Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vũ Huy Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.15 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

NGUYỄN THỊ TƯƠI

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VŨ HUY ANH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hà Nội – 2014


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU ........................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại ............................................................ 7
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp ........................................................... 7
4.3. Phương pháp lịch sử ................................................................................ 7
4.4. Phương pháp loại hình ............................................................................ 7
5. Những đóng góp mới của luân văn...............................................................8
6. Cấu trúc luận văn...........................................................................................8
PHẦN II. NỘI DUNG....................................................................................... 9
CHƯƠNG 1. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC
CỦA VŨ HUY ANH ....................................................................................... 9


1.1. Khái niệm “cảm hứng nghệ thuật” ......................................................... 9
1.2. Những cảm hứng nghệ thuật cơ bản trong tiểu thuyết của Vũ Huy Anh ................. 10
1.2.1. Đôi nét về tiểu sử và sự nghiệp văn học của Vũ Huy Anh...........10
1.2.2. Những cảm hứng nghệ thuật cơ bản.............................................12
1.2.2.1. Cảm hứng bi kịch .............................................................. 12
1.2.2.2. Cảm hứng ngợi ca đan xen cảm hứng phê phán ............... 23
1.2.2.3. Cảm hứng khám phá con người bản năng ........................ 33
CHƯƠNG 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VŨ
HUY ANH....................................................................................................... 38
2.1. Khái niệm “nhân vật” ........................................................................... 38
2.2. Các kiểu nhân vật và phương thức biểu hiện nhân vật trong tiểu thuyết
Vũ Huy Anh ................................................................................................. 38

1


2.2.1. Nhân vật nữ tu sĩ ........................................................................... 39
2.2.2. Những vị cha xứ ............................................................................. 51
2.2.3. Những người giáo dân ................................................................... 54
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU..65
3.1. Cốt truyện ............................................................................................. 65
3.1.1. Cốt truyện kép ................................................................................ 66
3.1.2. Cốt truyện tâm lý ............................................................................ 70
3.2. Không gian – thời gian nghệ thuật ....................................................... 72
3.2.1. Không gian nghệ thuật ................................................................... 72
3.2.1.1. Không gian thực ................................................................... 73
3.2.1.2. Không gian ảo ...................................................................... 79
3.2.2. Thời gian nghệ thuật ...................................................................... 81
3.2.2.1 Thời gian hiện thực ............................................................... 83
3.2.2.2. Thời gian tâm lý ................................................................... 85

3.3. Giọng điệu............................................................................................. 88
3.3.1. Giọng điệu buồn thương – chia sẻ ................................................. 90
3.3.2. Giọng điệu hài hước, châm biếm ................................................... 93
3.4. Ngôn từ ................................................................................................. 96
3.4.1. Ngôn ngữ đậm màu sắc công giáo ................................................. 96
3.4.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ........................................................... 98
3.4.3. Ngôn ngữ đối thoại ....................................................................... 102
PHẦN III: KẾT LUẬN ................................................................................. 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 108

2


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. So với lịch sử tiểu thuyết thế giới, tiểu thuyết ở nước ta ra đời
muộn hơn nhưng đây lại là một thể loại văn học có tốc độ phát triển nhanh
chóng, có sức thu hút lớn đối với các nhà văn cũng như đối với độc giả. Bên
cạnh những thành tựu rực rỡ của truyện ngắn, tiểu thuyết vẫn âm thầm tiến
những bước vững chắc, khẳng định vị trí quan trọng của mình trong nền văn
học dân tộc, đặc biệt là từ thời kỳ Đồi mới (1986). Theo đà phát triển đó,
trong những năm gần đây, tiểu thuyết Việt Nam đương đại có những thành
tựu vượt bậc, bên cạnh những gương mặt tiểu thuyết quen thuộc trước năm
1975 vẫn tiếp tục sáng tác có sự xuất hiện một lớp nhà văn mới mà ở họ có
những khả năng khám phá hiện thực cũng như đổi mới trong thi pháp tiểu
thuyết như: Bảo Ninh, Dương Hướng, Bình Phương ... Trong số đó có tác giả
Vũ Huy Anh. Các nhà văn đã không ngừng khám phá các thủ pháp nghệ thuật
và sáng tạo các kỹ thuật viết làm cho tiểu thuyết đương đại trở nên mới mẻ từ
tư tưởng chủ đề cho tới hình thức nghệ thuật. Vì thế, tìm hiểu những đóng góp
nghệ thuật về tiểu thuyết của bất cứ tác giả nào trong giai đoạn văn học này

cũng là một cách nhìn nhận để khái quát về diện mạo của cả một giai đoạn
văn học.
1.2. Trong văn chương Việt Nam hiện đại, tiểu thuyết viết về đề tài
công giáo đã có những thành công được khẳng định. Tiểu thuyết Xung đột của
Nguyễn Khải đã đánh dấu cột mộc đầu tiên của đề tài khó khăn và phức tạp
này. Đặc biệt bộ tiểu thuyết tương đối đồ sộ Bão biển của Chu Văn đã ghi
được thành công lớn. Đây là một hiện thực được phản ánh khá phong phú,
sinh động và sâu sắc, dẫu hoàn cảnh khách quan đã thay đổi nhưng ý nghĩa
của các tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị. Và những tiểu thuyết của Vũ Huy

3


Anh là những thành công tiếp theo của mảng đề tài này. Tuy chưa gây được
tiếng vang lớn nhưng những tiểu thuyết viết về đề tài công giáo của ông đã có
những thành công riêng, để lại những ấn tượng tốt đẹp về người công giáo
trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Vũ Huy Anh tập trung viết về đề tài công giáo – một mảng đề tài đặc
biệt. Tuy đây không phải là đề tài mới nhưng đó vẫn là con đường mà không
nhiều người bước chân vào. Hơn ba mươi năm sống và làm báo, viết văn tại
Hà Nội, ông đã xuất bản 15 cuốn tiểu thuyết và truyện. Đó là một con số đáng
kể đối với một đời lao động nghệ thuật. Trong đó, có nhiều cuốn tiểu thuyết
đã được dư luận chú ý và đặc biệt tiểu thuyết Cuộc đời bên ngoài được giải
thưởng chính thức của Hội nhà văn năm 1984. Đó thực sự là những tác phẩm
mang thông điệp chính trị và văn hóa sâu sắc.
Đi vào khám phá thế giới nghệ thuật của Vũ Huy Anh cũng là để bạn
đọc biết thêm, yêu mến thêm một cây bút tiểu thuyết mới tràn đầy lòng nhiệt
huyết với nghiệp văn, với cuộc đời đồng thời cũng để khẳng định sự đa dạng
của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Thế giới nghệ thuật trong

tiểu thuyết của Vũ Huy Anh.
2. Lịch sử vấn đề
Vũ Huy Anh là một gương mặt tiểu thuyết mới nổi trên văn đàn hiện
nay, vì vậy những tác phẩm của ông chưa được khám phá nhiều. Các cuốn
tiểu thuyết tiêu biểu của ông như: Cuộc đời bên ngoài, Trăm năm thoáng
chốc, Dang dở, Cách trở âm dương đã thu hút được sự chú ý, bình luận của
giới nghiên cứu và một số nhà văn. Song, hầu hết các sáng tác này còn khá
mới mẻ với nhiều bạn đọc.
Trong số bốn tác phẩm trên, Cuộc đời bên ngoài giành được nhiều sự
quan tâm hơn cả. Viết về tác phẩm này, các nhà nghiên cứu, phê bình đã tập

4


trung vào một số vấn đề chính như: đề tài nữ tu sĩ, giá trị nhân đạo, cốt truyện,
ngôn ngữ, lối kể chuyện và chủ yếu nói đến nhân vật chính nữ tu sĩ Têrêsa
Lành. Với dung lượng khá ngắn trong khuôn khổ của một bài báo, những vấn
đề trên mới chỉ được đề cập một cách sơ lược. Trong số đó, duy nhất có bài
viết Cuộc đời bên ngoài và những cuộc đời bên trong (Ngô Thu Thủy – số 11
năm 2011 tạp chí Khoa học và công nghệ) đi vào tìm hiểu khá sâu về nghệ
thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật chính – Têrêsa Lành trong quá trình
đấu tranh giữa hai lựa chọn: giữ mình cả đời trong nhà dòng hay trở về cuộc
đời bên ngoài.
Bên cạnh đó, ở tiểu thuyết Trăm năm thoáng chốc, nhà văn Sương
Nguyệt Minh và nhà nghiên cứu Trần Bảo Hưng lại bàn đến triết lý nhân sinh
sâu sắc trong tác phẩm, về hiện thực đầy biến động ở làng quê xứ Đạo trong
gần một thế kỷ (XX) và thân phận con người trong hoàn cảnh đó. Đồng thời
có một số vấn đề cũng được khám phá đó là vấn đề bản năng gốc của con
người, vòng đời trầm luân và sự luân hồi trong tác phẩm. Các nhà nghiên cứu
có nói đến ý thức tìm tòi đổi mới nghệ thuật nhưng mới chỉ dừng lại ở việc

điểm qua về nghệ thuật tả cảnh, tả người, có nói đến tính cách nhân vật
Trương Rô và ông Sóng nhưng hầu như chưa bàn đến phương thức biểu hiện
nhân vật.
Còn cuốn tiểu thuyết sáng tác gần đây của Vũ Huy Anh, Cách trở âm
dương, hai tác giả Phùng Văn Khai và Trần Bảo Hưng lại bàn luận trên một
số phương diện chính: giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm, cách đặt ra
và giải quyết vấn đề công giáo theo hướng nhân bản của tác giả đồng thời chỉ
một vài nét đặc sắc trong bút pháp.
Ngoài ra, Dang dở - một cuốn tiểu thuyết khá hấp dẫn của Vũ Huy Anh
nhưng đáng tiếc lại hầu như chưa được quan tâm, tìm hiểu.

5


Nhìn chung, số lượng bài viết về tác phẩm của ông hiện nay còn khá ít
ỏi và chủ yếu mang tính khái quát, đưa ra đôi điều cảm nhận về nội dung cũng
như nghệ thuật trong từng tác phẩm, chưa có sự liên hệ giữa các tiểu thuyết
trong chuỗi tác phẩm viết về đề tài tôn giáo của Vũ Huy Anh. Các bài viết
mới chỉ dừng lại ở những bài báo lẻ tẻ, không mang tính chất chuyên sâu.
Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể,
những đóng góp nghệ thuật của Vũ Huy Anh trong lĩnh vực tiểu thuyết. Đa số
các nhà phê bình đều chỉ đi vào một khía cạnh hoặc một tác phẩm cụ thể mà
mà chưa hề có một công trình nghiên cứu nào hệ thống lại những đặc điểm
nổi bật trong thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết Vũ Huy Anh.
Và đây chính là khoảng trống để chúng tôi lựa chọn đối tượng nghiên
cứu là Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vũ Huy Anh nhằm giúp bạn
đọc có nhiều cơ hội tiếp cận, tìm hiểu và yêu mến cây bút này hơn. Đồng thời,
đây cũng là cách tiếp cận những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết và văn học
đương đại.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

a. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là khám phá nội dung và một số phương diện
nghệ thuật đặc sắc tạo nên thế giới nghệ thuật đặc sắc trong tiểu thuyết của
Vũ Huy Anh. Qua đó chỉ ra những nét đặc sắc của nhà văn, góp phần tạo nên
sự đa dạng của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Từ đó, chúng ta có cái nhìn
khái quát về tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
b. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát chính là thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Vũ
Huy Anh bao gồm: Cảm hứng nghệ thuật, Thế giới nhân vật, Các phương
diện nghệ thuật đặc sắc.
c. Phạm vi nghiên cứu

6


Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tiểu thuyết Vũ Huy Anh. Ông có tất cả
9 tiểu thuyết, nhưng chúng tôi chỉ nghiên cứu những cuốn tiểu thuyết tiêu
biểu nhất và được nhà văn tâm đắc nhất gồm bốn cuốn: Cuộc đời bên ngoài,
Dang dở, Cách trở âm dương, Trăm năm thoáng chốc. Đó là những tác phẩm
làm nên phong cách tiểu thuyết và tên tuổi của nhà văn Vũ Huy Anh. Đồng
thời, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đặt tiểu thuyết của ông trong sự
đối sánh với sáng tác cùng đề tài của các nhà văn khác (Nguyễn Khải, Chu
Văn) để thấy được những đóng góp của tiểu thuyết Vũ Huy Anh với văn học
Việt Nam đương đại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp thống kê, phân loại:
4.1.Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp thống kê, phân loại giúp cho việc tìm hiểu, phân loại các
kiểu nhân vật, mô hình cốt truyện khi nghiên cứu thế giới nghệ thuật tiểu

thuyết Vũ Huy Anh.
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp phân tích, tổng hợp giúp cho việc nghiên cứu, phân tích,
cắt nghĩa, lý giải các vấn đề, các chi tiết nghệ thuật... Từ đó khái quát lên đặc
điểm chung về hình thức nghệ thuật trong toàn bộ tiểu thuyết của nhà văn.
4.3. Phương pháp lịch sử
Phương pháp lịch sử xem xét đặc trưng nghệ thuật trong tiểu thuyết của
Vũ Huy Anh trong sự kế thừa của văn học truyền thống nhưng cũng có cách
tân tạo dấu ấn riêng của ông trên văn đàn.
4.4. Phương pháp loại hình

7


Phương pháp loại hình đi sâu vào tìm hiểu những đặc trưng của thể loại
tiểu thuyết nhằm khu biệt, so sánh nó với những thể loại văn xuôi khác để từ
đó nhận thấy những nét độc đáo của tiểu thuyết.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật tiểu thuyết của Vũ Huy Anh: Cảm hứng
nghệ thuật, Thế giới nhân vật, Các phương diện nghệ thuật tiêu biểu để khẳng
định vai trò, vị trí, tên tuổi, những đóng góp về sự cách tân nghệ thuật của Vũ
Huy Anh đối với văn học Việt nam thời kỳ Đổi mới về đề tài người công
giáo. Tử đó, có cái nhìn khái quát, đa diện về tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Cảm hứng nghệ thuật
Chương 2: Thế giới nhân vật
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật tiêu biểu


8


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG
TÁC CỦA VŨ HUY ANH
1.1. Khái niệm “cảm hứng nghệ thuật”
Từ trước đến nay, có nhiều cách hiểu về khái niệm “cảm hứng nghệ
thuật”, song hầu hết các nhận định đều khẳng định vai trò quan trọng của cảm
hứng nghệ thuật trong sáng tác. Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái
niệm về cảm hứng nghệ thuật là “trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm
xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự
đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác
phẩm” [17 ; tr.44 - 45]. Ở phương diện rộng hơn, cảm hứng nghệ thuật còn là
một hiện tượng độc đáo không lặp lại, thể hiện thế giới quan và phong cách
riêng của mỗi tác giả. Cảm hứng nghệ thuật không phải là tình cảm được
xướng lên thành một phát ngôn trong tác phẩm, nó là tình cảm mà người đọc
cảm nhận được từ tình huống, khung cảnh, chất liệu... từ không khí chung của
tác phẩm. Lý luận văn học coi cảm hứng nghệ thuật là một yếu tố của bản
thân nội dung nghệ thuât, của thái độ tư tưởng xúc cảm của nhà văn với thế
giới nghệ thuật được mô tả. Cảm hứng nghệ thuật còn thể hiện được thế giới
quan của nhà văn, bộc lộ được quan điểm của nhà văn trước mọi vấn đề của
cuộc sống.
Đối với tiểu thuyết, sự hiện diện của cảm hứng nghệ thuật được trải
theo chiều dài, bề rộng và chiều sâu “Tiểu thuyết biết đến tiềm thức sớm hơn
Freud, biết đến đấu tranh giai cấp sớm hơn Marx, nghiên cứu hiện tượng học
sớm hơn các nhà hiện tượng học” [47]. Cảm hứng của tiểu thuyết là cuộc
sống nhìn từ góc độ đời tư. Theo từng thời kỳ, cái nhìn đời tư được kết hợp
với chủ đề thế sự hoặc lịch sử. Tiểu thuyết còn miêu tả tư duy của nhân vật về
thế giới, phân tích tình cảm, chi tiết về cảnh vật... Do đó, cảm hứng nghệ


9


thut trong tiu thuyt khỏ a dng. Nu nh cm hng truyn ngn mang
sc gi, thỡ tiu thuyt li thng lý gii nm bt cuc sng. Trong tỡnh
hỡnh vn hc hin nay, cm hng li cng khng nh c vai trũ ca mỡnh.
Nh vn dựng cm hng ngh thut duy trỡ ham mun c, khỏm phỏ ca
c gi t u cho ti cui truyn, hoc xa hn na... Vỡ vy, dự thi k
no, tiu thuyt cng ũi hi cm hng phi di do, cú nh hng, th hin
ni dung t tng v cu trỳc ngh thut hi hũa, lý trớ v tỡnh cm sõu sc.
1.2. Nhng cm hng ngh thut c bn trong tiu thuyt ca V Huy Anh
1.2.1. ụi nột v tiu s v s nghip vn hc ca V Huy Anh
Nh vn cũn cú cỏc bỳt danh khỏc: Huy Anh, Trung V, sinh ngy 29
thỏng 3 nm 1944 ti th trn Phỏt Dim, huyn Kim Sn, tnh Ninh Bỡnh.
Quờ gc huyn V Bn, tnh Nam nh.
Học xong phổ thông, Vũ Huy Anh làm kế toán tr-ởng cho hợp tác xã
nông nghiệp ở quê. Trong thời gian này, ông bắt đầu viết bài cho Chính nghĩa
thuộc ủy ban liên lạc công giáo Việt Nam. t lâu sau, Vũ Huy Anh đi học lớp
nghiệp vụ báo chí dài hạn tại Tr-ờng Tuyên huấn Trung -ơng. Ra tr-ờng, ông
về làm phóng viên báo Chính nghĩa, rồi làm chuyên viên Ban tôn giáo Chính
phủ. Sau đó, chuyển sang làm tr-ởng ban biên tập, th- kí tòa soạn báo Thanh
tra. Hiện nay làm việc tại Thời báo Kinh tế Việt Nam.
Nhng tỏc phm chớnh ca ụng bao gm:
Mựa xuõn v (truyn di, NXB Ph n,1979); Cuc i bờn ngoi (tiu
thuyt, NXB Tỏc phm mi,1984, tỏi bn 1986); Trỏi cm vn a ng
(tiu thuyt, NXB Ph n, 1986); ng qua bin (tiu thuyt, NXB
Thanh niờn, 1988); Ai bn giỏo hong (truyn di t liu, NXB Cụng an Nhõn
dõn, 1988); Bn l b xa (tiu thuyt, NXB Lao ng, 1989); Mt th
Phatima (truyn di t liu, NXb Cụng an nhõn dõn, 1989); Tỡm li tỡnh yờu

(tiu thuyt, NXB Qung Ninh,1990); Sa ngó (tiu thuyt, NXB Thanh

10


niên,1992); Người đẹp trước nhà (tiểu thuyết, NXB Phụ nữ, 1992); Dang dở
(Bộ tiểu thuyết tuyển chọn, NXB Lao động, 2000); Dòng sông cứ chảy (tập
truyện, NXB Phụ nữ).
Năm 1984, ông được giải thưởng chính thức Hội Nhà văn Việt Nam về
tiểu thuyết cho tác phẩm Cuộc đời bên ngoài. Tiểu thuyết Trăm năm thoáng
chốc được tặng giải thưởng giải C cuộc thi tiểu thuyết 2002 – 2005 do Hội
Nhà văn Việt Nam tổ chức. Khởi đầu sự nghiệp sáng tác bằng những bài viết
in trên báo Chính nghĩa nhưng những tác phẩm khiến độc giả biết đến cái tên
Vũ Huy Anh lại là các tiểu thuyết xuất hiện khá đều đặn và liên tục từ đầu
thập niên 80 của thế kỷ XX cho đến nay. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình
công giáo lại sống trên một xứ đạo gốc, nên hầu hết các sáng tác của ông đều
xoay quanh một đối tượng mà ông hiểu khá kỹ đó là người công giáo.
Có thể nói, sau Nguyễn Khải với Xung đột, Cha và con và..., Thời gian
của người; sau Chu Văn với Bão biển, Vũ Huy Anh là nhà văn của thế hệ kế
tiếp chuyên tâm với đề tài tôn giáo. Hầu hết các tác phẩm của ông đều viết về
tôn giáo với những hiểu biết cặn kẽ, thấu đáo và chính xác. Những trang viết
của ông không chỉ cho thấy tâm huyết mà còn là sự đồng cảm với những giáo
dân, những con người luôn mong muốn sống tốt đời, đẹp đạo, trải qua bao
biến thiên của thời cuộc vẫn đồng hành cùng dân tộc. Trong tư duy nghệ thuật
của mình, Vũ Huy Anh luôn đau đáu một nỗi niềm: phản ánh và lý giải sự tồn
tại và phát triển của công giáo trong lòng dân tộc. Từ tiểu thuyết Cuộc đời bên
ngoài, Đường trở về, Dang dở, Trăm ngăm thoáng chốc đến Cách trở âm
dương, ngòi bút của Vũ Huy Anh đều hướng tới cuộc sống đích thực của mỗi
con người trải qua một vòng đời với những gấp khúc, éo le, với những đau
thương mất mát để khỏa lấp và loại bỏ những hiểu lầm, cách biệt, những

cuồng tín vô lối, trở về với trạng thái an nhiên của con người trước đời sống
và tín ngưỡng.

11


Về nghiệp văn, Vũ Huy Anh cho rằng: Văn chương cần đến sự rèn
luyện và tinh thông của nghề nghiệp nhưng lại chịu sự dìu dắt của cảm hứng
và được chi phối bởi thiên bẩm, nên văn chương như là một sự giải tỏa ẩn ức,
một thiên hướng, một niềm đam mê nghệ thuật hơn là một nghề sinh nhai. Có
điều văn chương đúng là văn chương chưa dễ gì được số đông tìm đọc với
những gì viết ra theo thị hiếu. Tuy vậy là một nhà văn thì phải giữ lấy cái tinh
hoa của Nghiệp... văn trong quan niệm của ông là cái Tình của người viết và
cái Đẹp của lời văn.
Xuất phát từ quan niệm văn chương nghiêm túc và chân chính ấy, Vũ
Huy Anh đã truyền đến người đọc khá nhiều nguồn cảm hứng, trong đó tiêu
biểu là ba nguồn cảm hứng chính: cảm hứng bi kịch, cảm hứng ngợi ca xen
lẫn phê phán và cảm hứng khám phá con người bản năng. Đây là những cảm
hứng cơ bản của văn xuôi sau 1975 và đặc biệt là văn học thời kỳ Đổi mới. Đi
vào tìm hiểu những cảm hứng này sẽ giúp người đọc thấy rõ hơn phong cách
nghệ thuật cũng như hiểu thêm về nhà văn giàu tâm huyết này.
1.2.2. Những cảm hứng nghệ thuật cơ bản
1.2.2.1. Cảm hứng bi kịch
Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, cả dân tộc ta đồng lòng sẵn
sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc. Trong bom đạn hiểm nguy, tinh thần lạc
quan chiến đấu, quyết tâm đánh giặc vẫn tỏa sáng rực rỡ. Nếu như văn học
trước 1975 chủ yếu đi sâu vào cảm hứng ngợi ca thì sau chiến tranh, sự thay
đổi của hiện thực đã dẫn đến sự thay đổi diện mạo của đời sống văn học.
Những góc khuất, những khoảng tối của đời sống trước đây hầu như không
được văn học chú ý hoặc giữ thái độ dè dặt giờ đã được phản ánh một cách tự

nhiên, chân thực. Hiện thực đời sống con người với những tâm tư, khát vọng,
những bi kịch riêng tư chồng chất, những trào lộng, giễu nhại bi hài được các
cây bút tiểu thuyết khám phá đến tận cùng, đẩy tác phẩm chạm đến một chiều

12


sâu mới. Từ rất sớm, trong bài Viết về chiến tranh (1978), nhà văn Nguyễn
Minh Châu đã đặt ra câu hỏi cho hướng đi của tiểu thuyết chiến tranh sau thời
chiến. Khi “tất cả những vấn đề quy luật của chiến tranh đã phát triển trọn
vẹn, những số phận và tính cách nhân vật cũng đã phơi bày trọn vẹn”, khi
trong hàng chục cuốn hồi kí của các tướng lĩnh “có rất nhiều sự kiện, nhiều
bối cảnh lịch sử được kể lại một cách hết sức cụ thể”, “tiểu thuyết viết về
chiến tranh sẽ tìm trong lĩnh vực nào để mình có một chỗ đứng không trùng
lặp với chỗ đứng của hồi kí chiến tranh?”. Sự lựa chọn duy nhất là “phải viết
về con người”. Con người với “tất cả những mặt tính cách đa dạng phải phơi
bày trong đời sống thực” mà đã nhiều thập kỉ qua “tạm thời giấu mình trên
trang sách”. Tiểu thuyết chiến tranh không thể để các nhân vật bị sự kiện lấn
át, “chỉ đóng vai trò làm đường dây để xâu các sự kiện lại với nhau”. Nhìn lại
quá khứ đã qua, khoảng cách thời gian đã đưa lại cho người cầm bút những
suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc về số phận con người ở khía cạnh mà trước
đây luôn bị làm mờ đi, nhạt đi trước số phận dân tộc: khía cạnh bi kịch cá
nhân.
Cảm hứng bi kịch là cội nguồn cho sự xuất hiện của một loại nhân vật
mang diện mạo tinh thần hoàn toàn mới trong tiểu thuyết chiến tranh sau
1975, nhất là sau 1986 nhờ nỗ lực đổi mới và dân chủ hóa đời sống văn hóa
văn nghệ.
Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết hậu chiến có thể được đánh dấu từ
Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu, một hiện tượng nổi bật của văn học Việt
Nam bấy giờ. Tiếp sau đó, cảm hứng bi kịch vẫn được tập trung thể hiện sâu

đậm hơn cả trong bộ phận tiểu thuyết hậu chiến. Cắt nghĩa, lí giải, nhận thức
lại hiện thực bằng cảm hứng bi kịch, tiểu thuyết hậu chiến đã thực sự đem lại
cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc. Với những tác phẩm tiêu biểu như
Thời xa vắng (Lê Lựu), Mảnh đất tình yêu (Nguyễn Minh Châu), Chim én bay

13


(Nguyễn Trí Huân), Bến không chồng (Dương Hướng), Nỗi buồn chiến tranh
(Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai)… sự xuất hiện của kiểu nhân vật mới
trong tiểu thuyết chiến tranh – con người suy tư, con người bi kịch là dấu hiệu
quan trọng bước đầu khẳng định sự đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết và
những dấu hiệu xác lập lộ trình mới của văn học Việt Nam hiện đại.
1.2.2.1.1. Bi kịch cá nhân
Nếu như trước 1975, văn học đề cao và chủ yếu đi sâu vào vẻ đẹp lý
tưởng của con người thì sau 1975 và đặc biệt là sau 1986, các tác giả đã
không hề né tránh những khoảng tối trong đời sống cá nhân. Khám phá tận
cùng tâm tư, tình cảm con người, nhiều bi kịch cá nhân được thể hiện một
cách chân thành và sâu sắc.
Hòa trong cảm hứng bi kịch của văn học thời kỳ này, tiểu thuyết Vũ
Huy Anh cũng xuất hiện khá nhiều bi kịch cá nhân. Phần lớn đó là bi kịch
tình yêu của những người phụ nữ có nhan sắc, có tài năng. Có khi trong một
tiểu thuyết lại xuất hiện khá nhiều bi kịch khiến người đọc không khỏi xót xa,
trăn trở.
Tiểu thuyết Cuộc đời bên ngoài viết về nông thôn công giáo những
năm 50, 60 là một tác phẩm chứa đựng nhiều bi kịch tình yêu, hôn nhân đau
đớn. Nhưng éo le thay, nạn nhân lại chính là những con người có phẩm chất
đạo đức cao đẹp, xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Có lẽ ám ảnh người đọc
nhất chính là số phận bi thương của chị giáo Gọn. Chị là người dạy kinh ở xứ
đạo Tâm Đức, một cô gái xinh đẹp và ngoan đạo. Thuở mới lớn, chị đã thầm

thương trộm nhớ một anh cán bộ Việt Minh về làng chị hoạt động. Đó là sự
rung động thật trong sáng, tự nhiên của người thiếu nữ. Ngày anh ra đi, chị vô
cùng buồn bã. Và tình yêu chớm nở ấy đã trở thành động lực thôi thúc chờ
đợi anh bao năm, chôn vùi đi tuổi thanh xuân của chị. Trong trái tim mãnh liệt
của cô thôn nữ, hình ảnh anh lúc nào cũng đau đáu, khắc khoải và chị luôn

14


mong đợi được hội ngộ cùng anh. Số phận dường như không nỡ chia cách họ.
Tưởng chừng như chẳng có niềm hạnh phúc nào hơn khi tình cờ, sau bao năm
đằng đẵng mong chờ, chị gặp lại người cán bộ Việt Minh mà trái tim mình đã
trao gửi hết yêu thương. Buồn thay, niềm vui ấy quá ngắn ngủi, chị phải giải
lời khấn mới có thể kết hôn với anh nhưng anh ấy không đồng ý cho chị làm
như vậy. Anh chị giận nhau, chị bỏ về nhà vì nghĩ rằng sự giận dỗi sẽ tăng
thêm gia vị cho tình yêu của hai người, sẽ chỉ làm anh càng thêm nhớ chị.
Nhưng thật éo le, từ đây, những ngã rẽ trong cuộc đời chị bắt đầu mở ra. Cuộc
đời chị bước sang những tháng ngày đau đớn nhất. Trên đường về chị bị bọn
lính tự vệ Đức Cha hãm hiếp, chị có thai và buộc phải chấp nhận lấy người
đàn ông già góa vợ, có con riêng. Chị bị ông chồng già cục cằn, thô lỗ hành
hạ. Sau khi mẹ mất, chị bế con ra đi nhưng rồi đứa bé ấy không may cũng
sớm lìa bỏ cõi đời. Và cuối cùng, chị nghe tin anh cán bộ Việt Minh – người
chị yêu thương đã hy sinh. Một chuỗi những biến cố đau thương liên tiếp xảy
đến với chị - một người phụ nữ đức hạnh và tội nghiệp. Còn những nỗi đau,
mất mát nào đắng cay hơn thế. Quả thực, người phụ nữ nhỏ bé, đáng thương
ấy đã phải chịu đựng những nỗi đau quá lớn của một đời người.
Đọc tiểu thuyết Cuộc đời bên ngoài, ta cũng hiểu thêm về hoàn cảnh và
con đường đến với cuộc sống tu hành của nhiều tu sĩ. Và trong số đó, không ít
người vì quá đau khổ ngoài đời mà tìm đến nhà dòng. Cùng với chị giáo Gọn,
người đọc cũng không khỏi day dứt trước hoàn cảnh của chị giáo Nhường.

Chị sống trong nhà thờ như một cái bóng vô hồn, có lẽ nếu không đi sâu tìm
hiểu quá khứ của chị thì không ít độc giả sẽ ác cảm cho rằng chị là người phụ
nữ khó tính. Chị tên thật là Tuyết và với chị quá khứ thực sự là một ám ảnh
chua xót, nặng nề. Chị đã trải qua những đau đớn trong tình yêu. Tất cả đã
biến chị thành một người khô khan, trầm lặng, sống đố kỵ và trong lòng đầy
sự tức tối. Tác giả không đi sâu vào cuộc tình buồn ấy mà chủ yếu phản ánh

15


đời sống nội tâm buồn tẻ của chị. Nỗi buồn của chị liên quan đến hai người
đàn ông: Còm điên - người thanh niên điên loạn vẫn thường đập cửa nhà xứ
và Quận Vàng – một kẻ đê tiện đã hãm hiếp chị. Tất cả đã trở thành nỗi ám
ảnh, là vết cứa in sâu vào trái tim chị không thể phai mờ.
Bước ra cuộc sống đời thường, chúng ta còn cám cảnh thương cho biết
bao hoàn cảnh bi kịch khác. Tiểu thuyết Dang dở ngay từ nhan đề đã gợi ra
một câu chuyện có kết thúc không trọn vẹn. Tác phẩm viết về cuộc sống nông
thôn một vùng công giáo miền Bắc sau giải phóng xây dựng chủ nghĩa xã hội
cho đến thời kỳ đầu Đổi mới. Cuộc đấu tranh không đơn giản giữa cái thiện
và cái ác, mà cái ác có khi lại nhân danh cái thiện, đội lốt tổ chức Đảng và
chính quyền để che giấu dã tâm của một kẻ bất lương. Cô Thảo trở thành nạn
nhân đáng thương của hoàn cảnh ấy. Tất nhiên là do cô không thắng nổi mình
và thắng hoàn cảnh, do hám danh không dám sống thật từng bước bị tha hóa
để kẻ xấu lợi dụng và điều khiển, đến khi thức tỉnh thì mọi sự đã muộn màng.
Thảo trải qua những mất mát, đau đớn liên tiếp. Ngày còn trẻ, cô đã bị
Khôi – cán bộ xã lợi dụng và cưỡng hiếp mà không dám chống lại. Đó thực
sự là một cú sốc đầu đời quá lớn với người con gái trẻ ấy. Nhưng đau đớn
thay, cô không được tố cáo hành vi nhơ bẩn của hắn, đổi lại cô còn phải quỵ
lụy, dựa vào hắn để được nâng đỡ trong quá trình phấn đấu công tác. Vì tinh
thần hãnh tiến mù quáng, đặt sự tiến bộ của mình lên trên hết, cô đã tự đánh

mất mối tình đầu với Điền – cũng là mối tình sâu nặng nhất đời mình không
chỉ một lần mà đến tận ba lần. Không đến được với người đàn ông mà mình
yêu thương nhất thì cuộc đời dường như cũng trêu người, chẳng để cô tìm
được bến đỗ hạnh phúc mới. Và hai lần trước khi diến ra đám cưới, cô lại tiếp
tục đánh mất những người đàn ông khác đến với mình: Mạnh và Khang. Sự
xuất hiện của Mạnh – chàng kỹ sư Hà Nội giống như một cơn mưa mùa hạ
đến tưới đẫm tâm hồn Thảo, làm trái tim cô tưng bừng sức sống. Lẽ ra cô có

16


thể tạo dựng cho mình một cuộc sống mới với chàng trai rộng lượng bao dung
này. Nhưng chính hành động xấu xa của cô khi bôi nhọ thanh danh của linh
mục Tiên đã khiến Mạnh không thể chấp nhận một người vợ độc ác, dối trá
như cô để rồi anh quyết định bỏ cô mà đi. Tuổi xuân của người con gái thoáng
chốc trôi qua vùn vụt, sau cái tang của mẹ, cô sống trong cảnh cô đơn của một
cô gái muộn chồng khi đã luống tuổi. Và lần này, số phận đã mang Khang –
một người đàn ông phục viên nghèo khổ nhưng hiền lành, tốt tính đến với cô.
Nhưng một lần nữa hạnh phúc đã lìa khỏi cuộc đời Thảo khi chỉ chừng một
tuần lễ nữa là đến đám cưới. Đau đớn hơn, người khiến hạnh phúc lìa tầm tay
chẳng ai khác chính là Thảo.
Thế rồi, số phận như mỉm cười với cô khi người đàn ông mà cô yêu
thương nhất cuộc đời là Điền tưởng chừng sẽ chẳng bao giờ gặp lại đã phục
viên về làng. Như vậy, cơ hội nối lại của hai người đã tới. Thảo đã vui mừng
biết bao nhiêu khi Điền sẵn sàng mở rộng trái tim mình đón nhận cô. Anh
muốn vun vén hạnh phúc cho hai người bằng một đám cưới. Thủ tục ly hôn
với Đào – cô vợ cũ của Điền quá rắc rồi cộng thêm sự kìm kẹp của Khôi
khiến Điền đành phải đưa ra phương án chờ đợi thêm hoặc cùng nhau đến
một miền đất mới lập gia đình. Thảo vốn là kẻ hãnh tiến, cô đã bất chấp tất cả,
hăng hái phấn đấu trong nhiều năm qua để được thuận lợi trên con đường

thăng tiến nên đã không nghe lời anh, và lại tiếp tục đổ lỗi, chê Điền để rồi tự
Thảo lại đánh mất đi hạnh phúc khó khăn lắm mới trở về với mình. Sự mù
quáng, ích kỷ đã lấn át, khiến trái tim cô trở nên lạnh lùng. Cô không dám hy
sinh, không dám đánh đổi cái sự nghiệp mà cô tưởng chừng rất oanh liệt ấy
của mình để bảo vệ tình yêu. Bi kịch ngày càng chua xót hơn khi tình cờ, lên
Hà Nội Thảo được tin Điền đang ở đó. Trái tim cô như được đánh thức, lòng
cô rạo rực niềm vui khi hình ảnh về một mái ấm, con cô được gặp lại cha tất
cả như đang hiện ra trước mắt. Nhưng hạnh phúc một lần nữa như trêu đùa

17


tàn nhẫn với Thảo khi chỉ sau một tháng, cô nhận được thư Huyền người bạn
sống cùng nhà trọ báo tin đã về chung sống với Điền. Nhận được lá thư xiết
bao vui sướng của Huyền, lòng cô đau điếng. Cả đời cô mải miết đi tìm hạnh
phúc nhưng tất cả chỉ như một ảo ảnh. Và nỗi đau nối tiếp nỗi đau, trên đường
từ Hà Nội về quê, đứa con – kết quả tình yêu của Thảo với Điền bị tai nạn
chết. Những nỗi đau đến liên tiếp dồn dập khiến người đàn bà đau khổ đó
phát điên. Cuộc đời cô đến đây có thể coi là vô nghĩa, trở về con số không:
không gia đình, không sự nghiệp sau bao năm phấn đấu.
Có thể nói, Thảo rơi vào một loạt bi kịch. Những người đàn ông cứ lần
lượt đi qua đời Thảo như những con thuyền tưởng chừng có thể cập bến
nhưng sóng gió lại cuốn họ đi mất bởi chính căn bệnh thành tích háo danh mù
quáng và cách cư xử quá đáng của Thảo.
Bên cạnh đó, người đọc còn bắt gặp một bi kịch khác trong Cách trở
âm dương. Đó là bi kịch của nhân vật chính xưng “tôi” tên là Tâm An. An và
Tuân là đôi bạn thân cùng làng, lớn lên đi học cùng nhau. Tình bạn trong
sáng, đẹp đẽ đã chắp cánh cho một tình yêu đang dần chớm nở. Cô cảm nhận
được tình cảm cảm của Tuân dành cho mình và thực lòng, từ sâu thẳm trái
tim, Thảo rất muốn đón nhận nó nhưng cô vẫn phải khước từ. Vì cô biết hoàn

cảnh của mình chẳng thể nào đến được với Tuân: cha cô bị quy kết phản cách
mạng và người chú của Tuân vẫn luôn thành kiến cho rằng chính bố Thảo đã
chỉ điểm gây ra cái chết của bố Tuân. Và còn nỗi đau nào hơn khi yêu mà
không thể đến đượcvới người mình yêu. Chính vì thế, An phải kìm nén lòng
mình, cố tình đưa Tuân và Thảo – người bạn học cùng làng đến với nhau.
Tình yêu lỡ làng nhưng con đường học hành mà bấy lâu nay cô hy vọng, phấn
đấu cũng đứt quãng. Khi thi lên cấp ba, vì gia đình bị quy kết là lý lịch không
trong sạch, cô phải chấm dứt con đường học hành mà bấy lâu theo đuổi.
Không còn lựa chọn, An phải nuốt nước mắt chấp nhận cuộc sống lao động

18


chân lấm tay bùn ở làng quê. Cô đã trải qua những tháng ngày buồn thảm vì
thất tình và tuyệt vọng. Tình yêu dang dở, học hành lỡ làng. Bao mơ ước, khát
vọng tuổi trẻ đều bị dập tắt. Đó thực sự là một cú sốc tinh thần lớn với cô:
“Đó là những tháng ngày mà tôi thất vọng tương lai, tắt nguội đi cả niềm
hứng khởi thanh xuân. Tôi vô cùng buồn bã và suy nghĩ nghĩ những điều già
trước tuổi” [3; tr.123]. Tình trạng sầu thảm liên miên ấy đã khiến cô nhiều
đêm không ngủ. Học xong, Tuân và Thảo lấy nhau. Nhân vật “tôi” cũng vội
vã nhận lời đến với Khôi – con ông Cựu Liên, ân nhân gia đình cô. Ở với
chồng một thời gian ngắn, chồng tòng quân. Con gái chưa đầy một năm thì
Khôi hy sinh. Hạnh phúc với Thảo quá ngắn ngủi.
Bi kịch tình yêu ấy không chỉ xảy đến với những người phụ nữ mà đọc
tiểu thuyết Cuộc đời bên ngoài, chúng ta cũng cảm thương cho số phận của
chàng trai tên Ninh - người đàn ông đã làm thay đổi cả cuộc đời Lành, đưa cô
từ một nữ tu sĩ sống gò bó, ép mình trong bốn bức tường lạnh lẽo ở nhà dòng
trở về cuộc sống đời thường của một người phụ nữ. Anh cũng trải qua một
đời vợ. Từ ngày vợ bỏ nhà theo nhân tình, anh trở nên lầm lì, ít nói. Buồn
quá, anh sinh ra thích thổi sáo. Cứ chiều xuống, xong công việc đồng áng là

anh lại lấy sao ra thổi. Tiếng sáo nghe sao buồn bã, cô đơn như chính nỗi lòng
của chàng trai trẻ không may mắn đường tình duyên.
Mỗi nhân vật có số phận, hoàn cảnh khác nhau nhưng họ đều là những
con người đáng thương, thiếu may mắn trong cuộc đời này. Ngoài ra, ta còn
bắt gặp nhiều hoàn cảnh bất hạnh khác: nhân vật chính trong Trăm năm
thoáng chốc là ông Sóng. Ông Sóng bị chặt cụt hết các ngón chân là kết quả
của một hành động tâm linh bí ẩn. Ông đã đi gần trọn thế kỷ 20 bằng đôi bàn
chân không có ngón. Ông chứng kiến trọn vẹn những biến động xảy ra ở xứ
đạo; cô gái không tên mang thai tự tử vì người tình phụ bạc và trở thành vợ
ông; bà Nhất bỏ cuộc sống tu hành khổ hạnh, chạy trốn xứ đạo theo người

19


tình; cậu bé Hòa – con út gã ăn mày, được cha chính xứ yêu thương nhận vào
nhà chung giúp việc rồi trở thành thầy cả; cô Đào làm đàn bà trước khi làm
dâu nhà ông Sóng, chung chạ bao nhiêu người đàn ông, lấy đến đời chồng thứ
năm đáng thương hơn đáng giận; gã Trương Rô thợ mổ thịt lợn bị lừa lấy
phải vợ hen, trở thành Đội trưởng đội tự vệ xứ đạo, chưa kịp bắn giết đánh
đập ai, vì nặng tình quê hương không di cư vào Nam, khi Cải cách ruộng đất
bị bắn sau lưng; lão Quản Mè bảy mươi năm lay lắt ở cõi đòi lấy vợ ít hơn lão
gần bốn mươi tuổi và lão bị chết vì đại bác... Mỗi con người một số phận, số
phận nào cũng bi thương, và Chúa không cứu giúp được họ.
1.2.2.1.2. Bi kịch cộng đồng
Bên cạnh những bi kịch cá nhân, mỗi người mỗi cảnh mà nhân vật phải
tự mình nếm trải và chịu đựng còn có những nỗi đau mà nạn nhân là cả tập
thể. Điều đó gây ra những bi kịch cộng đồng khiến người đọc không khỏi xót
xa, ngậm ngùi.
Trước hết, đó là thời kỳ bệnh thành tích mù quáng – một căn bệnh
chung một thời gây ra bao khốn khổ cho dân làng. Trong Dang dở với cái tính

khoác lác và kém hiểu biết, Khôi và Thảo đã cổ vũ, ủng hộ rầm rộ cho phong
trào vô lý “Đưa khoai nước lên ngôi, đưa khoai lang xuống ruộng”. Đó là sai
lầm chung của toàn huyện. Khoai lang vốn là thứ cây trồng ở đồng màu còn
làng Thảo ít đất màu, ruộng lại trũng, mưa một trận tát nước mấy buổi chưa
xong. Như vậy, xét về điều kiện hoàn cảnh đã khó có thể trồng được. Mặc dù
có một vài ý kiến phản đối nhưng vì phải tuân theo nguyên tắc thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên nên không ai phản đối ý kiến của
đồng chí Bí thư huyện ủy. Còn sai lầm tiếp theo thuộc về Khôi khi hắn ta
không hề hiểu biết nhưng lại nghĩ ra “sáng kiến” đưa khoai nước lên ngôi
đúng lúc tỉnh đang bí, không biết làm cách nào sản xuất đủ lương thực cho
dân ăn và làm nghĩa vụ với nhà nước liền bám luôn lấy sáng kiến phát triển

20


lương thực này. Nhưng tất cả chỉ là sự lừa dối. Được nghe Khôi quảng cáo
thứ khoai nước quý và ngon nhưng phái đoàn về lại chỉ được đi xem thứ
khoai nước trồng đại trà mà không hề được biết nó rất ngứa, chỉ để trồng nuôi
lợn. Còn thứ khoai nước ăn ngon, không ngứa mà các vị được thưởng thức kia
năng suất rất thấp. Tất cả đã được Khôi sắp xếp, lên kế hoạch kỹ lưỡng, đánh
lừa biết bao cán bộ cấp trên. Và cuối cùng, việc trồng khoai lang đã thật sự
thất bại, theo kế hoạch sau Tết âm lịch dỡ khoai lấy ruộng cấy lúa xuân nhưng
mãi đến gần Tết, các thửa ruộng khoai lang cuối cùng mới cấy xong, không
thể đào lên. Bao nhiêu công sức, tiền của bỏ ra đều lỡ dở. Vậy là để tránh việc
các đồng chí cấp ủy đương nhiệm khó lòng được bầu lại khóa sau, hậu quả là
cả một huyện bỏ hẳn đi một vụ lúa chiêm xuân không cấy, cốt giữ lấy cánh
đồng khoai lang nhưng đáng buồn phần lớn khoai lang đều không có củ. Nạn
nhân đau khổ nhất của phong trào ngớ ngẩn này là cả làng đói dài, phải ăn
khoai nước trừ bữa. Và người mẹ già đáng thương của Thảo lại ốm đúng lúc
gia cảnh túng thiếu rồi qua đời. Đặt thứ thành tích viển vông, hão huyền ấy

lên trên hết, những cán bộ lãnh đạo đã thờ ơ, vô cảm trước hậu quả mà người
dân cơ cực phải gánh chịu.
Không chỉ vậy, một bi kịch nổi bật và được Vũ Huy Anh dành nhiều
tâm huyết đó là bi kịch trong nhận thức của người công giáo. Tuy vậy, điều
đáng nói ở đây là: khác với những tác phẩm viết về đề tài người công giáo
trước đó, nhà văn không đi sâu vào cuộc đấu tranh xung đột giữa tôn giáo và
cách mạng mà ông đi sâu vào đời sống của người công giáo để thấy được
những uẩn khúc, những éo le của họ, thấy được những bản tính tốt đẹp của
người công giáo trong quá trình dần dần hòa nhập, tham gia cách mạng. Do
hạn chế nhận thức của những con người lầm lũi quanh năm sau lũy tre làng và
sự tiêm nhiễm nặng nề của thế lực phản động, đã có một thời họ hiểu lầm về
cộng sản, về cách mạng. Cách hiểu của họ vừa ngô nghê, tội nghiệp: “ở

21


những cuộc trong chuyện bâng quơ tại quán nước hay đầu bờ ruộng, người
này bảo Việt Minh với cộng sản vô thần là một, người khác lại bảo không.
Việt Minh là ai, là gì, dân công giáo chưa biết, chưa hiểu, nên chưa thể có thái
độ gì, chứ cộng sản vô thần, như những lời đồn thổi là chống tôn giáo, là cấm
đạo, là cộng vợ, cộng chồng, sống lẫn lộn đực, cái như loài cầm thú, thì
những người đã có đức tín đạo Chúa không thể nào chấp nhận được” [4 ;
tr.87]. Với cách hiểu sai lầm như vậy, một bộ phận công giáo đã phản đối,
chống phá cách mạng gây nên những hậu quả đau thương cho cả hai phía.
Làng quê xứ đạo cũng vì vậy mà trở nên tan đàn xẻ nghé, nhà thì mỗi anh em
theo một phe, làng cũng lắm người ở hai chiến tuyến cầm súng bắn lại nhau.
Sự hiểu lầm tai hại ấy cũng đã được nói đến trong Cách trở âm dương
“Không cần phải để tâm xem mục đích chính trị của Việt Minh là gì, chỉ cần
biết họ vô thần là đủ để mình không thể theo họ. Bởi theo họ là mất đạo” [3 ;
tr.17]. Cũng chính vì lý do ấy, dân công giáo đã tổ chức lực lượng tự vệ

chống lại Việt Minh dẫn đến bao hậu quả đau lòng như: gia đình ông Trương
Cự có ba người con thì một người theo Việt Minh, một người theo Pháp. Để
rồi, người cha đau đớn nhìn cảnh anh em tàn sát lẫn nhau. Rồi sau này, sự
buồn khổ đã biến ông trở thành một kẻ say xỉn, vô tình làm cháy nhà. Hậu
quả, ông bị bỏng quá nặng không thể cứu chữa. Ngày đưa tang ông, hai người
con trai ở hai phe khác nhau cũng không có mặt mà người nhà không ai dám
báo vì sợ xảy ra xung khắc. Còn gì đau đớn hơn cảnh nhà tan nát đến mức
như vậy.
Bức tranh xã hội rõ nét nhất là những biến động khi Pháp nhảy dù Phát
Diệm, đồng bào công giáo di cư vào Nam do sự xúi bẩy của các thế lực phản
động và đỉnh cao là cuộc Cải cách ruộng đất ở xứ đạo. Đọc Trăm năm thoáng
chốc, ta hình dung được sự nhốn nháo, hoảng loạn, hoang mang của một xứ
đạo bị cơn bão thời thế vần vò: “ Lẫn vào trong đám loạn quân có một số linh

22


mục, các nữ tu sĩ và con chiên bổn đạo ai có điều kiện di cư vào Nam thì đi, ai
ở lại thì dọc kinh cầu nguyện sự chở che của Chúa và Đức Mẹ”. Và “Làng
xóm người ta bỏ đi cứ quang lâng, trống vắng...” [4 ; tr.151]. Chính trong thời
điểm đó sự phân hóa, xung đột ngay trong giáo dân lên đến đỉnh điểm. Cha
Lê Hữu Từ bươn bải tìm mọi cách giữ Đội tự vệ công giáo và vãn hồi xứ đạo
tự trị Phát Diệm không thành. Cha Nguyễn Thế Vịnh bỏ nhà thờ lên vùng tự
do tham gia phong trào công giáo chống Pháp. Ông Sóng day dứt, do dự, chần
chừ chẳng biết nên “theo Chúa di cư vào Nam hay ở lại xứ đạo quê hương” .
Cậu con út ông Sóng học trường sỹ quan Đà Lạt, trong khi người xứ Tâm
Đức bỏ đi vào Nam thì cậu lại mò về làng. Con người trong sự biến động dồn
dập của thời thế như cây non gặp bão, chẳng biết bấu víu, nương tựa vào đâu.
Họ dường như mất hết khả năng tự vệ, phản kháng. Bằng tấm lòng cảm thông
sâu sắc với người công giáo, nhà văn Vũ Huy Anh đã diễn tả chân thành

những suy nghĩ, uẩn khúc khó giãi bày của họ. Dù nhận thức sai lầm dẫn đến
hậu quả đau thương nhưng xét cho cùng, họ cũng là những nạn nhân tội
nghiệp của bi kịch tập thể này.
1.2.2.2. Cảm hứng ngợi ca đan xen cảm hứng phê phán
Sự đan xen cảm hứng trái ngược nhau đã tạo ra những mảng màu đa
dạng trong tác phẩm của Vũ Huy Anh. Hiện thực cuộc sống đa chiều, đời
sống con người đa dạng, bản thân con người cũng tồn tại những mặt đối lập:
xáu, tốt, cao thượng và hẹp hòi... và đặc biệt sự đổi mới trong văn học đã giúp
các nhà văn mạnh dạn đi sâu vào những khoảng tối đó để tái hiện một cách
đầy đủ hiện thực đời sống cũng như đời sống nội tâm sâu thẳm của con người.
Bên cạnh cảm hứng bi kịch, đọc tiểu thuyết của Vũ Huy Anh, chúng ta
còn cảm nhận được ở đó hai nguồn cảm hứng mang tính đối lập nhưng lại
song hành cùng nhau: ngợi ca xen lẫn phê phán.

23


Cảm hứng trong văn học bao đời nay vẫn xuất phát từ cái tình. Nó bao
gồm nhiều thứ tình cảm khác nhau, và còn gì đẹp hơn thứ tình cảm thiêng
liêng mà hễ ai sinh ra trên cuộc đời này cũng đều mải miết đi tìm và hồi hộp
đón đợi: tình yêu đôi lứa. Đọc tác phẩm của nhà văn, có khi người đọc phải
nghẹn ngào rơi nước mắt trước những bi kịch đau đớn của tình yêu thì chúng
ta lại có những giây phút xúc động trước những tình yêu cao thượng đáng
được trân trọng, ngợi ca.
Có lẽ đầu tiên phải nhắc đến tình yêu vô bờ bến mà cả đời ông Sóng
dành cho vợ trong tiểu thuyết Trăm năm thoáng chốc. Số phận không may
mắn khi sinh ra ông là một đứa trẻ tật nguyền bàn chân không ngón. Tình cờ
gặp cô gái đang mang thai tự tử vì bị người tình phụ bạc, ông đã cứu vớt và
cưu mang cô gái. Bằng tấm lòng cảm thông sâu sắc, ông thương xót cho thân
phận người con gái xinh đẹp, hiền dịu bị phản bội – một tình thương chân

thành vô điều kiện: “Cảm thông, thương xót, muốn giúp đỡ, sẻ chia, lòng
Sóng trào lên từng đợt, rồi xen vào đó là một sự xúc động, một tình cảm mới
lại, như kết tụ lại của bao nỗi khát khao yêu thương người khác giới, như một
sự vỡ bờ, xẻ đập sau bao nhiêu ức chế, tự kìm nén bấy nay, tất cả bóp nghẹt
lấy lồng ngực Sóng, cồn cào quặn thắt, ào ạt tràn dâng trong lòng Sóng” [4 ;
tr.69]. Không sợ dân làng dị nghị, sẵn sàng chấp nhận cả đứa con của người
đàn ông bội bạc kia, anh thanh niên Sóng vẫn vui vẻ lấy cô gái làm vợ.
Dường như người đọc cảm nhận được một thứ tình yêu mãnh liệt, tràn trề
chưa bao giờ cạn mà ông dành cho người phụ nữ ấy. Nó dung dị, mộc mạc mà
chân thành, đáng quý biết bao! Cả cuộc đời, ông luôn tâm lý và săn sóc hết
lòng để vợ không phải buồn phiền, vất vả. Ông chấp nhận lao động cực khổ vì
vợ vì con. Anh Bát – con trai riêng của vợ ông cũng lo cưới xin chu tất. Thật
hiếm có người chồng, người cha nào lại đối xử toàn vẹn được như ông. Chẳng

24


×