Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Chuyên đề đây thôn vĩ dạ (Hàn Mặc Tử)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.29 KB, 24 trang )

Chuyên đề
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN "ĐÂY THÔN VĨ DẠ"
CỦA HÀN MẶC TỬ
1. Hoàn cảnh nảy sinh
1.1. Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, khi yếu tố con người được
coi trọng về tiềm năng và trí tuệ, cùng với sức mạnh tri thức thì nhân cách của
con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội.
Hiện nay, nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới giáo dục là nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện trong nhà trường, nhằm đảm bảo tính cân đối giữa dạy chữ và dạy
người. Một nhà hiền triết đã nói: "Khoa học mà không có hành vi đạo đức thì
chỉ là sự tàn lụi của linh hồn", mà "hành vi đạo đức" chính là kĩ năng sống của
học sinh. Vì vậy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nội dung quan trọng
và thiết thực trong chiến lược giáo dục toàn diện.
1.2. Hiện nay, tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng, không ít
bộ phận học sinh sống buông thả, thích hưởng thụ, chưa ý thức rèn luyện bản
thân, có biểu hiện lệch lạc về lối sống, suy thoái về nhân cách, đạo đức. Đây
cũng là tình trạng đáng báo động ở Trung tâm giáo dục thường xuyên.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, song nguyên nhân sâu xa
là do các em thiếu hụt về kĩ năng sống. Do vậy, cần phải giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh để hình thành và phát triển cho các em khả năng làm chủ bản thân,
khả năng ứng xử phù hợp với những người chung quanh, khả năng ứng phó tích
cực trước những tình huống phức tạp, muôn hình muôn vẻ của cuộc sống.
1.3. Môn Ngữ văn là một môn học có khả năng đặc biệt trong việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Bản
chất của môn Văn là sự kết hợp giữa tính khoa học và nghệ thuật. Để học sinh
có thể vừa cảm thụ, rung động với cái hay cái đẹp của một tác phẩm văn
chương, vừa hình thành các kĩ năng để ứng phó với thực tiễn cuộc sống không
phải điều đơn giản.
Mặt khác, hiện nay trong xu thế chung của xã hội, môn Văn đang mất dần
vị thế của nó, thậm chí trở thành "gánh nặng" đối với học sinh. Thay vào đó, học


sinh chỉ chú trọng đến các môn học khoa học tự nhiên mà "bỏ quên" môn Văn.
Tình trạng trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy Văn. Để trả lại bản
chất nghệ thuật kì diệu cho các giờ học văn, vừa giúp học sinh nhận thức được
các giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hoá trong
các tình huống đa dạng của cuộc sống trong một khoảng thời gian có hạn không
1


phải là việc đơn giản. Do vậy, làm thế nào để tích hợp nội dung giáo dục sống
trong nội dung bài học và thông qua các phương pháp triển khai nội dung bài
học đến nay vẫn là sự thử nhiệm tìm đường của giáo viên dạy Văn.
1.4. Người thợ xây giỏi là người không chỉ biết cách dùng từng đồ nghề
của mình mà còn biết đánh giá dụng cụ nào thích hợp nhất cho từng hoàn cảnh
cụ thể. Phương pháp dạy học cũng giống như đồ nghề của người thợ xây vậy,
chúng đều bình đẳng với nhau. Việc sử dụng chúng tuỳ thuộc vào mục đích và
khả năng dạy học cụ thể, nội dung bài dạy cụ thể mà người dạy xác định, lựa
chọn và kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp khác nhau nhằm đem lại hiệu
quả cao trong bài dạy của mình. Trong đó, phương pháp dạy học tích cực không
chỉ phát triển khả năng tư duy sáng tạo của người học mà còn tạo cơ hội tối đa
cho các thành viên trong tập thể được bộc lộ sự hiểu biết và quan điểm của mình
về nội dung và phương pháp học tập cũng như các lĩnh vực khác, giúp học sinh
có nhiều cơ hội rèn luyện khả năng diễn đạt cách thức tư duy và ý tưởng. Khi sử
dụng các phương pháp dạy học tích cực, giáo viên có điều kiện để uốn nắn, hình
thành ở học sinh những kĩ năng cần thiết.
Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh không phải đến nay
mới có song bằng những phương pháp giảng dạy tích cực, giáo viên sẽ giúp học
sinh nâng cao kĩ năng sống của mình một cách nhẹ nhàng nhưng hết sức sâu sắc.
1.5. Xuất phát từ những lí do trên, bản thân là một giáo viên dạy Văn
giảng dạy trong Trung tâm Giáo dục thường xuyên, tôi luôn có tâm nguyện
muốn học sinh của mình có khả năng thích ứng với cuộc sống mới, biết tự chủ,

sống có bản lĩnh, có nhân cách. Đây chính là lí do tôi đi sâu tìm hiểu và thực
hiện đề tài "Giáo dục kĩ năng sống trong giờ đọc hiểu văn bản Đây thôn Vĩ Dạ
của Hàn Mặc Tử".
2. Cơ sở lí luận của vấn đề
2.1. Quan niệm về kĩ năng sống
2.1.1. Khái niêm
Theo WHO: "Năng lực tâm lí xã hội là khả năng ứng phó một cách có
hiệu quả với những thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá
nhân để duy trì một trạng thái khoẻ mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua hành
vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hoá và môi
trường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát
huy sức khoẻ theo nghĩa rộng nhất về mặt thể chất, tinh thần và xã hội. Kĩ năng
sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này".
Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kĩ năng sống cơ bản là sự thay đổi trong
hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái
độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm
2


gì?) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào hay tin tưởng vào giá trị
nào?), thành hành động (làm gì và làm như thế nào?).
Như vậy, kĩ năng sống chính là năng lực, khả năng tâm lí - xã hội của con
người có thể ứng phó với những thách thức trong cuộc sống, giải quyết các tình
huống và giao tiếp có hiệu quả.
2.1.2. Phân loại
Trong giáo dục chính quy của nước ta những năm vừa qua, kĩ năng sống
được phân loại theo các mối quan hệ, bao gồm các nhóm sau:
Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kĩ năng
sống cụ thể như: tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm
kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin...

Nhóm các kĩ năng tự nhận biết và sống với người khác, bao gồm các kĩ
năng cụ thể như: giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, từ
chối, bày tỏ sự cảm thông, hợp tác,...
Nhóm kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm kĩ năng cụ thể
như: tìm kiếm và xử lí thông tin, tư duy phê phán và tư duy sáng tạo, ra quyết
định, giải quyết vấn đề...
2.1.3. Ý nghĩa của giáo dục kĩ năng sống.
Có thể nói, kĩ năng sống chính là những nhịp cầu giúp con người biến
kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kĩ
năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách, biết ứng
xử giải quyết vấn đề một cách tích cực, phù hợp.
Giáo dục kĩ năng sống càng trở nên cấp thiết đối với học sinh Trung học
phổ thông. Các em là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người
quyết định sự phát triển của đất nước. Mặt khác, lứa tuổi học sinh là lứa tuổi
đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm
tòi khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm
sống, sức đề kháng chưa cao nên dễ bị lôi cuốn kích động. Nếu không có kĩ
năng sống các em sẽ không thể thực hiện tốt được trách nhiệm đối với bản thân,
gia đình, xã hội.
Đặc biệt, việc giáo dục tích hợp kĩ năng sống vào tiết dạy Văn càng trở
thành một nhu cầu bức thiết:
Thứ nhất, trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ, kĩ năng
phù hợp. Từ đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh,
tích cực, loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực. Kĩ năng sống giúp học sinh
có khả năng ứng phó phù hợp, linh hoạt trong các tình huống của cuộc sống
hàng ngày. Kĩ năng sống giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng
tính thực hành.
3



Thứ hai, tiết học có lồng ghép giáo dục kĩ năng sống bao giờ cũng thân
thiện, tích cực, tạo điều kiện cho học sinh thực hành và phát huy tối đa năng lực
của bản thân.
Thứ ba, tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của
mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
Có thể nói, giáo dục kĩ năng sống có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
giúp học sinh biết làm chủ bản thân, thích ứng và biết cách ứng phó trước những
thách thức của cuộc sống. Từ đó, rèn cho học sinh sống có trách nhiệm với bản
thân, gia đình, cộng đồng, mở ra cơ hội, hướng suy nghĩ tích cực và tự tin, tự
quyết định là lựa chọn những hành vi đúng đắn.
2.2. Các phương pháp dạy học tích cực
2.2.1. Phương pháp dạy học nhóm
Dạy học nhóm là một hoạt động học tập có sự phân chia học sinh theo
từng nhóm nhỏ với đủ thành phần khác nhau về trình độ, cùng trao đổi ý tưởng,
một nguồn kiến thức dựa trên cơ sở hoạt động tích cực của từng cá nhân. Từng
thành viên của nhóm không chỉ có trách nhiệm với việc học tập của mình mà
còn có trách nhiệm quan tâm đến việc học tập của các thành viên trong nhóm.
Hoạt động nhóm hợp lí, tích cực sẽ giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng:
đảm nhận trách nhiệm, hợp tác, chia sẻ, thương lượng, giải quyết mâu thuẫn,
giải quyết vấn đề.
2.2.2. Phương pháp trò chơi
A.I.Xôrôkina đã đưa ra một luận điểm vô cùng quan trọng về đặc thù của
dạy học kết hợp với trò chơi: "Trò chơi học tập là một quá trình phức tạp, nó là
hình thức dạy học và đồng thời nó vẫn là trò chơi... Khi các mối quan hệ chơi bị
xoá bỏ, ngay lập tức trò chơi biến mất và khi ấy, trò chơi biến thành tiết học,
đôi khi biến thành sự luyện tập". Vì vậy có thể kết luận: học và chơi là hai việc
không loại trừ lẫn nhau. Trò chơi có thể được điều chỉnh cho phù hợp với hầu
hết các chủ đề hoặc đề tài trong nội dung học tập.
Bản chất của phương pháp trò chơi là dạy học thông qua việc tổ chức hoạt
động cho học sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt động

bằng cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tả mục tiêu
của bài học. Luật chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc
biệt là phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá.
Trò chơi học tập khác với trò chơi khác ở chỗ: nhiệm vụ nhận thức và luật
chơi trong trò chơi, đòi hỏi người chơi phải huy động trí óc làm việc thực sự
nhưng chúng lại được thực hiện dưới hình thức vui vẻ, thú vị. Học trong quá
trình chơi là quá trình lĩnh hội tri thức nhẹ nhàng, tự nhiên không gò bó, khơi

4


dậy hứng thú tự nguyện và giảm thiểu sự căng thẳng cho học sinh. Học tập
thông qua trò chơi sẽ giúp học sinh ghi nhớ tri thức dễ dàng và bền vững hơn.
Trò chơi học tập giúp học sinh lĩnh hội những tri thức và kĩ năng khác
nhau mà không có chủ định từ trước. Đồng thời, giúp người học cảm nhận được
một cách trực tiếp kết quả hành động của mình, từ đó thúc đẩy tính tích cực, mở
rộng, củng cố và phát triển vốn hiểu biết của người học.
Phương pháp trò chơi được sử dụng trong học tập để hình thành kiến
thức, kĩ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kĩ năng đã học. Việc tạo ra trò chơi
mà học không chỉ giúp học sinh khắc sâu tri thức, nâng cao nhận thức mà còn
tăng cường các kĩ năng sống cho học sinh như: biết ứng xử linh hoạt, quan hệ
tích cực và hợp tác,...
2.2.3. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để trình bày
những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một "vai giả định". Đây là phương
pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách
đừng từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ
thể mà các em quan sát từ vai của mình.
Thực hiện phương pháp đóng vai, học sinh được rèn luyện, thực hành
những kĩ năng ứng xử, bày tỏ thái độ trong mỗi trường an toàn trước khi thực

hành trong thực tiễn. Mặt khác, phương pháp gây hứng thú và chú ý cho học
sinh, giúp học sinh hình thành kĩ năng giao tiếp, có cơ hội bộc lộ cảm xúc, đồng
thời tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh, khích lệ sự thay đổi
thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực.
3. Thực trạng của vấn đề
3.1. Thuận lợi
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nội dung quan trọng và thiết
thực trong chiến lược giáo dục toàn diện. Chưa bao giờ xã hội, đặc biệt là ngành
giáo dục lại ý thức rõ cần phải truyền đạt các kĩ năng sống cho học sinh trong
thời kì hội nhập như bây giờ. Bộ Giáo dục và đào tạo đã tổ chức nhiều lớp tập
huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lí, giáo viên về giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh phổ thông, hướng dẫn tích hợp kĩ năng sống trong các môn học ở phổ
thông.
Mặt khác, mục tiêu và nội dung của môn Ngữ văn đã chứa đựng những
yếu tố của giáo dục kĩ năng sống, phù hợp với các nội dung cơ bản của giáo dục
kĩ năng sống, phù hợp với cách tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trên
cơ sở nhận thức về các nội dung của môn Ngữ văn.
Hiện nay, hầu hết giáo viên đã nắm rõ đặc trưng cực các phương pháp dạy
học tích cực và vận dụng linh hoạt trong các giờ dạy học Ngữ văn. Nếu được sử
5


dụng phù hợp, mềm dẻo thì việc giáo dục kĩ năng sống sẽ phát huy hiệu quả tối
đa.
3.2. Khó khăn
Qua số liệu điều tra sơ bộ nhận thức của học sinh về tác dụng của kĩ năng
sống của môn Ngữ văn ở 2 lớp dạy (80 học sinh) và đã thu được kết quả như
sau:
ST Nội dung câu hỏi
Kết quả

T
1
Theo em, học Văn có giúp em nâng cao giá trị Có
52/80
Có nhưng không 28/80
nhận thức không?
thực tế
2
Theo em, học Văn có giúp em điều chỉnh hành Có
40/80
Không
3/80
vi không?
Không trả lời
37/80
3
Theo em, học Văn có ý nghĩa không?

80/80
4
Theo em, học văn có cần thiết không
Cần
62/80
Không cần
18/80
Dựa trên những số liệu thống kê, có thể thấy đa số các em nhận định văn
học là môn học bổ ích, có ý nghĩa nhưng chủ yếu các em cho rằng học văn
không thực tế. Các em còn mơ hồ về khả năng áp dụng thực tiễn của môn học và
cho rằng văn học thuần tuý là món ăn tinh thần, không có ý nghĩa thiết thực đối
với cuộc sống. Chính vì vậy, cần có những giải pháp giúp các em nhận ra giá trị

của môn Văn, đồng thời hình thành những kĩ năng sống cơ bản, cần thiết để phát
triển con người toàn diện.
4. Các giải pháp thực hiện
Giáo dục kĩ năng sống qua việc sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực là một trong những con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất. Song, tiết học có
thành công hay không phụ thuộc vào sự linh động, sáng tạo của người giáo viên
trong việc lựa chọn, vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp với đặc trưng
thể loại và nội dung của từng bài học. Vì thế, có thể nói mỗi phương pháp đều
có những điểm rêng mà người giáo viên bằng kinh nghiệm và năng lực của mình
phải lựa chọn, ứng dụng sao cho hiệu quả nhất. Trong khuôn khổ một sáng kiến
kinh nghiệm, người viết chỉ trình bày một số vận dụng mà bản thân nhận thấy có
hiệu quả tích cực trong giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở ba phương pháp:
phương pháp trò chơi, phương pháp dạy học nhóm, phương pháp đóng vai.
4.1. Phương pháp dạy học nhóm
Tổ chức học sinh làm việc theo nhóm là một biện pháp hữu hiệu để học
sinh chiếm lĩnh các đơn vị kiến thức một cách chủ động, dân chủ. Hình thức làm
việc hợp tác, theo hình thức nhóm sẽ tạo ra sự tương tác mạnh mẽ giữa các học
6


sinh trong nhóm, trong lớp, tạo bầu không khí đối thoại dân chủ, cởi mở. Tuy
nhiên hình thức này cũng cần phối hợp với các biện pháp khác và không phải
giờ học nào cũng có thể tổ chức cho học sinh thảo luạn nhóm. Mặt khác, người
giáo viên phải biết cách tổ chức, định hướng hoạt động nhóm của học sinh sao
cho hiệu quả, không khiên cưỡng, áp đặt mang tính hình thức.
Trong phương pháp dạy học nhóm, có rất nhiều cách phân chia nhóm
khác nhau. Nếu hoạt động nhóm diễn ra trên lớp học thì nên tạo các nhóm nhỏ,
tối đa 10 học sinh một nhóm để học sinh có điều kiện để thảo luận với nhau. Các
nhóm này cũng không nên trùng lặp trong suốt quá trình dạy của giáo viên. Việc
phân chia nhóm linh hoạt sẽ giúp học sinh hứng thú hơn, đồng thời tạo cơ hội

cho các học sinh được học hỏi, giao lưu với các bạn trong lớp. Ví dụ, giáo viên
có thể chia nhóm theo cách gộp hai bàn kế nhau làm một nhóm, với mô hình lớp
học phổ biến trong trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay thì cách chia này hiệu
quả vì học sinh dễ dàng xoay chuyển để thảo luận cùng nhau, hoặc trong trường
hợp vấn đề cần thảo luận không quá khó, ta có thể chia theo nhóm đơn vị một
bàn là một nhóm, ngoài ra cũng có thể chia nhóm theo ngày sinh, theo sở thích,
theo đặc điểm,... Tuỳ từng mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được
phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong
từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác.
Khi thực hiện nhiệm vụ trong thảo luận nhóm, nhóm tự bầu nhóm trưởng
nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc. Trong
nhóm, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ý lại vào một vài
người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ lẫn nhau
tìm hiểu vấn đề nêu ra trong bầu không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả
làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để
trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại
diện hoặc phân công mỗi thành viên trình vày một phần nếu nhiệm vụ giao cho
nhóm phức tạp.
Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm thơ hay nhưng đượm buồn. Nhiều học
sinh cảm thấy "ngại" khi trong một tác phẩm mà tình trải dài đến mênh mang và
sâu thẳm, phần nào đó các em nghĩ không phù hợp với tâm lí lứa tuổi của các
em. Để cải thiện điều này và tạo không khí trong giờ học Văn, giáo viên có thể
tổ chức cho các em thảo luận theo nhóm khi tìm hiểu khổ thơ thứ hai theo hình
thức như sau:
Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ: Cảnh xứ Huế vào buổi chiều và đêm
trăng.
Thời gian: 3 phút
Phương tiện hỗ trợ: Phiếu học tập.
7



PHIẾU HỌC TẬP
Tên nhóm:.......................................................................................................
Thành viên trong nhóm:..................................................................................
Lớp:..................................................................................................................
Trường:...........................................................................................................
Nhiệm vụ:…...................................................................................................
Trả lời:
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
................ ........................................................................................................

Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
- Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:
~ Nhóm 1: Cảnh xứ Huế trong buổi chiều được tái hiện như thế nào?
Nhận xét về bức tranh thiên nhiên?
~ Nhóm 2: Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong đêm trăng? Bức
tranh ấy đem đến cho em ấn tượng gì về xứ Huế?
~ Nhóm 3: Đằng sau bức tranh thiên nhiên xứ Huế và buổi chiều và trong
đêm trăng, em cảm nhận gì về tâm trạng của nhà thơ?
- HS thảo luận.
Bước 3: Trình bày kết quả
- Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận, các thành viên của nhóm có
thể bổ sung thêm.
- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
- GV đúc kết, bổ sung ý kiến, nhấn mạnh nội dung quan trọng bằng trình
chiếu.
Trong quá trình học sinh trình bày, giáo viên nên khuyến khích các nhóm

tham gia thảo luận để bảo vệ quan điểm của mình. Đồng thời khi nhận xét, cho
điểm giáo viên cũng nên hướng các em đến các kĩ năng xử lí tình huống như:
không trừ điểm nếu học sinh không trả lời được câu hỏi của học sinh khác
nhưng có cách xử lí hay. Chẳng hạn, nếu học sinh biết cách chất vấn ngược lại
hoặc tìm cách hứa hẹn trả lời sau. Với những giải pháp này, học sinh sẽ dạn dĩ
hơn, xử lí tình huống nhanh, đồng thời hạn chế được việc học sinh tìm cách né
tránh hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho bạn trong nhóm.
8


Với phương pháp dạy học nhóm, giáo viên sẽ rèn luyện cho học sinh kĩ
năng đảm nhận trách nhiệm, thể hiện sự tự tin, chủ động và có ý thức chia sẻ
công việc với các thành viên khác trong nhóm. Mặt khác, kĩ năng hợp tác cũng
được hình thành trong quá trình thảo luận, vì học sinh cùng chung sức làm việc,
giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc, vì mục đích chung. Đồng thời, với
phương pháp này, kĩ năng lắng nghe tích cực được phát huy. Khi các nhóm trình
bày kết quả thảo luận, học sinh sẽ thể hiện được sự tập trung chú ý, thể hiện
được sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác, biết cho
ý kiến phản hồi mà không vội đánh giá, đồng thời hồi đáp trong quá trình giao
tiếp.
4.2. Phương pháp trò chơi.
Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay
thực hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò
chơi nào đó.
Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ chức cho thanh thiếu
niên vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại hiệu quả giáo dục.
Qua trò chơi, lớp trẻ không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích cực. Chính vì
vậy, trò chơi được sử dụng như một phương pháp dạy học quan trọng.
Qua trò chơi, học sinh có cơ hội để thể hiện những thái độ, hành vi. Chính

nhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành được ở các em niềm tin và những thái độ
và hành vi tích cực, tạo ra động lực bên trong cho những hành vi ứng xử trong
cuộc sống. Mặt khác, qua trò chơi học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết
định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong mọi tình huống,
hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi.
Phương pháp trò chơi có thể tổ chức đầu tiết dạy để tạo tâm thế hứng thú
cho học sinh đi vào tìm hiểu bài học hoặc để kiểm tra những kiến thức đã học
qua, hoặc sử dụng ở cuối giờ để củng cố nội dung bài học. Nhưng giáo viên
cũng có thể thực hiện phương pháp trò chơi này ở giữa tiết học để nối kết các
hoạt động của bài học, tạo sự chuyển ngoặt sôi nổi, hợp lí. Đặc biệt, giáo viên có
thể tổ chức các trò chơi trong các bài ôn tập nhằm củng cố, khắc sâu và hệ thống
các kiến thức đã học theo những đơn vị nhất định.
Việc tổ chức trò chơi rất đa dạng, học sinh có thể tham gia chơi dưới
nhiều hình thức. Luật chơi phụ thuộc vào nội dung và mục đích, bởi cùng một
nội dung nhưng có thể chơi với nhiều cách khác nhau như: Ghép đáp án đúng,
ghép tranh đoán nội dung, giải ô chữ...
Người tổ chức chơi thông thường là giáo viên, nhưng trong một số trường
hợp giáo viên có thể gợi ý, khuyến khích các em xây dựng trò chơi.
9


Tuy nhiên, để học sinh làm tốt vai trò của mình, giáo viên phải có những
chỉ dẫn cụ thể như đưa ra hình thức chơi mà học sinh có thể áp dụng và hình
dung ra phải làm như thế nào, cách thiết kế câu hỏi,... Bên cạnh đó, giáo viên
cũng phải kiểm tra trước hệ thống câu hỏi học sinh các nhóm đã xây dựng để
giúp học sinh có những điều chỉnh đúng hướng, đáp ứng yêu cầu của bài học. Dĩ
nhiên là giáo viên cũng chỉ dẫn dắt, góp ý chứ không nên áp đặt hay cầm tay chỉ
việc để học sinh được phát huy khả năng sáng tạo của mình. Giáo viên có thể
cho học sinh các nhóm lần lượt triển khai trò chơi của mình rồi chốt lại cuối
cùng nhưng vẫn có thế xen kẽ phần thực hiện của học sinh với phần củng cố của

giáo viên.
Với phương pháp trò chơi này, không những việc học trở nên hứng thú
hơn mà học sinh còn được rèn luyện, nâng cao các kĩ năng như hợp tác, tổ chức,
dẫn dắt vấn đề, xử lí tình huống,... Nhưng khi tổ chức hình thức dạy học bằng
phương pháp trò chơi, giáo viên phải nghĩ ra các hình thức chế tài nhất định để
học sinh chơi trong luật, có ổn định trật tự bởi với mô hình lớp học trong trường
phổ thông của chúng ta hiện nay rất khó cho giáo viên tổ chức phương pháp này
mà không ảnh hưởng đến các lớp học xung quanh. Đây cũng là điều mà người
viết gặp khó khăn nhất khi tổ chức phương pháp dạy học bằng phương pháp trò
chơi, bởi khi đã chơi là có thắng - thua vì vậy học sinh dễ phấn khích và ồn ào
hơn các giờ học thông thường, ngoài ra cũng không ngoại trừ trường hợp học
sinh cố tình gây rối. Dù có những khó khăn nhất định nhưng phương pháp dạy
học này đã khắc phục phần nào nhược điểm học tập thụ động ở học sinh, là một
trong những phương pháp hiệu quả trong việc tạo hứng thú cho học sinh trong
giờ học môn Văn và rèn luyện KNS hữu hiệu cho các em.
Với văn bản "Đây thôn Vĩ Dạ", giáo viên cũng có thể tổ chức trò chơi cho
học sinh trong phần củng cố bài. Chẳng hạn, giáo viên tổ chức trò chơi: Ai thông
minh hơn?
Luật chơi: Hai bạn học sinh quay lưng vào nhau, mỗi bạn có một chiếc
bảng. Khi GV đọc câu hỏi trắc nghiệm, hai học sinh sẽ ghi đáp án đúng vào
bảng của mình. Mỗi câu trả lời đúng được 2 điểm. Kết thúc, bạn nào đạt số điểm
cao nhất sẽ giành chiến thắng.
* Hệ thống câu hỏi trong trò chơi:
Câu 1: Tiếng nói nội tâm trong câu hỏi: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ"
không mang sắc thái cảm xúc nào?
A. Mời mọc
B. Trách móc
C. Băn khoăn
D. Khát khao
10



Câu 2: Câu thơ nào trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử gợi vẻ đẹp
nên thơ, hài hoà giữa thiên nhiên và con người thôn Vĩ?
A. Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
B. Lá trúc che ngang mặt chữ điền
C. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
D. Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu 3: Những hình ảnh sử dụng trong khổ 1 có đặc điểm
A. Giản dị, gần gũi, đậm chất dân gian
B. Giàu sức gợi, mang màu sắc tượng trưng
C. Trang trọng, hàm súc, mang đậm màu sắc cổ điển
D. Táo bạo, hiện đại, tạo cảm giác mạnh.
Sau khi trò chơi kết thúc, giáo viên nhận xét, cho điểm và trao thưởng cho
người dành thắng lợi. Cuối cùng, thông qua trò chơi, giáo viên chốt lại kiến thức
bài học.
Như vậy, khi tham gia vào trò chơi, các em sẽ được hình thành kĩ năng
một số kĩ năng cần thiết như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng
giải quyết căng thẳng, biết ứng xử linh hoạt, quan hệ tích cực và hợp tác,...
4.3. Phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai là một trong những phương pháp tối ưu, giúp học
sinh phát triển trí tuệ, phát huy các kĩ năng và thao tác tư duy thông qua hoạt
động "đóng vai", ứng xử tình huống.
Trong môn Ngữ văn, phương pháp đóng vai được thực hiện trong một số
nội dung học tập sau: vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học, chuyển thể
thành một văn bản văn học thành kịch bản sân khấu, xử lí một tình huống giao
tiếp giả định,...
Giáo viên khi sử dụng phương pháp đóng vai phải đảm bảo các yêu cầu:
- Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề giáo dục (chủ đề bài học),
phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.

- Tình huống nên để mở.
- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong tình huống của bài tập
để đóng vai không lạc đề.
- Nên khích lệ học sinh nhút nhát cùng tham gia.
Sử dụng phương pháp đóng vai sẽ giúp người học phát huy được tính tích
cực, tự giác, độc lập chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng kĩ xảo một cách
vững chắc, phát triển trí tuệ người học và đặc biệt hình thành những kĩ năng
sống tích cực cho học sinh.

11


Áp dụng phương pháp đóng vai khi dạy văn bản "Đây thôn Vĩ Dạ" của
Hàn Mặc Tử, giáo viên có thể cho học sinh đóng vai một phóng viên đang
phỏng vấn nhà văn Hàn Mặc Tử khi hướng dẫn các em tìm hiểu hoàn cảnh sáng
tác của bài thơ. Chẳng hạn:
Phóng viên: Thưa nhà thơ, nhà thơ có thể cho biết tác phẩm Đây thôn Vĩ
Dạ được sáng tác trong hoàn cảnh nào ạ?
Hàn Mặc Tử ( đóng vai): À, đây là "đứa con" rất đặc biệt của tôi. Đó là
thời gian tôi đã mắc bệnh và đang ở trại phong Tuy Hoà, một người bạn của tôi
là Hoàng Thị Kim Cúc đã gửi cho tôi một tấm bưu thiếp kèm theo vài lời động
viên, thăm hỏi. Vì quá xúc động nên dòng cảm xúc tuôn trào, và Đây thôn Vĩ Dạ
ra đời trong hoàn cảnh đó.
Phóng viên: Vì sao tấm bưu ảnh ấy khiến ông xúc động như vậy?
Hàn Mặc Tử (đóng vai): Thực ra, có rất nhiều lí do khiến tôi rất xúc động,
tuy nhiên, đây là một món quà ý nghĩa vì người thiếu nữ Vĩ Dạ ấy chính là
"người tình trong mộng" của tôi. (Hàn Mặc Tử cười)
Phóng viên: Nếu nói như vậy, bài thơ chính là để bày tỏ tình cảm của ông
với người con gái Vĩ Dạ đó ạ?
Hàn Mặc Tử: Tôi xin không trả lời câu hỏi này của anh, và xin mời anh sẽ

dự một tiết học Văn của các em học sinh Trung tâm Giáo dục thường xuyên khi
các em tiếp cận bài thơ của tôi. Khi đó, tôi tin chắc, anh sẽ có câu trả lời cho
mình.
Phóng viên: Vâng, xin cảm ơn nhà thơ!
Khi nhập vai nhân vật, học sinh không chỉ được tích hợp kiến thức với
phân môn tiếng Việt "Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn". Đây cũng chính là cơ hội
để các em được luyện tập lĩnh vực kiến thức đã học.
Kết thúc cuộc phỏng giáo viên nhận xét, chốt kiến thức.
Với cách thức trên, giáo viên không chỉ củng cố cho học sinh những kiến thức
cơ bản mà còn giúp cho giờ học không trở nên khô khan, nhàm chán, thụ động.
Đặc biệt, bằng phương pháp đóng vai, giáo viên sẽ giáo dục học sinh số kĩ năng
cơ bản như:
- Kĩ năng giao tiếp: Đóng vai đòi hỏi học sinh phải chủ động trong quá
trình học tập. Mặt khác, trong quá trình tham gia đóng vai, học sinh sẽ được
hình thành kĩ năng trong giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể,
từ đó giúp học sinh biết cách giao tiếp, ứng xử với bạn bè cùng trang lứa, với
những người xung quanh.
- Kĩ năng giải quyết tình huống: Thông qua đóng vai, học sinh thể hiện
nhận thức, thái độ của mình trong tình huống cụ thể và học sinh phải có cách
ứng xử sao cho phù hợp với tình huống đó. Đồng thời thông qua vai diễn, HS
12


được bộc lộ khả năng giao tiếp, khả năng tự giải quyết các vấn đề về sức khoẻ,
các tình huống trong cuộc sống.
- Kĩ năng thuyết trình: Thông qua việc hoá thân vào vai diễn, học sinh sẽ
trở lên tự tin hơn khi đứng trước đám đông. Nếu được thực hành nhiều, bản thân
học sinh sẽ tự rút ra kinh nhiệm cho bản thân để làm sao thuyết phục được người
nghe, để "truyền lửa" cho "khán giả" của mình.
- Kĩ năng nhận thức và cảm thông: Khi học sinh có thể hình dung và đặt

mình trong hoàn cảnh của người khác sẽ giúp các em hiểu và chấp nhận người
khác, có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thông với họ,
từ đó các em sẽ hình thành kĩ năng thể hiện sự cảm thông. Đây cũng là những kĩ
năng quan trọng, cần thiết trong cuộc sống mà các em có thể được hình thành
thông qua bài học.
Như vậy, việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực sẽ tạo điều kiện,
cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình
học tập. Với cách tiếp cận này, sẽ không làm nặng nề, quá tải thêm nội dung bài
học mà ngược lại còn làm giờ học trở nên hứng thú, thiết thực và bổ ích với học
sinh.
4.4. Giáo án thể nghiệm
Tuần: 24
Tiết: 78
Đọc văn:
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
- Hàn Mặc Tử I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
- Cảm nhận được bài thơ là bức tranh phong cảnh, cũng là tâm cảnh, thể
hiện nỗi buồn cô đơn của nhà thơ trong mối tình xa xăm, vô vọng. Qua đó hiểu
được lòng yêu thiên nhiên, cuộc sống và khát khao hạnh phúc thiết tha của Hàn
Mặc Tử.
- Nhận biết sự vận động của tứ thơ và bút pháp nghệ thuật tài hoa độc đáo
của một nhà thơ mới.
2. Kĩ năng
Tiếp tục hoàn thiện kĩ năng đọc thơ trữ tình.
3. Thái độ
Trân trọng những khát vọng hạnh phúc của con người.
4. Năng lực
- Năng lực giao tiếp tiếng Việt
- Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ.

- Năng lực hợp tác.
- Năng lực tự quản bản thân
II. Chuẩn bị
13


1. Giáo viên
- Phương pháp: gợi mở nêu vấn đề, vấn đáp, bình giảng, thảo luận…
- Phương tiện: SGK, SGV, Thiết kế bài học, tranh ảnh…
2. Học sinh
Chuẩn bị bài.
III. Tiến trình dạy học
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ
Tâm hồn của thi nhân trong bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận?
3. Bài mới
* Giới thiệu bài mới:
* Triển khai nội dung:
Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cơ bản cần đạt
Hoạt động 1: Tìm hiểu Tiểu dẫn.
I. Tiểu dẫn.
1.Tác giả
- GV tạo tâm thế tiếp nhận: Cho học
a. Cuộc đời
sinh xem video về HMT, sau đó yêu
- Tên thật: Nguyễn Trọng Trí ( 1912 cầu HS thu thập thông tin hoàn thành
1940).
phiếu học tập theo nhiệm vụ được
- Quê: làng Mĩ Lệ, tổng Võ Xá, huyện
phân công của mỗi nhóm:

Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là
~ Nhóm 1: Tìm hiểu về cuộc đời của
tỉnh Quảng Bình).
Hàn Mặc Tử?
- Ông có số phận đau thương và bất
~ Nhóm 2: Tìm hiểu về sự nghiệp văn hạnh:
học của Hàn Mặc Tử?
~ Cha mất sớm.
- Thời gian làm việc: 4 phút
~ Năm 24 tuổi mắc bệnh phong, ông
- Đại diện nhóm trình bày. Các nhóm
về Quy Nhơn để chữa trị.
~ Ông mất khi tuổi đời còn rất trẻ (28
khác nhận xét.
tuổi)
- GV chốt kiến thức bằng sơ đồ.
b. Sự nghiệp.
- GV giới thiệu một vài hình ảnh tư
- HMT là nhà thơ lạ nhất trong phong
liệu về Hàn Mặc Tử.
trào thơ mới.
- Ông là một nhà thơ tài hoa, có sức
sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong
trào Thơ mới.
- GV cung cấp cho học sinh một số đặc - Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh
liệt nhưng luôn quằn quại đau đớn, có
điểm về thơ Hàn Mặc Tử.
- HS nghe và ghi chép.
sự giằng xé dữ dội trong tâm hồn và
thể xác. Mặc dù vậy ông vẫn có

những vần thơ trong sáng hồn nhiên.
- Tác phẩm chính: Gái quê (1938),
Thơ Điên (1939), Xuân như ý,
Thượng thanh khí, Cẩm châu Duyên,
14


- GV: Dựa vào phần hướng dẫn HS
chuẩn bị ở nhà, GV tổ chức học sinh
đóng vai trong tình huống: Một phóng
viên phỏng vấn Hàn Mặc Tử về hoàn
cảnh sáng tác của bài thơ.
- HS nhập vai, tái hiện kiến thức.
- GV nhận xét, chốt kiến thức và định
hướng tìm hiểu tác phẩm.
- GV đưa bài tập trắc nghiệm về âm
điệu bài thơ.
- HS chọn và đọc bài thơ theo âm điệu
đã chọn.
- GV cho HS nghe khúc ngâm bài Đây
thôn Vĩ Dạ và hướng dẫn HS cách
đọc:
+ Khổ 1: Giọng đọc chậm rãi, thiết
tha, tươi vui.
+ Khổ 2, 3: Trầm buồn, da diết.
- GV đưa câu hỏi trắc nghiệm tìm hiểu
về đề tài bài thơ.
- HS chọn đáp án đúng.
- GV định hướng cách tìm hiểu bài thơ.
Hoạt động 2: Đọc - hiểu văn bản.

- GV hỏi: Ở khổ 1, tác giả đã miêu tả
thôn Vĩ vào thời điểm nào?
- GV hướng dẫn HS tìm hiểu câu thơ
thứ nhất trong khổ 1:
~ Hình thức?
~ Chủ thể?
~ Sắc thái?
- HS suy nghĩ, trả lời.

Duyên kì ngộ ( kịch thơ- 1939)…
→ Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có
cuộc đời riêng nhiều bi thương nhưng
ông đã vượt qua với nghị lực phi
thường và có sức sáng tạo mạnh mẽ.
2. Tác phẩm.
- Xuất xứ: rút từ tập Thơ Điên (1938).
- Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được khởi
hứng từ bức bưu ảnh mà Hoàng Cúc "người tình trong mộng của nhà thơ"
- gửi tặng.

- Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh
đẹp, trong trẻo về một miền quê đất
nước, là tiếng lòng của một con người
tha thiết yêu đời.

II. Đọc - hiểu văn bản
1. Khổ 1: Thôn Vĩ buổi bình minh.
- Câu hỏi tu từ: "Sao anh không về
chơi thôn Vĩ ?"
+ Lời người con gái xứ Huế.

-> lời mời mọc tha thiết
-> lời trách cứ nhẹ nhàng.
+ Lời tác giả tự vấn.
-> câu hỏi thấm thía một nỗi
15


- GV chốt ý.

- GV dùng phương pháp thảo luận
nhóm và kĩ thuật mảnh ghép tìm hiểu 3
câu thơ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Cụ thể:
~ Nhóm 1: Cảnh vườn thôn Vĩ được
miêu tả qua những hình ảnh nào? Cảm
nhận của anh (chị) về cảnh vườn tược
thôn Vĩ Dạ?
~ Nhóm 2: Chỉ ra những đặc sắc nghệ
thuật được tác giả sử dụng để tái hiện
lại bức tranh thôn Vĩ?
~ Nhóm 3: Con người thôn Vĩ được tái
hiện qua những hình ảnh nào? Cảm
nhận về vẻ đẹp con người xứ Huế qua
những hình ảnh đó?
- HS thảo luận
- GV yêu cầu đại diện nhóm trình bày.
Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.

- GV chốt ý.
- GV yêu cầu HS quan sát 3 mảnh
ghép đã thực hiện và yêu cầu HS thực
hiện mảnh ghép cuối cùng qua câu hỏi:
Đằng sau bức tranh thôn Vĩ, em cảm
nhận như thế nào về tâm trạng nhà
thơ?
- HS phát hiện.
- HS chốt ý.

xót xa, đắng cay, tiếc nuối và bất lực.
→Tâm trạng: khao khát được gặp gỡ,
được thăm cảnh, thăm người. Đây là
cách bộc lộ tình cảm rất kín đáo, tế
nhị.

- Thiên nhiên Vĩ Dạ buổi sớm mai:
+ Nắng mới lên: nắng ấm áp, tinh
khôi, trong trẻo.
+ Nắng hàng cau: thanh tân, tinh
khôi.
+ Mướt quá xanh như ngọc: mượt
mà, đầy xuân sắc, như một viên ngọc
đầy sắc xanh.
→ Thiên nhiên mượt mà, óng ả, thơ
mộng. Vườn Vĩ Dạ trong buổi bình
minh tựa như một viên ngọc lớn vừa
thanh khiết vừa cao sang.
- Nghệ thuật:
+ Điệp từ: "nắng" điệp lại hai lần

trong một câu thơ: gợi hình ảnh thôn
Vĩ bừng lên trong bình minh, sức
sống, niềm vui như lan rộng đất trời.
+ So sánh: "xanh như ngọc": so sánh
lạ, gợi màu xanh trong và nhẹ, một
màu đẹp, màu xanh như chứa cả ánh
sáng.
- Người thôn Vĩ:
+ Mặt chữ điền: vẻ đẹp phúc hậu,
trang trọng và quý phái.
+ Lá trúc che ngang: vẻ đẹp xinh xắn,
mảnh mai, thanh tú.
→ Sự hài hòa giữa cảnh và người.
Cảnh xinh xắn, thơ mộng, con người
phúc hậu dịu dàng, tất cả tạo nên một
vẻ đẹp kín đáo.
- Tâm trạng: niềm vui khi nhận được

16


tín hiệu tình cảm của người trong
mộng. Đồng thời qua bức tranh thiên
nhiên ta cũng thấy được sự gắn bó,
tình yêu đối với một miền quê trong
Hàn Mặc Tử.
- GV yêu cầu khái quát khổ?
- HS khải quát

→ Bức tranh xứ Huế trong buổi bình

minh vừa mượt mà, óng ả vừa đằm
thắm thơ mộng. Cảnh vật được tái
hiện bằng tình yêu, bằng hoài niệm
với xứ Huế của nhà thơ.
GV hướng dẫn HS tìm hiểu khổ 2 bằng 2. Khổ 2: Cảnh xứ Huế vào buổi
phương pháp thảo luận nhóm.
chiều và đêm trăng.
- Cảnh xứ Huế trong buổi chiều:
Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ:
+ Gió theo lối gió, mây đường mây:
Cảnh xứ Huế vào buổi chiều và đêm
không gian gió mây chia lìa đôi
trăng.
đường đôi ngả, gợi sự xa cách chia
-> Thời gian: 3 phút
-> Phương tiện hỗ trợ: Phiếu học lìa.
+ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay:
tập.
dòng sông như mang tâm trạng của
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
con người.
- Giáo viên chia lớp thành 3
→ Bức tranh thiên nhiên ảm đạm,
nhóm, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:
nhuốm màu chia lìa, sự sống mệt mỏi,
~ Nhóm 1: Cảnh xứ Huế trong
yếu ớt.
buổi chiều được tái hiện như thế nào?
- Tâm trạng: nỗi buồn hiu hắt, mang
Nhận xét về bức tranh thiên nhiên?

dự cảm về hạnh phúc chia lìa.
~ Nhóm 2: Cảm nhận về bức
- Thiên nhiên trong đêm trăng:
tranh thiên nhiên trong đêm trăng? Bức + Sông trăng: dòng sông như được dát
tranh ấy đem đến cho em ấn tượng gì
bạc, ánh lên lộng lẫy.
+ Thuyền ai: ngỡ ngàng, bâng
về xứ Huế?
khuâng, vừa quen vừa lạ.
~ Nhóm 3: Đằng sau bức tranh
→ Hình tượng thơ đẹp đẽ, thơ mộng,
thiên nhiên xứ Huế và buổi chiều và
lãng mạn, thi vị của Huế.
trong đêm trăng, em cảm nhận gì về
tâm trạng của nhà thơ?
- HS thảo luận.
Bước 3: Trình bày kết quả
- Đại diện nhóm trình bày kết
quả thảo luận, các thành viên của
nhóm có thể bổ sung thêm.
- Các nhóm khác nhận xét, bổ
17


sung.
- GV đúc kết, bổ sung ý kiến,
nhấn mạnh nội dung quan trọng bằng
trình chiếu.
- GV hỏi: Trong thơ ca, "thuyền, bến,
trăng" thường là những hình ảnh mang

tính biểu trưng. Hãy cho biết ý nghĩa
biểu tượng của những hình ảnh này. Từ
đó ta thấy được điều gì trong tâm trạng
nhà thơ?
- HS phát hiện, cảm nhận.
- GV chọn Điểm sáng thẩm mĩ để
bình: "Nó vẫn đẹp trong quên lãng. Ấy
là chữ "kịp". Phải, chữ "kịp" mới
mang bi kịch của tâm hồn ấy, thân
phận ấy. Ta và cả những người đọc thơ
sau không biết "tối nay" là tối nào cụ
thể. Nhưng qua giọng khắc khoải va
chữ "kịp" thì thi sĩ sẽ hoàn toàn lâm
vào cảnh tuyệt vọng, vĩnh viễn đau
thương. Chữ "kịp" hé mở cho ta thấy
một mặc cảm: mặc cảm về một hiện tại
ngắn ngủi, hé mở cho ta một cách thế
sống: sống là chạy đua với thời gian.
Quỹ thời gian đang vơi đi từng ngày,
từng khắc, cuộc chia lìa vĩnh viễn
đang tới gần, thi sĩ mong mỏi đến đau
thương! Thơ là sự lên tiếng của thân
phận , định nghĩa ấy hoàn toàn đúng
với Hàn Mặc Tử".
- Gv yêu cầu HS khái quát về khổ thơ
thứ 2?
- HS khái quát.
- GV cho HS đọc khổ thơ và nêu cảm
nhận sau khi đọc.
- GV hỏi: Cảnh vật trong khổ thơ thứ

ba có gì khác với khổ thứ nhất và khổ
thứ hai?
- GV cho học sinh lần lượt cắt nghĩa

- Hình ảnh biểu tượng:
+ Thuyền: người con trai
+ Bến: người con gái
+ Trăng: hạnh phúc lứa đôi.
→ Thuyền chở trăng là thuyền chở
tình yêu. Bến sông trăng là bến bờ
hạnh phúc. Liệu con thuyền chở tình
yêu có kịp cập bến bờ hạnh phúc hay
không?
→ Câu hỏi chất chứa sự khắc khoải,
sự chờ đợi mòn mỏi tình yêu, hạnh
phúc của thi nhân. Ẩn sau đó là sự
mông lung, hồ nghi, thất vọng.

→ Cảnh vật xứ Huế trong buổi chiều
và đêm trăng buồn bã, hắt hiu nhưng
không kém phần thơ mộng. Đó là
cảnh vật được nhìn qua niềm hi vọng
da diết được về thăm lại xứ Huế
nhưng lại bất lực của thi nhân.
3. Khổ 3: Niềm khát khao giao hòa
giữa thi nhân và con người xứ Huế.
- Cảnh, người trong mộng. Thiên
nhiên nhường chỗ cho sự hiện diện
của con người.
+ Khách đường xa: người đang sống


18


các hình ảnh:
+ "Khách đường xa" là ai? Điệp từ có
tác dụng gì?
+ "Áo em" là ai? "Trắng quá nhìn
không ra" nghĩa là thế nào?
+ "Ở đây" là ở đâu?
+ "Sương khói" mang ý nghĩa gì?
- HS phân tích, cắt nghĩa.

- GV: Từ vệc cắt nghĩa các hình ảnh,
hãy nêu cảm nhận của em về hiện thực
được miêu tả?
- GV: Dựa vào quy luật tâm lí để bình
giảng: Hình ảnh con người xứ Huế và
tình em như rời xa bởi "khói sương mờ
nhân ảnh". Giữa nhà thơ bạc mệnh và
con người xứ Huế có một hố sâu ngăn
cách: em - người xứ Huế thì xa xôi
quá, còn nhà thơ thì biết mình mắc
bệnh hiểm nghèo, một bên là cuộc
sống tình yêu hé mở, một bên là nỗi cô
đơn, cái chết dày vò. Vì vậy, hình ảnh
khói sương trong bài thơ là khói sương
của một mối tình mong manh chưa một
lời hẹn ước, khói sương của một trái
tim yêu đời, yêu người nhưng biết

mình sắp từ giã cuộc đời. Tất cả điều
đó đã làm nên sự xa xôi hư ảo và nỗi
buồn xót xa, sâu lắng.
- GV hỏi: Cảnh cũng như tình. Đằng
sau cái hiện thực ấy, em nhận ra tâm tư
nào của thi nhân?
- HS phát hiện.
- GV yêu cầu HS nêu khái quát về khổ

ở Vĩ Dạ, cũng có thể là nhà thơ.
→ Điệp từ "khách đường xa" gợi
khoảng cách xa xôi, cách trở.
+ "Áo em": áo của người con gái xứ
Huế.
→ "Trắng quá nhìn không ra" : thi
nhân đang sống trong ảo giác, không
phải nhìn bằng mắt thường.
+ Ở đây: - ở xứ Huế
- nơi nhà thơ sống, cách xa
xứ Huế.
+ Sương khói: - sương khói thực vì có
dòng sông Hương chảy qua.
- tượng trưng cho hố
sâu ngăn cách giữa nhà thơ với xứ
Huế và cuộc đời.
→ Xa xôi, hư ảo, mờ nhòe, càng lúc
càng chìm vào cõi mộng.

- Thi nhân cảm nhận rõ nét khoảng
cách xa xôi, cái hư ảo ngày càng rõ

của tình yêu, hạnh phúc.
→ Khổ thơ là niềm khát khao giao
cảm giữa thi nhân và con người xứ
Huế, đồng thời thể hiện một mối tình
19


thơ.

kín đáo, xót xa, vô vọng của nhà thơ
đối với người con gái xứ Huế.
- GV tổ chức HS thảo luận nhóm
+ Từ khổ 1 → khổ 2 → khổ 3:
~ Cảnh vật: tươi sáng giàu sức sống
(4HS/ nhóm): Như vậy 3 khổ thơ là 3
→ ảm đạm, uể oải → hư ảo, mờ nhòe.
bức tranh khác nhau. Phải chăng bài
thơ là sự chắp nối vụng về, rời rạc giữa ~ Tâm trạng thi nhân: hi vọng → dự
cảm chia lìa, thất vọng, hồ nghi →
3 đoạn? Có "dòng chảy" nào xuyên
tuyệt vọng.
xuốt các khổ thơ" ?
+ Đại từ phiếm chỉ "ai" (mang nghĩa
- GV gợi ý:
+ Nhận xét sự biến đổi của cảnh vật và mơ hồ) lặp lại đều đặn trong các khổ
tâm trạng thi nhân từ khổ thứ nhất đến thơ: vườn ai, thuyền ai, ai biết tình ai.
+ Sự lặp lại của các câu hỏi tu từ
khổ thứ hai và khổ thứ 3.
trong các khổ: "Sao anh không về
+ Tìm và phân tích các tín hiệu ngôn

chơi thôn Vĩ?", "Có chở trăng về kịp
ngữ liên kết các khổ thơ.
- HS phát hiện -> trình bày.
tối nay?", "Ai biết tình ai có đậm đà?"
- GV nhận xét -> chốt ý.
thể hiện sự khắc khoải, khát khao tình
yêu hạnh phúc của chủ thể trữ tình.
Hoạt động 3: Tổng kết
III. Tổng Kết
1. Nội dung.
- GV yêu cầu HS khái quát giá trị nội
- Bài thơ đã tái hiện lại khung cảnh
dung, giá tri nghệ thuật của bài thơ
xứ Huế đằm thắm thơ mộng, đồng
- HS khái quát.
thời bộc lộ tâm trạng của nhà thơ, đó
- GV yêu cầu HS đọc Ghi nhớ (SGK). là một tình quê, một tình yêu thầm kín
trong trẻo, đó là nỗi buồn xót xa sâu
lắng của nhà thơ trước thiên nhiên,
con người và hạnh phúc cuộc đời.
2. Nghệ thuật
- Hình ảnh thơ độc đáo, đẹp, gợi cảm.
Ngôn ngữ trong sáng, tinh tế, đa
nghĩa. Các biện pháp nghệ thuật : câu
hỏi tu từ, điệp từ, nhân hóa được sử
dụng thành công.
Hoạt động 4. Củng cố
Câu 1. Nội dung nào sau đây không có trong "Đây thôn Vĩ Dạ":
A. Tình cảm đối với thiên nhiên và con người xứ Huế
B. Nỗi buồn mang dự cảm về hạnh phúc chia xa.

C. Nỗi buồn sâu kín về một tình yêu đơn phương.
D. Tâm sự của một chàng trai trẻ tài hoa nhưng thất tình.
Câu 2: Tâm trạng của thi nhân trong bài thơ?
Hoạt động 5. Hướng dẫn về nhà
- Nắm được giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
20


- Soạn bài " Chiều tối" của Hàn Mặc Tử.

5. Kết quả đạt được.
Áp dụng những phương pháp dạy học tích cực vào giáo dục sống cho học
sinh qua đoạn trích "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử, tôi đã thu được những
kết quả mong đợi. Giờ học Văn không còn nhàm chán khi học sinh chủ động,
tích cực, sáng tạo chiếm lĩnh tác phẩm. Học sinh đã vô cùng hào hứng, các em
phát biểu, bàn luận, tranh cãi,... và qua những hoạt động dạy học các em đã tự
rút ra được những kĩ năng sống cho riêng mình.
Rõ ràng, với những ưu điểm của các phương pháp dạy học tích cực, giờ
học Văn đã "chạm" đến tâm hồn các em, để các em biết sống, biết yêu, biết khát
khao, biết mơ ước.... Cô và trò cùng say sưa, cảm thấy hứng thú trong mỗi giờ
văn. Một giờ Văn là một trải nghiệm mới, mỗi giờ Văn đều khiến các em "sống"
thực sự. Môn Văn không còn là "gánh nặng" với các em, ngược lại văn học là
một phần tất yếu của cuộc sống.
6. Điều kiện để chuyên đề được nhân rộng.
Đề tài cần có sự góp ý xây dựng để hoàn thiện nên rất cần sự đóng góp ý
kiến của đồng nghiệp và tổ chuyên môn.
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được thực hiện một cách đồng đều
ở các lớp, tổ chuyên môn phải lên kế hoạch và có phương hướng triển khai cụ
thể.
Giáo dục kĩ năng sống không chỉ qua một giờ đọc hiểu kịch cụ thể, cũng

không phải là việc làm trong ngày một, ngày hai mà nó phải trở thành một quá
trình thường xuyên, liên tục trong dạy học Ngữ văn. theo phương thức "mưa
dầm thấm lâu". Người giáo viên Ngữ văn phải luôn có ý thức lồng ghép kĩ năng
sống cho học sinh vào bài giảng, lựa chọn những phương pháp dạy học tích cực,
phù hợp với nội dung từng bài học để có kết quả cao nhất , qua đó phát huy tính
21


chủ động, sáng tạo của học sinh, hình thành những kĩ năng sống cần thiết qua
mỗi bài học.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một bộ phận quan trọng của giáo
dục nhà trường, nhằm hình thành cho học sinh ý thức, hành vi, thái độ, cách ứng
xử có văn hoá và khả năng ứng phó với những tình huống phức tạp của cuộc
sống. Trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá và sự phát triển mạnh
mẽ của nền kinh tế thị trường như hiện nay, việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn lúc nào hết.
Qua thực tiễn dạy học, đặc biệt khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực
và dạy văn bản "Đây thôn Vĩ Dạ" để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, tôi
nhận thấy học sinh phát huy được nhiều mặt tích cực: tự định hướng được hoạt
động học tập, tự khám phá tích hợp, trình bày, tự chủ động trong hoạt động học
tập. Mặt khác, các em được rèn luyện nhiều kĩ năng sống cơ bản như: kĩ năng ra
quyết đinh và giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp và hợp tác, kĩ năng nhận thức
và cảm thông, kĩ năng tự học...
Các phương pháp dạy học tích cực đều lấy hoạt động của người học lam
trung tâm, tuy nhiên mỗi phương pháp có những điểm khả thủ và có những điểm
hạn chế riêng, vì vậy khi vận dụng phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi giáo
viên phải hết sức linh hoạt, lựa chọn sao cho phù hợp với đặc trưng bài học,

năng lực học sinh, điều kiện áp dụng của từng thời điểm.
Để hình thành được kĩ năng sống cho học sinh, đòi hỏi giáo viên phải có
khả năng tư duy, nghiên cứu, khai thác nội dung tư tưởng của tác phẩm, trình độ
chuyên môn sâu sắc, kinh nghiệm dồi dào, giáo dục học sinh qua từng bài, tích
luỹ kiến thức cho học sinh chứ không chỉ dạy một lần duy nhất hay một bài học
duy nhất.
Có ý kiến cho rằng, dạy kĩ năng sống cũng như dạy một đứa trẻ học bơi,
phải kiên trì, tỉ mỉ từng bước một. Giáo viên phải đóng một vai trò quan trọng
trong các hoạt động của học sinh, đánh thức năng lực tiềm năng trong mỗi học
sinh, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
qua các giờ học Ngữ văn cần theo đặc trưng của môn học và giáo dục theo con
đường "mưa dầm thấm lâu" nhẹ nhàng, tự nhiên, không gượng ép theo kiểu sống
sượng", nhồi nhét hoặc giáo viên rút ra kĩ năng sống "hộ" học sinh.
2. Khuyến nghị

22


- Đối với Trung tâm GDTX: Quán triệt công tác giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh, coi đây là một rrong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của
Trung tâm trong từng năm học. Đồng thời tạo điều kiện cho cái giải pháp trong
sáng kiến kinh nhiệm được thực hiện một cách triệt để, đồng bộ, nghiêm túc
nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua môn
Ngữ văn.
Với những điều trình bày trên, tôi mong có thể đóng góp một phần nhỏ bé
vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy Ngữ văn trong Trung tâm Giáo dục
thường xuyên nói riêng và giảng dạy Ngữ văn nói chung. Mặc dù rất cố gắng
nhưng ắt hẳn sẽ không tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong nhận được sự đóng
góp của quý thầy cô để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành
cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường THPT, Nhiều tác giả.
NXB Giáo dục, 2010.
2. Những giá trị sống cho tuổi trẻ, Diane, NXB TP.HCM, 2000.
3. Một số kĩ năng cần thiết dành cho học sinh THPT, NXB Giáo dục, 2011.

23


24



×