chế độ nói
riêng, điển hình như:
- Vụ Bảo hiểm xã hội (2010), “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ
bảo hiểm xã hội bắt buộc giai đoạn đến 2020”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS. Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Một số bình
luận pháp lý liên quan đến Điều 60 Luật BHXH năm 2014”, Tạp chí Luật học, (6);
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS. Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Sửa đổi

Điều 60 Luật BHXH năm 2014 dưới góc nhìn quan hệ lao động tập thể”, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, (9);
- Hoàng Kim Khuyên và Hoàng Thị Quỳnh Trang (2014), “Thực trạng nợ,
chậm và “trốn” đóng tiền BHXH ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, (8);
- Đặng Như Lợi (2014), “Cải cách Luật BHXH để mở rộng bảo hiểm hưu trí
đối với người cao tuổi”, Tạp chí Lý luận chính trị, (12);
- Bùi Sỹ Lợi (2015), “Tính ưu việt của Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm
y tế - thách thức trong triển khai và giải pháp bảo đảm an sinh xã hội”, Tạp chí
Cộng sản, (7);
- TS. Nguyễn Hiền Phương (chủ biên, 2015), “Bình luận khoa học một số


3
quy định của luật Bảo hiểm xã hội năm 2014”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Những bài viết này tuy đã đề cập đến một số chế độ của bảo hiểm xã hội bắt
buộc của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 như chế độ bảo hiểm xã hội thai sản, chế
độ bảo hiểm xã hội hưu trí song chủ yếu mới dừng lại ở việc đề cập các điểm mới
hoặc về cách hiểu, cách áp dụng các quy định của luật Bảo hiểm xã hội...chứ chưa
có sự đánh giá một cánh toàn diện đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng
như thực tiễn thực hiện. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về việc
thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc ở tỉnh Sơn La.
Chính vì vậy, đây chính là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về bảo
hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Sơn La.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo hiểm xã
hội bắt buộc, thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội bắt buộc
và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại

tỉnh Sơn La từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trong giai đoạn hiện nay ở Sơn La.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội bắt buộc nói riêng là vấn đề
có thể nghiên cứu ở nhiều góc độ như góc độ kinh tế, góc độ pháp lý…Trong luận
văn này tác giả chủ yếu chỉ nghiên cứu dưới góc độ pháp lý. Bảo hiểm xã hội bắt
buộc cũng là nội dung rộng gồm nhiều vấn đề, song luận văn chỉ nghiên cứu ở một
số khía cạnh như đối tượng tham gia, quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc và các chế độ
bảo hiểm xã hội bắt buộc...Những nội dung như giải quyết tranh chấp về bảo hiểm
xã hội bắt buộc không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 về
bảo hiểm xã hội bắt buộc và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, luận văn
cũng nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc của một số nước là sơ sở
cho sự so sánh với pháp luật Việt Nam.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn đi vào nghiên cứu và trả lời một số câu hỏi sau:
- Bảo hiểm xã hội bắt buộc là gì? Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc gồm


4
những nội dung gì, pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc của các quốc gia trên thế
giới quy định như thế nào?
- Thực trạng pháp luật hiện hành về bảo hiểm xã hội bắt buộc ở Việt Nam
hiện nay như thế nào?
- Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh
Sơn La hiện nay ra sao?
- Cần có những kiến nghị gì để hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội bắt
buộc nói chung và nâng cao hiệu quả thực thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc ở tỉnh Sơn La?

6. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp
nghiên cứu cụ thể phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài như: phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kế...cũng được sử dụng trong quá trình nghiên
cứu phù hợp với từng chương và nội dung của đề tài.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Luận văn đã làm sâu sắc và hoàn thiện hơn những vấn đề lý luận về Bảo
hiểm xã hội bắt buộc.
- Phân tích một cách sâu sắc thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo
hiểm xã hội bắt buộc.
- Đánh giá một cách đầy đủ là toàn diện thực trạng thi hành các chế độ bảo
hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Sơn La.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được trình bày trong ba
chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về Bảo hiểm xã hội bắt buộc và pháp luật về
bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về Bảo hiểm xã hội bắt
buộc.
Chƣơng 3: Thực tiễn thi hành pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc ở tỉnh Sơn
La và một số kiến nghị.


5

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của Bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.1.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trong quá trình sinh tồn và trưởng thành của mỗi con người, nhằm thỏa mãn
những nhu cầu thiết yếu nhất là ăn, ở, mặc, sinh hoạt...con người phải lao động để
làm ra những của cải, vật chất cần thiết. Nhưng trên thực tế cuộc sống của con
người tuân theo một quy luật: sinh ra, trưởng thành, tuổi già và chết. Trong quá
trình đó, con người không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi mà nhiều khi gặp khó
khăn, bất lợi làm cho họ bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống
khác như bị ốm đau, tai nạn, mất việc, tuổi già...Khi rơi vào các trường hợp bị giảm
hoặc mất khả năng nói trên các nhu cầu cần thiết của cuộc sống không vì thế mà
mất đi, trái lại có nhu cầu tăng lên, thậm chí có thể xuất hiện thêm những nhu cầu
mới. Để vượt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh, từ lâu con người đã áp dụng các
biện pháp phòng ngừa và các biện pháp khắc phục khác nhau. Một trong các biện
pháp hữu hiệu nhất là lập các quỹ dự trữ và tiến hành thực hiện bảo hiểm xã hội tập
trung trên phạm vi toàn xã hội. Bởi vậy, thực chất Bảo hiểm xã hội (BHXH) chính
là: “Bảo hiểm thu nhập cho người lao động (NLĐ) trong một số trường hợp, do Nhà
nước tổ chức quản lý”(1).
Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật BHXH trên thế giới cho thấy,
BHXH nói chung và BHXH bắt buộc nói riêng là vấn đề của mỗi quốc gia, nó đã
xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ thế kỉ XIII ở Nam Âu khi nền công
nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên ban đầu BHXH chỉ
mang tính chất sơ khai, với phạm vi nhỏ hẹp. Từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVI một số
nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời và để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp
họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau.
Cộng hòa liên bang Đức là nước đầu tiên thiết lập BHXH và BHXH lúc đó
hoàn toàn mang tính chất bắt buộc. Tuy nhiên, sự phát triển của BHXH được thiết
lập từng bước. Từ năm 1881 đến 1889, các chế độ BHXH bắt buộc lần lượt ra đời:

(1). Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 85.



6
chế độ bảo hiểm xã hội ốm đau được thiết lập năm 1883, chế độ bảo hiểm tai nạn
lao động năm 1884 và chế độ bảo hiểm tuổi già năm 1889. Vào cuối thế kỷ XIX, ở
Đức chỉ có 10% dân số tham gia BHXH bắt buộc. Tuy nhiên đến thế kỷ XX, đặc
biệt là từ năm 1950 BHXH bắt buộc phát triển đến mức số người tham gia chiếm
hơn 90% dân số.(2)
Bảo hiểm xã hội đã trở thành một trong những quyền của con người và được
xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc (10/12/1948) đã ghi
nhận: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng
BHXH”. Ngày 04/6/1952, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã kí công ước Giơnevơ
về “Bảo hiểm xã hội cho người lao động” đã khẳng định tất yếu các nước phải tiến
hành BHXH cho NLĐ và gia đình họ.
Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện chính sách BHXH đặc
biệt là BHXH bắt buộc và coi đó là một trong những chính sách xã hội quan trọng
nhất trong hệ thống an sinh xã hội. Mục đích của pháp luật BHXH bắt buộc ở các
nước đều giống nhau là bảo vệ và hỗ trợ về vật chất cho NLĐ khi họ gặp phải rủi
ro, bất hạnh do suy giảm khả năng lao động hoặc hết tuổi lao động…dẫn đến bị
ngừng hoặc giảm thu nhập. Chính vì vậy, phạm vi và đối tượng áp dụng của pháp
luật BHXH bắt buộc ngày càng được mở rộng. Thông thường các nước thực hiện
BHXH cho công chức Nhà nước và quân đội, rồi đến công nhân trong các xí nghiệp
do Nhà nước quản lý và những người làm công ăn lương do tư nhân thuê mướn và
mở rộng đến những dạng lao động khác. Các chế độ trợ cấp BHXH bắt buộc cũng
được bổ sung dần, nhằm đảm bảo khắc phục được toàn diện những rủi ro có thể xảy
ra với NLĐ. Điều đó cho thấy BHXH bắt buộc đặc biệt quan trọng và có thể xem là
trụ cột chính của hệ thống bảo hiểm xã hội.
Vậy BHXH là gì? Theo khoản 1 Điều 3 Luật BHXH năm 2014 thì BHXH
được hiểu là: “sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ
bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,

hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”. Như vậy, về
bản chất BHXH chính là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
người lao động trong trường hợp họ gặp rủi ro trong qúa trình lao động như ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động hoặc khi họ không còn tham gia quan hệ lao động nữa như
(2). Ủy ban các vấn để xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 319.


7
hết tuổi lao động, chết…BHXH thường được thực hiện dưới 2 hình thức: BHXH
bắt buộc và BHXH tự nguyện trong đó BHXH bắt buộc là hình thức BHXH quan
trọng được áp dụng với phạm vi đối tượng tương đối rộng và các chế độ BHXH bao
gồm cả BHXH ngắn hạn và BHXH dài hạn
Vậy, thế nào là BHXH bắt buộc? Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học,
Nxb.Công an nhân dân năm 1999, BHXH bắt buộc là: “loại hình BHXH chủ yếu,
bắt buộc áp dụng đối với một số đối tượng theo quy định của pháp luật”. Luật
BHXH năm 2006 quy định: “Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội
mà người lao động và NSDLĐ phải tham gia.” Còn theo khoản 2 Điều 3 Luật
BHXH năm 2014 của Việt Nam thì BHXH bắt buộc được hiểu: “Là loại hình bảo
hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người lao động và người sử dụng lao động
phải tham gia.”
Như vậy, có thể thấy BHXH bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội có tính
chất bắt buộc áp dụng đối với một số đối tượng là NLĐ và người sử dụng lao động
(NSDLĐ). Những đối tượng này dù muốn hay không muốn cũng bắt buộc phải
tham gia hay nói cách khác việc tham gia BHXH là nghĩa vụ bắt buộc của NLĐ và
NSDLĐ, họ không có quyền từ chối hay thỏa thuận.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về BHXH bắt
buộc như sau: “BHXH bắt buộc là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức, thực hiện,
được bắt buộc áp dụng đối với một số đối tượng là NLĐ và NSDLĐ theo quy định
của pháp luật”. Như vậy, BHXH bắt buộc bao giờ cũng do nhà nước tổ chức thực

hiện. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi quốc gia quy định
về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc rộng, hẹp khác nhau. Đặc trưng cơ bản của
BHXH bắt buộc so với BHXH tự nguyện là tính bắt buộc. Tính bắt buộc của BHXH
thể hiện ở chỗ:
Về đối tượng tham gia: đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là NLĐ và
NSDLĐ. Tuy nhiên, những đối tượng nào theo quy định của pháp luật thuộc diện
đóng BHXH bắt buộc thì đều bắt buộc phải tham gia BHXH dù muốn hay không.
Việc tham gia BHXH của các đối tượng này vừa là quyền nhưng đồng thời cũng
vừa là nghĩa vụ của họ. Điều đó có nghĩa việc tham gia BHXH của các đối tượng
này không phụ thuộc vào ý chí của họ mà do pháp luật quy định. NLĐ và NSDLĐ
không thể thỏa thuận về việc có tham gia BHXH hay không cũng như thay thế việc
đóng BHXH bằng các hình thức khác.


8
Về mức đóng: Mức đóng của BHXH bắt buộc thường là do pháp luật ấn
định đối với cả NLĐ và NSDLĐ, NLĐ và NSDLĐ phải đóng BHXH trên cơ sở
mức đóng do pháp luật quy định. Các bên không có quyền lựa chọn mức đóng, cũng
như thương lượng hay thỏa thuận mức đóng. Thông thường, mức đóng BHXH hàng
tháng được tính theo mức phần trăm tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao
động, hợp đồng làm việc và do pháp luật quy định.
Về các chế độ BHXH: các chế độ của BHXH bắt buộc cũng do pháp luật quy
định. Tùy theo tình hình kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà các chế độ được quy
định khác nhau. Tuy nhiên khi đã tham gia BHXH bắt buộc thì sẽ phải tham gia tất
cả các chế độ BHXH chứ không được lựa chọn tham gia một hay một vài chế độ.
Các chế độ BHXH bắt buộc thông thường bao gồm: chế độ ốm đau, chế độ thai sản,
chế độ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Ngoài
ra, điều kiện hưởng, mức hưởng của các chế độ BHXH bắt buộc cũng do pháp luật
quy định chứ không phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
1.1.2. Ý nghĩa của Bảo hiểm xã hội bắt buộc

Ra đời và phát triển cùng với nền kinh tế thị trường, BHXH đã có mặt ở hầu
hết các nước trên thế giới. Trình độ phát triển của BHXH được quyết định bởi mức
độ phát triển của nền kinh tế, nền kinh tế càng phát triển thì mức độ hoàn thiện của
BHXH ngày càng cao và với những đặc trưng riêng có của mình BHXH nói chung
và BHXH bắt buộc nói riêng đã có ý nghĩa thiết thực đối với sự phát triển kinh tế xã
hội như sau:
* Đối với người lao động
Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì những "rủi ro" như ốm đau, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm…lại diễn ra một cách thường xuyên và
ngày càng phổ biến hơn, phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra sẽ gây khó khăn
cho NLĐ về cả vật chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng không tốt cho cả cộng đồng.
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước,
BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân NLĐ gặp phải rủi ro, bất hạnh bằng cách
tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi…Đó
không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn, giúp
họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai. Từ
đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng công
việc cho cơ quan, xí nghiệp nói riêng và cho toàn xã hội nói chung. Bên cạnh đó,


9
nhờ có BHXH, cuộc sống của những thành viên trong gia đình NLĐ đặc biệt là trẻ
em và người già cũng được đảm bảo tốt hơn.
* Đối với người sử dụng lao động
Bảo hiểm xã hội giúp cho các tổ chức sử dụng lao động nói chung hay các
doanh nghiệp nói riêng ổn định hoạt động, ổn định sản xuất kinh doanh thông qua
việc phân phối các chi phí cho NLĐ một cách hợp lý. Nếu không có BHXH, các tổ
chức sử dụng lao động trả tiền bảo hiểm cùng với tiền lương hàng tháng để NLĐ tự
lo thì nguồn tiền này có thể bị sử dụng vào những nhu cầu, những mục đích khác và
không phải bao giờ cũng hiệu quả. Đến khi NLĐ gặp phải những rủi ro như ốm đau,

tai nạn không có nguồn thu nhập, chi phí thuốc men...đời sống của họ bị ảnh hưởng
thì quan hệ lao động, chất lượng lao động sẽ bị ảnh hưởng. Qua việc phân phối chi
phí cho NLĐ hợp lý, BHXH bắt buộc góp phần làm cho lực lượng lao động trong
mỗi đơn vị ổn định, sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả, các bên trong quan
hệ lao động cũng gắn bó với nhau hơn.
BHXH bắt buộc tạo điều kiện cho NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ, không
chỉ khi trực tiếp sử dụng lao động mà trong suốt cuộc đời NLĐ, cho đến khi già
yếu, khiến cho BHXH bắt buộc có tính nhân văn sâu sắc hơn.
Tóm lại, tuy không trực tiếp mang lại lợi ích cho NSDLĐ nhưng BHXH bắt
buộc gián tiếp làm tăng kết quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị.
* Đối với xã hội:
Bản chất và chức năng vốn có của BHXH là việc chia sẻ những rủi ro, tạo ra
sự san sẻ, tương trợ giữa NSDLĐ và NLĐ, và ngay cả giữa những NLĐ với nhau
theo nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”. Thông qua việc tham gia BHXH rủi ro của
một người sẽ được chia sẻ cho nhiều người trong cộng đồng, thông qua việc hình
thành, phân phối và sử dụng quỹ BHXH. Nó tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao
tính cộng đồng xã hội, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội.
Đối với nhiều quốc gia, BHXH đặc biệt là BHXH bắt buộc được xem là một
trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, là cơ sở để phát triển các bộ phận khác của hệ
thống an sinh xã hội. Các nhà nước thường căn cứ vào mức độ bao phủ của chính
sách BHXH để xác định những đối tượng nào còn gặp khó khăn, cần cộng đồng
chia sẻ nhưng chưa được tham gia BHXH để thiết kế những mạng lưới khác của an
sinh xã hội như trợ cấp, cứu trợ xã hội...Trên cơ sở đó, BHXH là căn cứ để đánh giá
trình độ quản lý rủi ro của từng quốc gia và mức độ an sinh xã hội đạt được của mỗi
nước.


10
Bảo hiểm xã hội còn là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội của
một quốc gia. Khi kinh tế càng phát triển, đời sống của NLĐ được nâng cao thì nhu

cầu tham gia BHXH của họ càng lớn. Thông qua hệ thống BHXH, trình độ tổ chức,
quản lý rủi ro xã hội của các nhà nước cũng ngày càng được nâng cao thể hiện bằng
việc mở rộng đối tượng tham gia, đa dạng về hình thức bảo hiểm, quản lý được
nhiều trường hợp rủi ro trên cơ sở phát triển các chế độ BHXH.
Bảo hiểm xã hội góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm khoảng cách
chênh lệch giàu nghèo. Bên cạnh đó, hoạt động BHXH cũng góp phần vào việc huy
động vốn đầu tư, làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội phát triển.
Như vậy, BHXH bắt buộc là một trong những chính sách xã hội quan trọng
không thể thiếu của mỗi quốc gia nhằm ổn định đời sống kinh tế - xã hội, là tiền đề
thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững và góp phần làm vững chắc thể chế chính trị.
1.2. Các nguyên tắc của Bảo hiểm xã hội bắt buộc
* Mức hưởng bảo hiểm xã hội bắt buộc được xác định trên cơ sở mức đóng,
thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm
xã hội.
Bảo hiểm xã hội là một trong những hình thức phân phối tổng sản phẩm quốc
dân nên việc thực hiện BHXH phải dựa trên cơ sở sự kết hợp hài hòa giữa cống hiến
và hưởng thụ, tức là phải căn cứ vào mức đóng góp của NLĐ cho xã hội thể hiện qua
mức đóng và thời gian đóng góp cho quỹ BHXH...để từ đó quy định mức trợ cấp phù
hợp với sự đóng góp cho xã hội của NLĐ. Trong một số trường hợp, mức hưởng
BHXH bắt buộc còn phải dựa trên thời gian đóng BHXH. Tuy nhiên, BHXH bắt
buộc bên cạnh nội dung kinh tế còn chứa đựng trong mình nội dung xã hội và một
trong những biểu hiện của nó là nguyên tắc “chia sẻ rủi ro”, “lấy số đông bù số ít”(3).
Như vậy, BHXH bắt buộc còn thực hiện mục đích chia sẻ rủi ro trong cộng đồng, có
nghĩa là chia sẻ thu nhập của người khỏe mạnh cho người ốm đau, tai nạn hoặc chia
sẻ giữa người có tuổi thọ thấp cho người có tuổi thọ cao...
Chính vì vậy, NLĐ đóng góp vào quỹ BHXH bắt buộc không có nghĩa chắc
chắn sẽ hưởng mọi chế độ BHXH. Nhưng sự đóng góp của họ sẽ có ý nghĩa rất lớn
cho những đối tượng gặp phải những rủi ro nghiêm trọng mà nếu không có sự chia
sẻ, tương trợ cộng đồng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống.


(3).Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.
125.


11
* Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng
của NLĐ.
Mức thu nhập được bảo hiểm là mức tiền lương hoặc mức thu nhập bằng tiền
nào đó do Nhà nước quy định. Trên cơ sở mức sống, mức thu nhập bình quân thực
tế của đại đa số NLĐ và mức thu nhập quốc dân bình quân đầu người, Nhà nước
quy định, lựa chọn mức thu nhập được bảo hiểm để đảm bảo mức thu nhập này luôn
tương đối, nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ tham gia đóng BHXH và gia đình họ.
Trên thực tế có hai cách để lựa chọn mức thu nhập đóng bảo hiểm bắt
buộc. Đó là xác định một mức thu nhập làm căn cứ đóng bảo hiểm hoặc lấy tiền
lương làm cơ sở đóng BHXH. Tuy nhiên, đối với BHXH bắt buộc, người ta
thường hay lấy tiền luơng làm căn cứ đóng BHXH và đó cũng chính là cơ sở để
quy định mức thu nhập được hưởng bảo hiểm. Mặt khác, mức thu nhập đóng bảo
hiểm còn là công cụ để Nhà nước giám sát, kiểm tra, điều tiết trên giác độ quản
lý vĩ mô với BHXH và quản lý lao động trong nền kinh tế quốc dân.
* Quỹ BHXH bắt buộc được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch;
được sử dụng đúng mục đích và được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần.
BHXH là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội,
chứa đựng cả nội dung kinh tế, xã hội và pháp lý. Để đảm bảo thực hiện hài hòa
những nội dung trên và đạt được mục tiêu mà BHXH bắt buộc đặt ra thì một
trong những vấn đề cần được chú ý là việc quản lý, sử dụng quỹ BHXH bắt buộc
nhằm đảm bảo sự cân đối và ổn định của quỹ. Do đó, việc sử dụng quản lý quỹ
BHXH bắt buộc phải trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý và hạch toán theo
quy định của pháp luật.
* Việc thực hiện BHXH bắt buộc phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo
đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội.

Người tham gia BHXH khi đóng phí BHXH là nhằm dự trữ trước một khoản
tài chính, để đề phòng những trường hợp rủi ro xảy ra hoặc có liên quan đến hoạt
động lao động (tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp) hoặc những loại được coi là
“rủi ro xã hội” (ốm đau, thai sản, tuổi già, chết) (4). Khi gặp những rủi ro này, chi
phí trong cuộc sống của NLĐ và gia đình họ không những tăng lên mà thu nhập còn
bị giảm đi vì không thực hiện được quá trình lao động. Trong trường hợp này các

(4). Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật An sinh xã hội,Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.130.


12
khoản tiền BHXH giữ vai trò cần thiết và quan trọng góp phần bù đắp vào sự thiếu
hụt của NLĐ và gia đình họ nhằm ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, hỗ trợ,
giúp đỡ họ vượt qua những rủi ro tạm thời cũng như lâu dài. Chính vì vậy, việc thực
hiện BHXH bắt buộc phải đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, kịp thời và đầy đủ
quyền lợi của người tham gia BHXH.
1.3. Nội dung pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà các quốc gia có những quy định
khác nhau về BHXH bắt buộc. Song nhìn chung về nội dung pháp luật BHXH bắt
buộc của hầu hết các quốc gia thường quy định về các nội dung như đối tượng tham
gia, quỹ BHXH bắt buộc và các chế độ BHXH bắt buộc.
1.3.1. Đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Đối tượng tham của BHXH là NLĐ và NSDLĐ. Họ là những người trực tiếp
tham gia đóng góp tạo nên quỹ BHXH với một khoản % nhất định so với tiền lương
của NLĐ theo quy định của luật BHXH. Tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ
nào đó trong xã hội. Trong thời kì đầu khi triển khai BHXH ở hầu hết các nước chỉ
áp dụng đối với những người làm công ăn lương để đảm bảo mức đóng góp ổn định,
đảm bảo an toàn quỹ BHXH. Hiện nay khi nền kinh tế phát triển nhu cầu sử dụng

NLĐ trong và ngoài doanh nghiệp nhà nước tăng lên rất nhiều thì đối tượng tham
gia BHXH và đối tượng của BHXH cũng được mở rộng ra.
Việc tham gia BHXH có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo điều kiện sống
cho NLĐ và gia đình họ trong những trường hợp NLĐ gặp rủi ro. Tuy nhiên, không
phải NLĐ và NSDLĐ nào cũng tự giác tham gia BHXH. Hơn nữa để thực hiện
BHXH một cách lâu dài thì cần phải xác định đối tượng tham gia để đảm bảo nguồn
thu cũng như chi trả các chế độ BHXH . Bởi vậy, pháp luật hầu hết các nước đều quy
định các đối tượng có trách nhiệm phải tham gia BHXH. Đối tượng có trách nhiệm
phải tham gia BHXH bắt buộc là NLĐ và NSDLĐ. Tuy nhiên không có nghĩa tất cả
mọi NLĐ và NSDLĐ đều phải tham gia BHXH. Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội
của từng nước mà các nước có sự quy định về đối tượng tham gia song nhìn chung
pháp luật các nước đều hướng tới những đối tượng tham gia quan hệ lao động có tính
ổn định và càng ngày các đối tượng này càng có xu hướng mở rộng.
Pháp luật BHXH Đan Mạch có quy định, mọi người dân được hưởng chế độ
bảo hiểm từ hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia, trợ cấp gia đình và trợ cấp người
già mà không phụ thuộc vào hoạt động nghề nghiệp; trái lại trợ cấp dành cho việc


13
bù đắp do mất thu nhập chỉ được chi trả cho những người đang hoạt động, những
người không thuộc diện NLĐ làm công ăn lương cũng hưởng trợ cấp bằng tiền của
bảo hiểm ốm đau.
Tại Hà Lan, có hai loại hình BHXH là BHXH đối với người làm công ăn
lương và BHXH quốc gia. BHXH của những người làm công ăn lương bảo đảm chi
phí duy nhất cho những người làm công ăn lương và những người giống như vậy.
Để được thụ hưởng BHXH này, phải có một hợp đồng lao động, ít nhất giống như
người làm công ăn lương. Đó là trường hợp người học nghề, những NLĐ tại nhà
hoặc trong các phân xưởng được bảo hiểm. Những NLĐ thật sự độc lập không
giống người làm công ăn lương và công chức có chế độ riêng (5).BHXH quốc gia là
loại hình bảo đảm chế độ BHXH cho tất cả những người sống ở Hà Lan, cũng như

những người không thương trú với điều kiện họ đang làm việc ở Hà Lan và trả thuế
và lương.
Như vậy có thể thấy ở mỗi quốc gia lại có những quy định khác nhau về đối
tượng tham gia BHXH bắt buộc có quốc gia quy định đối tượng là những người
tham gia quan hệ lao động một cách thường xuyên, ổn định, là những người làm
công ăn lương. Ở một số quốc gia đối tượng tham gia lại không phụ thuộc vào quan
hệ lao động. Tuy nhiên, tựu chung lại việc quy định về đối tượng tham gia BHXH
nhằm mục đích đảm bảo tốt nhất về quyền lợi cho những người được hưởng các chế
độ bảo hiểm
1.3.2. Quỹ Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Quỹ BHXH bắt buộc là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân
sách nhà nước, được hình thành từ đóng góp của các bên tham gia và các nguồn thu
khác, được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH bắt buộc.
Quỹ BHXH là một trong những nội dung quan trọng của hệ thống BHXH.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quỹ BHXH, theo nghĩa rộng: quỹ BHXH là
tập hợp những phương tiện nhằm thỏa mãn những nhu cầu phát sinh về BHXH trên
cơ sở sự đóng góp của những người tham gia BHXH. Cụ thể là các khoản dự trữ về
tài chính và các phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho quỹ BHXH. Theo nghĩa
hẹp, quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của người tham gia BHXH,
hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho người được hưởng BHXH và gia
(5). Ủy ban các vấn để xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 408


14
đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm (6).Như vậy, có thể hiểu quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng
tiền của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, hình thành một
quỹ tiền tệ tập trung, được sử dụng để chi trả cho những người được BHXH và gia
đình họ khi họ bị giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Quỹ BHXH

vừa là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng, nó vừa mang tính kinh tế
vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo
cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi
ro xã hội của tất cả những người tham gia BHXH, giúp cho việc dàn trải rủi ro
được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tối
thiểu thiệt hại kinh tế cho NSDLĐ, tiết kiện chi cho ngân sách nhà nước và ngân
sách gia đình.
Ở các nước như Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha các khoản phí đóng góp này
cũng được chia sẻ cho cả NLĐ và NSDLĐ. Đặc biệt ở Tây Ban Nha, đóng góp
BHXH chiếm 70% tổng thu nhập BHXH, trong đó các khoản đóng góp của
NSDLĐ lớn gấp 5 lần khoản đóng góp của NLĐ.(7)
Ngoài phí BHXH một phần quan trọng khác nữa tạo ra quỹ BHXH là sự hỗ
trợ của nhà nước với mục đích nhằm đảm bảo cho các hoạt động xã hội diễn ra đều
đặn, ổn định. Một bộ phận khác của quỹ BHXH là các nguồn thu hợp pháp khác,
đó là các khoản giúp đỡ của các tổ chức từ thiện trong và ngoài nước, các khoản
phạt của những cá nhân, tổ chức kinh tế vi phạm quy định pháp luật về BHXH như
chậm nộp BHXH, nộp thiếu...
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội đặc thù của mỗi quốc gia, việc lựa
chọn cơ chế đóng quỹ BHXH cũng khác nhau. Ở Đức, riêng với chế độ bảo hiểm ốm
đau đã có khoảng 900 quỹ và được chia thành các quỹ thành phần là các quỹ địa
phương, quỹ doanh nghiệp, quỹ nghiệp đoàn và các quỹ thay thế ngoài ra còn có các
quỹ xã hội - nghề nghiệp. Phí bảo hiểm của NLĐ và NSDLĐ là bằng nhau, dao động

(6). Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.120
(7). Ủy ban các vấn để xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 311.



15
theo quỹ, hiện tổng phí đóng của cả NSDLĐ và NLĐ dao động trong khoảng 11 đến
14%, trung bình khoảng 13,2% thu nhập thô của NLĐ.(8)
Ở Đan Mạch, từ ngày 01/01/1994 đã áp dụng một loại phí xã hội bắt buộc đối
với tất cả NLĐ hưởng lương hoặc không hưởng lương. NSDLĐ phải đóng từ ngày
01/01/1997 là 0,3%. Vào năm 1995, tỷ lệ đóng góp của NLĐ là 1,9% của lương gộp.
Tỷ lệ này là 2,9% năm 1996 và tăng lê dần dần đến năm 1998 là 4,9%.
Có thể thấy, trong nền kinh tế hàng hóa, trách nhiệm tham gia đóng góp quỹ
BHXH được phân chia cho cả NSDLĐ và NLĐ trên cơ sở quan hệ lao động. Điều
này không phải là sự phân chia rủi ro mà là để đảm bảo lợi ích giữa hai bên. Về phía
NSDLĐ, sự đóng góp một phần BHXH cho NLĐ sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do
phải chi trả một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với NLĐ mà mình thuê
mướn. Đồng thời, nó còn góp phần kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa hai bên
trong quan hệ lao động bởi việc đóng góp đó thể hiện trách nhiệm với những NLĐ
mà họ sử dụng. Về phía NLĐ, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu
hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa
vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
1.3.3. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Các chế độ BHXH được hiểu là một hệ thống các quy định được luật hóa về
đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp đối với NLĐ khi họ gặp phải các rủi ro
trong từng trường hợp BHXH cụ thể.
Theo Công ước số 102 ngày 25/6/1952 của Tổ chức Lao động quốc tế thì hệ
thống BHXH bao gồm 9 chế độ gồm: Chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất
nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ-BNN, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ
cấp tàn tật, trợ cấp mất người nuôi dưỡng. Tổ chức Lao động quốc tế cũng khuyến
nghị tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, mà mỗi quốc gia tham gia công ước có thể
quy định các chế độ BHXH bắt buộc khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được
ba chế độ. Trong đó phải có một trong năm chế độ: Trợ cấp thất nghiệp; trợ cấp tuổi
già; trợ cấp TNLĐ, BNN; trợ cấp khi tàn phế và trợ cấp tiền tuất.


(8). Ủy ban các vấn để xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 329


16
Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia quy định các chế độ BHXH mang tính bắt buộc
thường bao gồm 5 chế độ: chế độ BHXH ốm đau, chế độ BHXH thai sản, chế độ
BHXH tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ BHXH hưu trí và chế độ tử tuất.
* Chế độ ốm đau
Ốm đau là một hiện tượng rủi ro phổ biến mà con người không hề mong
muốn. Ốm đau không chỉ tác động đến sức khỏe, đời sống sinh hoạt mà còn là
nguyên nhân khiến sức lao động của con người bị ảnh hưởng. Với mong muốn đảm
bảo thu nhập cho NLĐ khi phải tạm thời nghỉ việc vì ốm đau do những nguyên
nhân khách quan hoặc chăm sóc con ốm, chế độ bảo hiểm ốm đau đã được hình
thành. Mục đích của bảo hiểm ốm đau là nhằm bù đắp phần nào thu nhập bị mất
hoặc bị giảm trong thời gian người tham gia BHXH gặp rủi ro ốm đau, chia sẻ
những khó khăn, thiệt thòi của NLĐ trong thời gian bị ốm đau, tai nạn hoặc chăm
sóc con ốm.
Bảo hiểm ốm đau là một trong các chế độ BHXH ra đời sớm nhất trong lịch
sử hình thành và phát triển của pháp luật BHXH. Ở nước Đức, ngay từ những năm
50 của thế kỷ XIX nhiều chính quyền bang đã quan tâm tới việc quy định và bắt
buộc thực hiện chế độ trợ cấp ốm đau đối với NLĐ. Đối tượng tham gia chế độ bảo
hiểm ốm đau ngày càng được mở rộng. Sau đó, nhiều nước châu Âu cũng đã cho ra
đời các đạo luật của mình có quy định về vấn đề bảo hiểm ốm đau. Đến đầu thế kỷ
XX, bảo hiểm ốm đau đã mở rộng ra nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước
Mỹ La tinh, Hoa Kỳ, Canada và một số nước khác. (9)
Năm 1952, Tổ chức Lao động quốc tế đã thông qua Công ước số 102 với
những quy phạm tối thiểu về BHXH. Trong đó, Điều 14 của Công ước quy định chế
độ trợ cấp ốm đau được áp dụng đối với các trường hợp bị mất khả năng lao động
do đau ốm gây ra và dẫn đến gián đoạn thu nhập như pháp luật hoặc quy định quốc

gia quy định. Có thể nói, đối tượng áp dụng bảo hiểm ốm đau chính là những NLĐ
bị mất khả năng lao động do ốm đau, bệnh tật, phải nghỉ việc dẫn đến thu nhập bị
gián đoạn.
Ở Đức trong trường hợp ốm đau, NSDLĐ có trách nhiệm chi trả lương trong
6 tuần. Tiếp đó, người được bảo hiểm có quyền được trợ cấp bằng tiền từ bảo hiểm
ốm đau. Số tiền lên đến 80% lương đã đóng bảo hiểm và thuế thu nhập. Đối với
cùng một loại bệnh, thời gian trợ cấp không vượt quá 78 tuần trong 3 năm. Còn ở
(9) . Trường Đại học LĐTB&XH (2010), Giáo trình Bảo hiểm xã hội, Nxb.Lao động, Hà Nội, tr.331.


17
Anh, NLĐ làm công ăn lương ốm ngừng làm việc, nếu đáp ứng các điều kiện, sau
thời hạn 3 ngày có quyền được hưởng trợ cấp ốm đau hàng ngày. Việc chi trả trợ
cấp này do NSDLĐ thực hiện và sau đó sẽ được Bảo hiểm quốc gia hoàn trả. Trợ
cấp được chi trả tối đa là 28 tuần với mức 52,50 bảng một tuần. Chỉ những người
làm công ăn lương có thu nhập ít nhất 58 bảng một tuần mới có thế được
hưởng...(10)
* Chế độ thai sản
Trong tổng số lao động xã hội, lao động nữ chiếm một tỷ lệ không nhỏ.
Ngoài xã hội, họ tham gia tích cực vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Trong gia đình họ là người chăm sóc gia đình và thực hiện “thiên chức” cao quý
làm mẹ. Hầu hết phụ nữ nói chung và lao động nữ nói riêng đều trải qua thời kỳ
mang thai, sinh nở và nuôi con nhỏ. Việc này làm cho sức khỏe của lao động nữ bị
suy giảm, thu nhập từ lao động bị gián đoạn, tác động không nhỏ đến đời sống của
họ và gia đình. Nhằm góp phần bảo vệ các bà mẹ và trẻ sơ sinh, các quốc gia trên
thế giới đều rất quan tâm đến chế độ trợ cấp thai sản, coi đây là một chương trình an
sinh xã hội quan trọng.
Chế độ trợ cấp thai sản cũng là một trong số các loại trợ cấp ngắn hạn được
quy định tại Công ước số 102 của Tổ chức Lao động quốc tế với mục đích dùng để
bảo vệ sức khỏe cho người mẹ và trẻ em thông qua việc trợ cấp tiền nghỉ đẻ để hồi

phục và duy trì sức khỏe sau khi sinh.
BHXH thai sản cũng là một trong những chế độ BHXH bắt buộc được nhiều
nước thừa nhận. Lao động nữ với chức năng sinh đẻ và nuôi con nên khi tham gia
quan hệ lao động họ cần phải được đảm bảo đời sống và thu nhập khi thực hiện
chức năng này. Thậm chí hiện nay, một số nước quy định lao động nữ và nam đều
được hưởng chế độ thai sản như nhau như Thụy Điển, Bungari. Đặc biệt ở Bungari
còn quy định ông, bà cũng được nghỉ hưởng trợ cấp trong thời gian người mẹ mang
thai, trước và sau sinh nhằm chia sẻ trách nhiệm chăm sóc con cháu trong gia đình;
còn theo pháp luật Thụy Điển thì cả cha và mẹ đều được hưởng chế độ thai sản như
nhau... (11)

(10). Ủy ban các vấn để xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế
giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 360.
(11). Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật An sinh xã hội,Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.149.


18
Về điều kiện tham gia BHXH nói chung và chế độ thai sản nói riêng ở các
nước thông thường đều quy định những người đang mang thai hoặc sinh đẻ thì có
thể tham gia BHXH và phải có thời gian tham gia BHXH tối thiểu trước khi sinh,
khoảng từ 6 đến 12 tháng cuối cùng trước khi sinh. Chẳng hạn ở Achentina, NLĐ
phải có 10 tháng đóng góp liên tục sau khi nghỉ thai sản hoặc đã có 6 tháng đóng
góp trong 12 tháng trước khi sinh trong đó có một tháng làm việc ngay trước khi
sinh; ở Pháp NLĐ phải đảm bảo có 200 giờ làm việc trong 3 tháng cuối cùng trước
khi sinh; ở Thái Lan, NLĐ phải có 7 tháng đóng góp trong 15 tháng trước khi sinh
(chỉ giới hạn trong hai lần sinh). Tuy nhiên, ở Trung Quốc và Nga lại không quy
định thời gian đóng góp tối thiểu để được hưởng chế độ thai sản.
Về thời gian hưởng trợ cấp BHXH thai sản, tùy thuộc vào điều kiện kinh tếxã hội của từng quốc gia và khả năng hồi phục sức khỏe của lực lượng lao động của
quốc gia đó mà mỗi quốc gia quy định thời gian hưởng, mức hưởng khác nhau.

Hiện nay trên thế giới có hai hình thức trợ cấp tiền và chăm sóc y tế. Hầu hết các
nước trên thế giới có những chính sách trợ cấp đối với lao động nữ trong thời gian
mang thai và sinh con sử dụng dịch vụ y tế trước và sau khi sinh. Dịch vụ y tế thông
thường gồm: chăm sóc ban đầu, một số dịch vụ và thuốc men thiết yếu, những dịch
vụ đặc biệt, phẫu thuật, chăm sóc thai sản, đặc biệt ở một số quốc gia có cả trợ cấp
đi lại, chăm sóc y tế tại nhà. Việc chi trả chi phí chăm sóc y tế hiện nay có 3
phương án cơ bản: chi trả trực tiếp cho người cung cấp dịch vụ trong các cơ sở y tế
của nhà nước, hoàn trả chi phí cho bệnh nhân; chi trả theo các điều khoản trực tiếp
về chăm sóc y tế.
Đối với người nhận trợ cấp thai sản bằng tiền mức trợ cấp và thời gian trợ
cấp thai sản của các nước cũng khác nhau. Thông thường mức trợ cấp thai sản bằng
100% lương và thời gian trợ cấp là 6 tháng trước khi sinh và 6-8 tuần sau khi sinh.
Ngoài mức trợ cấp kể trên thì mỗi lần sinh con người mẹ còn được trợ cấp nuôi con
với mức 20-25% mức trợ cấp thai sản trong thời gian từ 6 tuần trở lên. Cũng có một
số nước thực hiện tiền hỗ trợ tiền sắm sửa tã lót và trợ cấp thai sản một lần. Ở Pháp,
thời gian trợ cấp thai sản là 6 tuần trước khi sinh và 8 tuần sau khi sinh đối với sinh
con lần 1, lần 2; 8 tuần trước khi sinh và 18 tuần sau khi sinh đối với con thứ 3;
song thai là 12 và 22 tuần trước và sau khi sinh, mang thai ba 24 tuần trước và 22
tuần sau khi sinh. Mức trợ cấp là 100% thu nhập. Ở Nga, thời gian nghỉ trợ cấp 1012 tuần trước khi sinh, và 10-16 tuần sau khi sinh. Những người nghỉ việc để trông


19
con dưới 18 tháng tuổi, được nhận mức trợ cấp hàng tháng 200% mức lương tối
thiểu. Mức trợ cấp là 100% thu nhập.(12)
Dù khác nhau về đối tượng, thời gian nghỉ, mức trợ cấp nhưng pháp luật ở các
nước đều giống nhau về mục đích hướng tới của chế độ bảo hiểm thai sản. Đó là
thông qua việc bù đắp một phần chi phí tăng lên trong quá trình thai nghén, sinh con,
nuôi con sơ sinh, thực hiện các biện pháp tránh thai, bảo hiểm thai sản nhằm giữ vững
cân bằng về thu nhập, tạo sự bình ổn về mặt vật chất, bảo vệ sức khỏe cho NLĐ và
trẻ sơ sinh. Qua đó, chế độ bảo hiểm thai sản góp phần thực hiện sự bình đẳng về

nghĩa vụ và quyền lợi cũng như sự chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm.
* Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (TNLĐ,BNN) là những nguy cơ NLĐ có
thể gặp phải khi tham gia quan hệ lao động. Khi NLĐ bị TNLĐ, BNN khả năng lao
động của họ có thể bị giảm sút dẫn đến việc giảm hoặc mất khả năng lao động.
Chính vì vậy, pháp luật các nước đều quy định bảo hiểm TNLĐ, BNN là chế độ
BHXH mang tính bắt buộc. Chế độ này nhằm đảm bảo thu nhập cho NLĐ khi bị
TNLĐ, BNN dẫn đến giảm hoặc mất khả năng lao động.
Ở Trung Quốc, năm 1994, Luật Lao động được ban hành và dành một
chương riêng quy định về “Bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội”. Theo đó, hệ thống
BHXH được cải tổ theo các nội dung: bảo hiểm dưỡng lão, bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm TNLĐ, BNN và bảo hiểm thai sản. Chính phủ Trung Quốc
đã và đang nỗ lực trong việc thiết lập chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN bao gồm:
phòng chống thương tích xảy ra trong lao động, bồi thường và phục hồi chức năng
cho NLĐ bị các tổn thương liên quan đến công việc. Năm 2003, Hội đồng Nhà
nước ban hành Điều lệ về bảo hiểm TNLĐ, BNN. Theo quy định của Điều lệ tất cả
các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đề phải tham gia đóng phí TNLĐ, BNN vĩnh
viễn cũng như tạm thời cho toàn bộ NLĐ của họ. Những đơn vị không tham gia
chế độ TNLĐ, BNN khi xảy ra TNLĐ, BNN thì đơn vị đó phải chịu trách nhiệm chi
trả các chế độ như quy định trong điều lệ.
Pháp luật BHXH tại Thái Lan hiện nay cũng có quy định về BHXH đối với
TNLĐ, BNN. Trong các tổ chức thành viên của Hiệp hội an sinh xã hội ASEAN
(ASSA), Cơ quan an sinh xã hội Thái Lan (SSO) có nhiều điểm tương đồng với

(12). Khoa bảo hiểm, Trường đại học kinh tế quốc dân (2011), “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ trợ
cấp thai sản trong pháp luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, tr.18.


×