Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Công bằng xã hội trong phân phối ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.4 KB, 85 trang )

1
Viện khoa học x hội Việt Nam

Đại học quốc gia Hà Nội
Trờng Đại học KHoa học
X Hội và nhân văn

Viện triết học

Trần Thị Hằng

Công bằng x hội trong phân phối
ở nớc ta hiện nay

luận văn thạc sĩ triết học

H Ni - 2009


2
Viện khoa học x hội Việt Nam

Đại học quốc gia Hà Nội
Trờng Đại học KHoa học
X Hội và nhân văn

Viện triết học

Trần Thị Hằng

Công bằng x hội trong phân phối


ở nớc ta hiện nay
Chuyên ngành: Triết học
Mã số
: 60 22 80

luận văn thạc sĩ triết học

Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà.

H Ni 2009


1

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô
toàn thế giới. Sự lan tỏa và tác động của quá trình đó đã tạo ra những thay đổi
lớn trong đời sống xã hội, tạo cơ hội cho tất cả các nớc cùng phát triển, đồng
thời cũng đặt ra những thách thức cho tất cả các nớc nh đói nghèo, thất
nghiệp, dịch bệnh, ô nhiễm môi trờng, làm ăn phi pháp, khoảng cách chênh
lệnh giàu nghèo giữa các nớc Trong bối cảnh đó, vấn đề công bằng xã hội
càng trở nên bức thiết.
Công bằng xã hội là một trong những mục tiêu xuyên suốt của sự
nghiệp cách mạng mà Đảng ta và nhân dân ta đã tiến hành gần 80 năm qua,
đồng thời là một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nớc.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trớc đổi mới với mục đích
xoá bỏ bất công, chúng ta chủ trơng thiết lập chế độ công hữu về t liệu sản
xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Nhng nguyên tắc phân

phối theo lao động cha đợc thực hiện trên thực tế lại bị biến thành phân phối
bình quân, hơn nữa nếu có thực hiện thì cũng cha phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội thực tế của nớc ta lúc đó.
Vì vậy, từ khi tiến hành đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa, chúng
ta chủ trơng thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối (phân phối theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn, phân phối thông
qua phúc lợi xã hội).
Nhờ sự đổi mới đó nớc ta đã đạt đợc những thành tựu quan trọng:
định hớng xã hội chủ nghĩa đợc giữ vững, kinh tế tăng trởng liên tục với
tốc độ cao, xã hội ổn định, đời sống nhân dân đợc cải thiện, hầu hết mọi


2

ngời đều hăng hái đóng góp công sức và vốn để xây dựng đất nớc. Tuy
nhiên, trong xã hội lại nảy sinh nhiều hiện tợng tiêu cực nh tham nhũng,
buôn lậu, trốn thuế, những hành vi vi phạm pháp luật khác. Bên cạnh đó, sự
phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng gia tăng. Thực tế đó đặt ra các
vấn đề: Phát triển nền kinh tế thị trờng và thực hiện nhiều hình thức phân
phối có đi chệch hớng chủ nghĩa xã hội hay không? Phân phối nh thế nào là
công bằng?
Đề tài Công bằng xã hội trong phân phối ở nớc ta hiện nay liên quan
đến các vấn đề trên, vì thế đó là đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công bằng xã hội là một trong những chủ đề đợc nhiều nhà lý luận và
hoạt động thực tiễn quan tâm. ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu
vấn đề công bằng xã hội và phân phối thu nhập. Trong những năm qua, đã có
các công trình nghiên cứu nh: Một số vấn đề về công bằng xã hội ở nớc ta
hiện nay (do Hoàng Chí Bảo chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,

1993); Động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội (do Lê Hữu Tầng chủ
biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997); Tăng trởng kinh tế và công bằng
xã hội ở một số nớc Châu á và Việt Nam (do Lê Bộ Lĩnh chủ biên, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội
(của Nguyễn Minh Hoàn - Luận án tiến sỹ, 2005); Phân phối trong nền kinh
tế thị trờng (của Mai Ngọc Cờng - Đỗ Đức Bình, Nxb Thống kê, Hà Nội,
1994); Lý luận chung về phân phối của chủ nghĩa xã hội (của Lý Bân, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999); Nguyên tắc phân phối vì mục tiêu công
bằng xã hội ở nớc ta hiện nay (của Nguyễn Ngọc Hà, Tạp chí Triết học, số
8, 12-2002); Vai trò của Nhà nớc trong phân phối thu nhập ở nớc ta hiện
nay (do Mai Hữu Thực chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004).
Tại Hội thảo quốc tế về vấn đề công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và
đoàn kết xã hội đợc tổ chức năm 2007 tại Viện Khoa học xã hội Việt Nam


3

đã có nhiều bài nghiên cứu về công bằng xã hội dới nhiều góc độ khác nhau
nh khái niệm công bằng xã hội, tiêu chí của sự công bằng, quan điểm chủ
nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội, công bằng xã hội trong điều kiện kinh
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, thực hiện
công bằng xã hội về giáo dục
Gần đây, đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu đề cập một cách sâu sắc
về vấn đề thực hiện công bằng xã hội ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay nh:
- Công bằng xã hội, tránh nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam của tác giả Trần Đức Cờng (Tạp chí Triết học,
số 1 tháng 1/2008). Trong bài viết này, tác giả đã đa ra những đánh giá khái
quát về thành tựu và hạn chế trong thực hiện công bằng xã hội, trách nhiệm xã
hội và đoàn kết xã hội ở Việt Nam trớc và trong những năm đổi mới đất
nớc; đồng thời, gợi mở những vấn đề cần thảo luận để việc thực thi công

bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội không chỉ là một mục tiêu
phấn đấu, mà còn là một động lực mạnh mẽ để phát triển đất nớc và đảm bảo
cho sự phát triển của Việt Nam là một sự phát triển bền vững.
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công
bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay của tác giả Lê Hữu Tầng (Tạp chí Triết
học, số 1 tháng 1/2008). Trong bài viết này, tác giả đã đa ra và luận giải một
số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở
Việt Nam hiện nay. Những vấn đề đó là: 1. Khái niệm công bằng xã hội,
những điểm tơng đồng và khác biệt giữa nó và khái niệm bình đẳng xã hội;
2. Công bằng xã hội theo chiều dọc và công bằng xã hội theo chiều ngang; 3.
Công bằng về cơ hội và bình đẳng về cơ hội; vai trò của trình độ phát triển
kinh tế trong việc thực hiện công bằng xã hội; 4. Phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế; 5. Phân phối theo cống hiến cho xã hội; 6. Công
bằng xã hội và tăng trởng kinh tế; 7. Vấn đề thực hiện công bằng xã hội và
bình đẳng xã hội.


4

- Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trờng và kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa của tác giả Phạm Xuân Nam (Tạp chí
Triết học, số 2 tháng 2/2008). Trong bài viết này, tác giả đa ra và luận giải:
1. Việc giải quyết mối quan hệ giữa thúc đẩy tăng trởng kinh tế với thực hiện
công bằng xã hội ở một số mô hình kinh tế tiêu biểu trên thế giới, nh mô
hình kinh tế thị trờng tự do, mô hình kinh tế thị trờng xã hội, mô hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung phi thị trờng; 2. Những thành tựu và những vấn đề
đặt ra trong việc kết hợp tăng trởng kinh tế với công bằng xã hội trong nền
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hơn 20 năm đổi
mới; cụ thể hóa quan điểm và đề xuất những giải pháp về thực hiện công bằng
xã hội trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

trong những năm tiếp theo.
- Bảo đảm công bằng xã hội vì sự phát triển bền vững của tác giả
Nguyễn Ngọc Hà (Tạp chí Triết học, số 2 tháng 2/2009). Trong bài viết này,
tác giả đã phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam coi công bằng
xã hội là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Để có đợc công bằng
xã hội trong điều kiện kinh tế thị trờng, cần phải xác định và thực hiện đúng
nguyên tắc phân phối phù hợp nh Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đề ra. Để phát huy vai trò động lực của công bằng xã hội, theo tác giả, cần
khắc phục những thiếu sót trong việc thực hiện công bằng xã hội hiện đang
còn tồn tại. Công tác lý luận cần hớng vào việc nghiên cứu và giải quyết
nhiệm vụ đó. Và một số công trình nghiên cứu khác.
Những công trình nghiên cứu trên đã góp phần quan trọng làm rõ nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn về công bằng xã hội và phân phối thu nhập ở nớc
ta. Tuy nhiên, phân phối nh thế nào để đảm bảo công bằng xã hội trong điều
kiện hiện nay, giải pháp gì để đẩy lùi thiếu sót trong phân phối đảm bảo công
bằng xã hội? Đó là những vấn đề liên quan đến công bằng xã hội trong phân
phối còn có những ý kiến khác nhau, cần đợc làm rõ hơn.


5

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
+ Mục đích của luận văn là luận chứng sự cần thiết phải tiếp tục quan
tâm giải quyết vấn đề đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối ở nớc ta
hiện nay.
+ Để đạt đợc mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Trình bày khái lợc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về công bằng xã hội trong phân phối.
- Phân tích thực trạng của việc thực hiện công bằng trong phân phối ở

nớc ta hiện nay, nguyên nhân và một số giải pháp khắc phục thiếu sót trong
phân phối.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là Chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công bằng xã hội trong
phân phối.
Phơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phơng pháp phân tích tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu đã có.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ quan điểm của Đảng ta về thực hiện nhiều hình thức
phân phối trong giai đoạn hiện nay là phù hợp với nền kinh tế thị trờng, phù
hợp với mục tiêu công bằng xã hội.
- Góp phần làm rõ thực trạng của việc thực hiện công bằng trong phân
phối ở nớc ta hiện nay.
6. ý nghĩa luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ngời làm công
tác giảng dạy, nghiên cứu về vấn đề công bằng xã hội trong phân phối.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 2 chơng và 5 tiết.


6

Chơng 1
Quan điểm của chủ nghĩa mác - lênin, của Hồ chí
Minh và Đảng cộng sản việt nam về công bằng x
hội trong phân phối
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về công bằng xã hội trong
phân phối
Trong các thời kỳ khác nhau của lịch sử nhân loại, vấn đề công bằng

xã hội luôn đợc quan tâm ở cả phơng Tây cũng nh phơng Đông với nhiều
cách giải thích khác nhau. Dù cách giải thích có khác nhau nhng công bằng
xã hội nhìn chung đợc coi là một trong những khát vọng chân chính của con
ngời, là một mục tiêu đấu tranh xuyên suốt lịch sử phát triển nhân loại kể từ
khi xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Vấn đề công bằng xã hội đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử. Ngay từ
thời cổ đại đã có nhiều nhà triết học đề cập công bằng xã hội. Trong hai tác
phẩm Nhà nớc và Luật lệ, Platôn khẳng định rằng không thể có sự bình
đẳng giữa những tầng lớp ngời khác nhau trong xã hội, bản thân nhà nớc
xuất hiện từ sự đa dạng về nhu cầu con ngời, do sự đa dạng về nhu cầu ấy
nên xã hội cần duy trì các hạng ngời khác nhau, cần thực hiện các dạng phân
công lao động khác nhau để thỏa mãn các nhu cầu của xã hội và do đó không
thể có sự bình đẳng giữa họ. Ông cho rằng, sự bình đẳng giữa những ngời
không bình đẳng là tệ xấu chủ yếu của nền dân chủ, xã hội không có sự bình
đẳng nhng lại có sự công bằng bởi lẽ công bằng là ở chỗ mỗi hạng ngời dù
ở địa vị xã hội nào cũng có thể làm hết trách nhiệm của mình, biết sống đúng
với tầng lớp của mình và phải biết thân phận mình [85; tr.57].
Tơng tự nh vậy, Arixtốt quan niệm rằng, công bằng là sự bình đẳng
giữa ngời với ngời có cùng địa vị xã hội, còn sự bất bình đẳng giữa ngời
với ngời không cùng địa vị là công bằng.


7

Các nhà xã hội chủ nghĩa không tởng Anh và Pháp cuối thế kỷ 18 đầu
thế kỷ 19 (nh: Xanhximông, Phurie, Ô - oen) có cách tiếp cận mới về công
bằng xã hội. Các ông vạch trần sự bất công của chủ nghĩa t bản. Theo các
ông, chế độ t hữu về t liệu sản xuất chính là nguyên nhân gây ra mọi sự bất
công trong xã hội; giai cấp t sản ngày càng trở lên giàu có, chiếm hữu nhiều
của cải vật chất của xã hội; còn sự nghèo khổ tập trung về phía giai cấp vô

sản, những ngời không có quyền sở hữu của cải vật chất của xã hội; để xóa
bỏ tình trạng bất bình đẳng trong xã hội phải xây dựng một xã hội mới khác
với xã hội t bản chủ nghĩa; trong xã hội này, mọi ngời đều bình đẳng, mọi
đặc quyền đặc lợi trong xã hội đều bị xóa bỏ. Nhng làm thế nào thay thế chủ
nghĩa t bản bằng một xã hội mới mang lại quyền bình đẳng cho mọi ngời?
Những nhà xã hội chủ nghĩa không tởng đã không tìm ra đợc giải pháp thực
tế cho vấn đề này.
Trên cơ sở kế thừa những quan điểm trớc đó về công bằng xã hội, Chủ
nghĩa Mác - Lênin đã đa ra quan niệm sâu sắc hơn về công bằng xã hội.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin công bằng xã hội là quan hệ giữa con
ngời với con ngời hình thành trong quá trình con ngời sinh sống; quan hệ
đó không phải do ý muốn chủ quan của con ngời hay một lực lợng thần
thánh siêu nhiên nào sinh ra; công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử; không
có sự công bằng xã hội chung cho mọi xã hội.
Lợi ích của con ngời trong xã hội biểu hiện trên nhiều lĩnh vực nh lợi
ích về kinh tế, lợi ích về chính trị, lợi ích về văn hóa, lợi ích về xã hội; trong
đó lợi ích về kinh tế là cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định đến lợi ích trên các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Vì vậy, để giải quyết vấn đề công
bằng xã hội, trớc hết phải giải quyết vấn đề công bằng xã hội trên lĩnh vực
kinh tế tức là công bằng xã hội trong lĩnh vực phân phối của cải vật chất.
Nghiên cứu nền sản xuất t bản chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin vạch rõ cơ sở khách quan của sự bất công trên lĩnh vực kinh tế trong
chủ nghĩa t bản chính là chế độ sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa về t liệu


8

sản xuất. Chế độ sở hữu đó quyết định chế độ phân phối trong chủ nghĩa t
bản, làm cho của cải ngày càng tập trung vào tay giai cấp t sản, còn sự bần
cùng ngày càng tập trung về phía giai cấp vô sản.
Công bằng xã hội thể hiện trớc hết ở công bằng trong phân phối. Lý

luận phân phối đảm bảo công bằng xã hội là một trong những nội dung quan
trọng trong học thuyết Mác - Lênin. Trong nền sản xuất t bản chủ nghĩa,
quan hệ trao đổi ngang giá khi mua và bán sức lao động đợc nhà t bản coi là
công bằng. Nhng C.Mác chỉ ra rằng hàng hóa sức lao động là một loại hàng
hóa đặc biệt vì việc sử dụng hàng hóa sức lao động sẽ tạo ra một lợng giá trị
lớn hơn so với giá trị bản thân nó, ngời công nhân chỉ đợc nhận tiền công
của lao động còn phần giá trị dôi ra do ngời công nhân tạo ra không đợc
trả cho ngời công nhân mà trở thành lợi nhuận của nhà t bản; quan hệ trao
đổi ngang giá đó vì thế là không công bằng. Khi nói về bất công trong chế độ
phân phối t bản chủ nghĩa Ăngghen viết: Công nhân bỏ ra nhiều, nhà t bản
chi ra ít [51; tr.366]. Nguyên nhân gây ra sự bất công bằng trong phân phối
dới chủ nghĩa t bản là do chế độ t hữu về t liệu sản xuất sinh ra. Để xây
dựng một chế độ phân phối đảm bảo công bằng xã hội thì phải làm cho mọi
ngời bình đẳng trong quan hệ sở hữu, làm cho mọi ngời ngang nhau về địa
vị trong quan hệ đối với t liệu sản xuất, tức là phải xóa bỏ chế độ t hữu và
thiết lập công hữu. Khi thiết lập chế độ công hữu về t liệu sản xuất thì
nguyên tắc phân phối theo lao động đợc thực hiện.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội trong phân
phối đợc C.Mác chủ yếu trình bày trong tác phẩm Phê phán cơng lĩnh Gô
ta. Trong tác phẩm đó khi phê phán quan điểm mơ hồ của phái Lát-xan cho
rằng Thu nhập do lao động đem lại thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã
hội một cách không bị cắt xén, theo những quyền ngang nhau, Phân phối
một cách công bằng thu nhập của lao động, C.Mác đặt câu hỏi: Thu nhập
của lao động là cái gì? Đó là sản phẩm của lao động hay là giá trị của sản
phẩm đó? Và nếu là giá trị của sản phẩm thì đó là toàn bộ giá trị của sản phẩm


9

hay chỉ là một phần giá trị mà lao động đem thêm vào giá trị của t liệu sản

xuất đã tiêu dùng? [51; tr.30]. Theo C.Mác nguyên tắc phân phối mà phái Lát
- xan đa ra tuy dựa trên sự bình đẳng về sở hữu, nhng không đợc áp dụng
riêng đối với những ngời có lao động thực sự mà còn đợc áp dụng cho mọi
thành viên trong xã hội kể cả những ngời không lao động; những ngời có
lao động thực sự đáng ra đợc nhận đầy đủ thu nhập từ lao động của mình thì
hóa ra lại nhận đợc thu nhập của lao động đã bị cắt xén cho cả những ngời
không lao động. Do vậy, nguyên tắc phân phối trên không thể coi là nguyên
tắc phân phối công bằng. Chỉ có phân phối theo lao động mới có thể đảm bảo
công bằng. C.Mác còn chỉ rằng việc phân phối đảm bảo công bằng xã hội còn
phụ thuộc vào phơng thức sản xuất đặc biệt, phụ thuộc vào tính chất của
phơng thức sản xuất. Ông viết: Bất kỳ sự phân phối nào về t liệu tiêu dùng
cũng chỉ là hậu quả của sự phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất;
nhng sự phân phối những điều kiện sản xuất lại là một tính chất của chính
ngay phơng thức sản xuất [51; tr.36 - 37].
Thực hiện phân phối theo lao động trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa
cộng sản là một bớc tiến về việc thực hiện công bằng xã hội so với chế độ
phân phối trong chủ nghĩa t bản. Tuy nhiên, chế độ phân phối đó còn thiếu
sót so với chế độ phân phối theo nhu cầu đợc thực hiện ở giai đọan cao của
chủ nghĩa cộng sản. Sự tiến bộ của chế độ phân phối theo lao động trong giai
đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản đợc thể hiện ở chỗ tổng sản phẩm xã hội
sau khi đã khấu trừ các khoản cần thiết (để thay thế những t liệu sản xuất đã
tiêu dùng và tái sản xuất mở rộng, đề phòng tai nạn do các hiện tợng tự nhiên
gây ra, để đáp ứng các nhu cầu chung của cộng đồng nh thỏa mãn những nhu
cầu về trờng học, cơ quan y tế, nuôi những ngời không có khả năng lao
động) phần còn lại đem phân phối theo lao động, tức là mỗi một ngời sản
xuất sẽ nhận trở lại từ xã hội một số lợng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang
với số lợng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội. C.Mác viết: Anh ta
nhận của xã hội một cái phiếu chứng nhận rằng anh ta đã cung cấp số lao



10

động là bao nhiêu đó (sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta làm cho các
quỹ xã hội) và với cái phiếu ấy, anh ta sẽ lấy ở kho của xã hội ra một số lợng
vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lợng lao động nh thế [51; tr.34].
Đó là nguyên tắc phân phối theo lao động trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa
cộng sản. Tuy nhiên, C.Mác đã chỉ rõ, chế độ phân phối đó vẫn còn thiếu sót
so với giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa cộng sản, chế độ phân phối đó
vẫn bị giới hạn trong khuôn khổ t sản bởi vì lấy lao động làm thớc đo cho
phân phối nhng những ngời lao động không phải ai cũng nh ai, mỗi cá
nhân ngời lao động có sự khác nhau về thể chất, tinh thần, tay nghề, hoàn
cảnh gia đình...; với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham
dự nh nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, ngời này vẫn lĩnh
nhiều hơn ngời kia, ngời này vẫn giàu hơn ngời kia Muốn tránh tất cả
những thiếu sót ấy thì quyền phải là không bình đẳng, chứ không phải là bình
đẳng [51; tr.35]. Nh vậy, C.Mác đã chỉ ra rằng nguyên tắc phân phối theo
lao động đợc coi là nguyên tắc phân phối công bằng nhng trong giai đoạn
đầu của chủ nghĩa cộng sản thì sự phân phối đó vẫn hàm chứa trong nó sự
chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã
hội; đó là sự thiếu sót của nguyên tắc phân phối theo lao động.
C.Mác viết: Nhng đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong
giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội
t bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ dài. Quyền không bao giờ có thể ở
một mức độ cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế
độ kinh tế đó quyết định [51; tr.35 - 36]. Mác còn chỉ ra rằng, khi lực lợng
sản xuất cha phát triển đạt trình độ thật cao, con ngời cha phát triển toàn
diện, còn phụ thuộc vào sự phân công lao động xã hội, thì cha thể thực hiện
đầy đủ nguyên tắc công bằng xã hội - khẩu hiệu làm theo năng lực, hởng
theo nhu cầu. Đòi hỏi thực hiện công bằng xã hội ở mức độ quá cao so với
trình độ phát triển của kinh tế là ảo tởng, là không thực tế, sẽ làm cản trở sự

phát triển. Chỉ giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa mới ghi trên lá cờ
của mình Làm theo năng lực, hởng theo nhu cầu [51; tr.36].


11

Tóm lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chế độ phân phối
trong chủ nghĩa t bản là bất công vì nhà t bản chiếm đoạt giá trị thặng d do
ngời công nhân tạo ra; chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối công
bằng là làm theo năng lực hởng theo lao động (ai làm nhiều hởng nhiều, ai
làm ít hởng ít và ai không làm thì không hởng), chủ nghĩa cộng sản giai
đoạn cao thực hiện theo nguyên tắc phân phối công bằng hơn là làm theo
năng lực hởng theo nhu cầu.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công bằng xã hội trong phân phối
Trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ
Chí Minh luôn nỗ lực phấn đấu cho sự công bằng xã hội.
Hồ Chí Minh không đa ra một định nghĩa cụ thể về công bằng xã hội.
Song khi nói đến đặc trng chủ nghĩa xã hội, tính u việt của chủ nghĩa xã
hội, bản chất thực sự của chủ nghĩa xã hội thì Ngời nhiều lần nhấn mạnh
công bằng xã hội và coi công bằng xã hội là một đặc trng cơ bản nhất của
chủ nghĩa xã hội, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, là động lực xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Ngời từng nói: Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi ngời không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình
đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi ngời và vì mọi
ngời niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới
chân chính, xóa bỏ những biên giới t bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những
vách tờng dài ngăn cản những ngời lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu
thơng nhau [54; tr.461], Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: làm nhiều
hởng nhiều, làm ít hởng ít, không làm thì không hởng. Những ngời già

yếu và tàn tật sẽ đợc nhà nớc giúp đỡ chăm nom [58; tr.175].
Theo Hồ Chí Minh, công bằng cho tất cả mọi ngời trong xã hội chỉ có
ở chế độ xã hội chủ nghĩa. ở chế độ đó, ngời lao động bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ; mọi ngời có sức lao động đều phải tham gia vào hoạt động
lao động sản xuất, tích cực cống hiến cho xã hội; lao động vừa là nghĩa vụ,


12

vừa là trách nhiệm của mỗi ngời lao động đối với xã hội, tình trạng những
ngời có khả năng lao động song lại không chịu lao động mà vẫn hởng thụ
của cải vật chất của xã hội là bất công. Những ngời không có khả năng lao
động sẽ đợc Nhà nớc xã hội chủ nghĩa dành cho họ một phần của cải. T
tởng này của Hồ Chí Minh thể hiện tính nhân đạo, nét văn hóa của xã hội
mới - xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa giàu đẹp, Ngời luôn nhấn mạnh
rằng toàn dân phải thực hành tiết kiệm tăng gia sản xuất: Chủ nghĩa xã hội là
mọi ngời dân đợc áo ấm cơm no, nhà ở tử tế, đợc học hành. Muốn vậy thì
mọi ngời phải thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm [59; tr.72].
Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất, chăm lo đời sống ngời dân, Hồ Chí Minh
luôn coi việc thực hiện công bằng xã hội là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Ngời, thực hiện công bằng xã hội là điều
kiện tất yếu, cần thiết ngay cả trong điều kiện hoàn cảnh đất nớc còn khó
khăn, cha đủ điều kiện về vật chất đáp ứng nhu cầu con ngời do sản xuất
cha phát triển. Ngời viết:Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không
sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên [60; tr.185].
Hồ Chí Minh cho rằng ngời dân không ai muốn thiếu thốn, nghèo khổ
ai cũng mong muốn có một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, song trong
điều kiện kinh tế còn khó khăn thì sẵn sàng chấp nhận sự thiếu thốn nhng
không thể chấp nhận sự mất công bằng. Chính từ luận điểm đó của Hồ Chí

Minh chúng ta đã thấy vai trò to lớn công bằng xã hội với tính cách là một
động lực phát triển kinh tế - xã hội. Ngời dân dễ dàng chấp nhận sự nghèo
khổ nhng không chấp nhận sự bất công bằng, vì bất công bằng sẽ dẫn tới sự
mất đoàn kết, sự bất đồng và ly tán trong lòng nhân dân, bất công bằng là mối
đe dọa tiềm ẩn với sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang
xây dựng. Chỉ có thực hiện công bằng xã hội thì lợi ích của mỗi ngời mới
đợc tôn trọng và đảm bảo; mọi thành viên trong xã hội mới tích cực lao động


13

sản xuất, học tập, sáng kiến để thúc đẩy sản xuất phát triển, làm cho xã hội ta
ngày càng giàu có.
Khuyến khích, động viên mọi ngời dân phát triển sản xuất, xóa bỏ lạc
hậu, xây dựng một xã hội công bằng luôn đợc Hồ Chí Minh xác định là
nhiệm vụ cấp bách. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, trong điều kiện
đất nớc còn vô cùng khó khăn, Hồ Chí Minh đã đặt nhiệm vụ quan trọng của
Chính phủ là phải ra sức diệt giặc đói, giặc dốt, phát triển kinh tế xã hội, làm
cho mọi ngời dân ai cũng phải có ăn, có mặcTrong t tởng chỉ đạo cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn coi công bằng xã hội là nhiệm vụ trọng
tâm của cách mạng, là động lực phát triển xã hội, là mục tiêu mà xã hội ta
hớng tới. Để đảm bảo và thực hiện tốt công bằng xã hội, Hồ Chí Minh khẳng
định cần kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân, vì chủ nghĩa cá nhân chính
là nguyên nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm nh tham ô, lãng phí, chủ
nghĩa cá nhân là thủ phạm gây ra những bất công phi lý trong xã hội. Ngời
nói: Chủ nghĩa cá nhân đẻ trăm thứ bệnh nguy hiểm, quan liêu, mệnh lệnh,
bè phái, chủ quan, tham ô lãng phí Nó trói buộc, bịt mắt những nạn nhân
của nó, những ngời này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn
danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của
nhân dân, Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của

cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân [56; tr.61].
Trong t tởng của Ngời, đảm bảo công bằng xã hội thì phải đấu tranh
chống lại chủ nghĩa cá nhân. Bên cạnh đó, Ngời cũng chỉ rõ mối quan hệ
biện chứng giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Theo
Ngời, có tôn trọng lợi ích cá nhân thì mới động viên đợc mọi ngời tích cực
phấn đấu, cống hiến lao động, học tập, sáng tạo vào công cuộc xây dựng chế
độ xã hội mới, vì vậy, phải biết tôn trọng lợi ích cá nhân, kết hợp hài hòa lợi
ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội, đảm bảo sự đoàn kết, đảm bảo
công bằng xã hội.


14

Trong qua trình lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, Ngời đã có rất nhiều bài nói, bài viết về vấn đề phân phối đảm bảo công
bằng xã hội. Trong Bài nói chuyện tại hội nghị sản xuất cứu đói, Hồ Chí
Minh căn dặn: Dân đủ ăn đủ mặc thì chính sách của Đảng và chính phủ đa
ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có
hay đến mấy cũng không thực hiện đợc...
Tham ô, lãng phí là có tội, mà lãng phí gạo cứu đói tội càng lớn hơn.
Không khác gì gián điệp giết hại đồng bào đó. Thế là có tội với Đảng và chính
phủ, đối với nhân dân, đối với nớc bạn. Đó là cái tội thật to. Các cấp ủy cùng
với cán bộ cần tìm cho ra gốc dễ tham ô, lãng phí và xử trí đúng mức [56;
tr.572 - 573].
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc phân phối đảm bảo làm cho mọi
ngời dân đủ ăn, đủ mặc. Ngời coi tham ô, lãng phí là sự bất công trong phân
phối, là có tội với Đảng, chính phủ và nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhận thức rõ rằng nớc ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nớc nghèo, nông
nghiệp lạc hậu vì vậy nhiệm vụ quan trọng là phải đẩy mạnh sản xuất làm cho
dân no đủ, đáp ứng đòi hỏi bức thiết của nhân dân. Ngời nói: Đời sống ví

nh chiếc thuyền. Sản xuất ví nh nớc. Mực nớc lên cao, thì con thuyền
càng nổi lên cao [57; tr.141]; Các cấp bộ đảng cần phải thấy hết khả năng
của địa phơng, nhận rõ trách nhiệm đối với đời sống nhân dân, để cố gắng
hơn nữa trong phát triển kinh tế [59; tr.451].
Phát triển sản xuất là điều kiện để nâng cao đời sống nhân dân. Phải ra
sức sản xuất và thực hành tiết kiệm. Nhng phải phân phối cho công bằng hợp
lý. Trong bài nói chuyện tại hội nghị rút kinh nghiệm công tác quản lý hợp tác
xã nông nghiệp toàn miền Bắc, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: Sản xuất đợc
nhiều đồng thời phải chú ý phân phối cho công bằng. Muốn phân phối cho
công bằng, cán bộ phải chí công vô t thậm chí có khi cán bộ vì lợi ích chung
mà phải chịu thiệt một phần nào, chớ nên cái gì tốt thì dành cho mình, xấu để
cho ngời khác [58; tr.537].


15

Hồ Chí Minh rất quan tâm và luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên, những
ngời có chức có quyền phải chăm lo thực hiện chính sách bảo đảm công bằng
xã hội. Ngời viết: Hết sức chăm lo đời sống nhân dân. Phải ra sức phát triển
sản xuất thực hành tiết kiệm, phân phối cho công bằng hợp lý cải thiện việc
ăn, mặc, ở, học, phục vụ sức khỏe và giải trí của nhân dân. Đặc biệt chú trọng
các vùng bị chiến tranh tàn phá, các cháu mồ côi, các cụ già yếu và gia đình
các liệt sỹ, thơng binh, bộ đội, thanh niên xung phong [60; tr.482]. ở đây,
t tởng phân phối công bằng, hợp lý của Hồ Chí Minh đợc gắn liền với yêu
cầu phải làm tốt chính sách đảm bảo công bằng xã hội.
Trong quá trình chỉ đạo lãnh đạo đất nớc nói chung và miền Bắc nói
riêng, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: Quần chúng rất thông cảm với hoàn cảnh
thiếu hàng, quần chúng chỉ phàn nàn việc phân phối không công bằng. Vẫn
còn một số cán bộ lạm dụng chức quyền, quan liêu, xa rời quần chúng, thiếu
trách nhiệm trớc quần chúng. Ngay trong công đoàn cũng có cán bộ mắc

thiếu sót trên, làm cho đời sống quần chúng thêm khó khăn [60; tr.567].
Hồ Chí Minh cũng đề ra nguyên tắc phân phối trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nớc ta là nguyên tắc phân phối theo lao động. Ngời viết
Phân phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều thì đợc phân phối nhiều,
lao động ít thì đợc phân phối ít. Lao động khó thì đợc phân phối nhiều, lao
động dễ thì đợc phân phối ít. Không nên có tình trạng ngời giỏi, ngời kém,
việc khó việc dễ, cũng công điểm nh nhau. Đó là chủ nghĩa bình quân. Phải
tránh chủ nghĩa bình quân [59; tr.410]. Trong t tởng của Hồ Chí Minh,
nguyên tắc phân phối đảm bảo công bằng xã hội là nguyên tắc phân phối theo
lao động (phân phối theo lao động ở đây không có nghĩa là phân phối bình
quân mà phân phối căn cứ vào năng suất và hiệu quả của lao động, nhng
chúng ta đã không thực hiện đợc trên thực tế nguyên tắc này trong điều kiện
đất nớc có chiến tranh), đồng thời phải thực hiện tốt các chính sách bảo đảm
công bằng xã hội cho những ngời không có khả năng lao động nh ngời già,
trẻ em, gia đình thơng binh liệt sĩ đảm bảo cho ngời dân đủ ăn, đủ mặc,


16

đợc học hành và chăm sóc sức khoẻ (mặc dù Ngời cha nói cụ thể phân
phối thông qua phúc lợi xã hội).
Nh vậy, Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những t tởng công
bằng xã hội trong phân phối mang đậm tính nhân văn, t tởng đó đợc tỏa
sáng từ một con ngời mà suốt cuộc đời tận tụy với hoài bão cao cả là làm sao
cho mọi ngời ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng đợc học hành, tiến bộ.
1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công bằng xã hội trong
phân phối
1.3.1. Thời kỳ trớc đổi mới
Công bằng xã hội là mục tiêu xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam
ngay từ khi Đảng ra đời đến nay. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ

chế độ t hữu về t liệu sản xuất là nguồn gốc sâu xa dẫn đến mọi sự áp bức,
bóc lột bất công và bất bình đẳng trong xã hội, vì vậy phải xóa bỏ mọi hình
thức t hữu, xóa bỏ mọi áp bức bóc lột bất công, mang lại sự bình đẳng, tự do,
ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Trong xã hội Việt Nam dới chế độ phong
kiến, thực dân, đời sống của ngời dân khổ cực chịu sự áp bức bóc lột của đế
quốc và phong kiến. Chính vì vậy ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt
Nam trong Chánh cơng văn tắt, Sách lợc vắn tắt đã khẳng định: Cách
mạng Việt Nam là t sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản; phải đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến; làm cho
nớc ta hoàn toàn độc lập; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (nh công nghiệp,
vận tải, ngân hàng) của bọn t bản đế quốc Pháp để giao cho chính phủ
công nông binh; quốc hữu hóa toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và
địa chủ phản cách mạng Việt Nam chia cho nông dân nghèo; giải phóng dân
ta khỏi áp bức bóc lột; mang lại cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc cho nhân
dân; đa ngời dân lên làm chủ. Luận cơng chính trị tháng 10.1930 tiếp tục
khẳng định rằng đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để
và đuổi đế quốc giành độc lập cho dân tộc. Nh vậy, ngay từ khi Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời, mục tiêu công bằng xã hội đã đợc đề ra. Đây là t


17

tởng chủ đạo xuyên suốt trong tất cả mọi đờng lối chính sách của Đảng qua
các giai đoạn phát triển của cách mạng.
Từ khi đất nớc bớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến nay,
Đảng ta luôn nhận thức rằng phân phối đảm bảo công bằng xã hội là một nội
dung quan trọng trong đờng lối chính sách của Đảng, liên quan trực tiếp đến
đời sống hàng ngày của ngời dân, là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế
phát triển, ổn định chính trị - xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng
vững mạnh.

Trong giai đoạn từ năm 1954 đến 1975, dới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta thực hiện đồng thời hai cuộc cách mạng. Tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc có đặc
điểm là bỏ qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa đi lên từ một nớc nông
nghiệp lạc hậu, vì vậy điều quan trọng là phải phát triển sản xuất, thực hành
tiết kiệm, phân phối công bằng hợp lý, xóa bỏ mọi bất công, động viên nhân
dân tích cực phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, xây dựng hậu
phơng vững chắc.
Dới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc xóa bỏ chế độ t hữu, thiết lập
chế độ công hữu dới hai hình thức là sở hữu nhà nớc và sở hữu tập thể, thực
hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III, Đảng ta đã nhấn mạnh là phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa, văn kiện của Đảng viết: Công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa nhằm tạo ra những quan hệ sản xuất không xã hội chủ nghĩa thành quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong đó mấu chốt là cải biến chế độ sở hữu cá
thể và chế độ sở hữu t bản chủ nghĩa về t liệu sản xuất thành các hình thức
khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, mở đờng cho lực lợng sản
xuất phát triển [23; tr.54].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội III, chỉ trong một thời gian ngắn nhiệm
vụ cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa


18

đã cơ bản đợc hoàn thành. Ngời dân miền Bắc từ chỗ là những ngời bị bóc
lột nặng nề về kinh tế, thì nay trở thành ngời chủ thực sự của xã hội. Việc
thực hiện lý tởng công bằng xã hội làm cho ngời dân tin tởng tuyệt đối vào
sự lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu xây dựng hậu phơng vững mạnh trở
thành căn cứ địa vững chắc quyết định đến thắng lợi cách mạng dân tộc dân

chủ nhân dân ở miền Nam.
Đánh giá công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc những năm
đầu bớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận định:
Chúng ta căn bản xóa bỏ chế độ bóc lột t bản chủ nghĩa, kinh tế t
bản t doanh trở thành kinh tế công t hợp doanh, kinh tế của ngời sản xuất
nhỏ phần rất lớn trở thành kinh tế hợp tác hóa. Chúng ta đặc biệt nêu cao
thắng lợi của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, mở đờng cho xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Đi đôi với đà tiến triển nhanh chóng của sự
nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa, kinh tế quốc doanh lớn mạnh hơn trớc nhiều,
hiện nay chiếm u thế rõ dệt và ngày thêm phát huy năng lực lãnh đạo toàn bộ
kinh tế quốc dân. Những biến chuyển kể trên về quan hệ sản xuất có ý nghĩa
và tác dụng vô cùng to lớn. Đó là cơ sở để quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa
phát huy tác dụng của nó. Trong cuộc đấu tranh giữa hai con đờng suốt cả
thời kỳ quá độ, đến đây con đờng xã hội chủ nghĩa đã giành đợc thắng lợi
có ý nghĩa quyết định [31; tr.14].
Trong giai đoạn 1960 - 1975 mặc dù chủ trơng thực hiện nguyên tắc
phân phối theo lao động nhng trên thực tế chúng ta lại thực hiện nguyên tắc
phân phối bình quân. Trong điều kiện đất nớc có chiến tranh, hình thức phân
phối bình quân chủ nghĩa tỏ ra có tác dụng tích cực; động viên ngời dân tích
cực hăng say sản xuất, cống hiến xây dựng hậu phơng vững chắc, chi viện
sức ngời, sức của cho miền Nam; làm cho ngời lính ngoài mặt trận yên tâm
đánh giặc, không còn phải lo về gánh nặng gia đình, về những ngời mẹ già,
con nhỏ. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ hình thức phân phối bình
quân là hình thức phân phối đảm bảo công bằng xã hội. Đánh giá thành tựu


19

miền Bắc đạt đợc chặng đờng đầu tiên xây dựng chủ nghĩa xã hội Đại hội
IV đã nhận định: Trên mặt trận cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền

kinh tế quốc dân, miền Bắc đã đạt đợc những thành tựu đáng tự hào. Thành
tựu to lớn nhất là thủ tiêu chế độ ngời bóc lột ngời; chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa dới hai hình thức toàn dân và tập thể đợc xác lập một cách phổ
biến đến năm 1975 trong khu vực sản xuất vật chất 99,7% tài sản cố định đã
thuộc về kinh tế xã hội chủ nghĩa: phần lớn thu nhập quốc dân cũng nh sản
lợng công nghiệp, nông nghiệp là do kinh tế xã hội chủ nghĩa tạo ra [24;
tr.29].
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nớc thống nhất và bớc
vào thời kỳ quá độ lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn 1975 1986, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh nguyên tắc phân phối theo lao động là
nguyên tắc phân phối đảm bảo công bằng xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV diễn ra trong không khí đất nớc
thống nhất, nhân dân trở thành ngời làm chủ toàn bộ đất nớc, làm chủ đất
đai, rừng, biển và thiên nhiên. Chủ trơng của Đại hội là đẩy mạnh công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội đa nền kinh tế nớc ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tiếp tục cải tạo, xây
dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Về vấn đề phân phối đảm bảo công bằng xã hội, căn cứ vào tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng nh bớc
đầu cải tạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Nam sau khi đất nớc thống
nhất, trong phơng hớng nhiệm vụ thực hiện 5 năm (1976 - 1980), Đại hội
IV đã khẳng định tiếp tục tuân thủ theo nguyên tắc phân phối theo lao động.
Do thực hiện nhiệm vụ của Đại hội IV nên từ năm 1976 đến năm 1980,
đất nớc ta đã đạt đợc những thành tựu về kinh tế là khắc phục hậu quả nặng
nề do chiến tranh để lại. Bên cạnh đó còn có sự mất cân đối nghiêm trọng
trong nền kinh tế, thu nhập quốc dân cha đáp ứng đợc nhu cầu tiêu dùng tối


20


thiểu của nhân dân về lơng thực và các mặt hàng thiết yếu, mô hình hợp tác
xã ở miền Nam đứng trớc nguy cơ tan rã
Để khắc phục những thiếu sót trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V
(tháng 3/1982) đã nêu ra phơng hớng ổn định tình hình kinh tế xã hội, phát
triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất
hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng, giải
quyết các vấn đề về giá lơng tiền, cải thiện đời sống nhân dân, tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, thực hiện nguyên tắc
phân phối theo lao động. Tuy nhiên, trên thực tế sự phân phối vẫn mang tính
chất bình quân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng nhận định: Trong nhận
thức cũng nh trong hành động, chúng ta cha thực sự thừa nhận cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần ở nớc ta còn tồn tại trong một thời gian tơng đối dài,
cha nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất trình độ của lực lợng sản xuất [26; tr.23].
Nh vậy, trớc thời kỳ đổi mới (1975 - 1986), Đảng coi nguyên tắc
phân phối theo lao động dựa trên chế độ công hữu về t liệu sản xuất là một
nguyên tắc công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhng trên thực tế chúng ta không thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động, thay vào đó là sự phân phối có tính chất bình quân. Nếu nh phân phối
theo hình thức bình quân chủ nghĩa trong điều kiện đất nớc có chiến tranh đã
phát huy đợc vai trò tích cực đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ thì khi hòa
bình lập lại hình thức phân phối phân phối bình quân đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Đối với ngời lao động thuộc biên chế Nhà nớc thì phân phối chủ yếu bằng
tiền lơng cùng với chế độ đãi ngộ mang tính bao cấp (tem phiếu, nhà ở, chữa
bệnh). Đối với nhân dân trong hợp tác xã nông nghiệp thì chấm công điểm
là tiêu chí định giá cống hiến lao động. Điều đó dẫn đến tình trạng ngời làm
nhiều cũng nh ngời làm ít. Sự phân phối này đã bị tách khỏi cơ sở số lợng
và chất lợng lao động. Từ đó, ngời lao động không quan tâm đến hiệu quả,



21

năng suất lao động, dẫn đến năng suất lao động thấp, thu nhập của ngời lao
động không đủ đảm bảo nhu cầu tối thiểu của bản thân, đời sống ngời dân vô
cùng khó khăn.
Phân phối bình quân chủ nghĩa làm cho nền kinh tế không có tính cạnh
tranh, không làm nảy sinh nhu cầu đầu t cho sản xuất kinh doanh, không hối
thúc mọi ngời thực sự phải năng động, sáng tạo. Phân phối bình quân tạo ra
cho môi trờng cho ngời lao động lời biếng, ỷ vào sự bao cấp của Nhà
nớc. Trong xã hội có những ngời lao động hăng say cống hiến, nhiệt tình
trong công việc sáng tạo, có chuyên môn cao lại gặp nhiều khó khăn.
Thực tế đã chứng minh phân phối bình quân chủ nghĩa đã triệt tiêu
động lực phát triển kinh tế - xã hội, làm cho nền kinh tế nớc ta lâm vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng. Có thể nói phân phối bình quân chính là kẻ
tòng phạm với bất công xã hội và nó đã tồn tại trong suốt thời gian dài trong
thời kỳ trớc đổi mới.
1.3.2. Thời kỳ từ khi đổi mới đến nay
Tháng 12.1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra
trong bối cảnh các nớc xã hội chủ nghĩa tiến hành công cuộc cải cách, cải tổ
(Trung quốc cải cách năm 1978, Liên xô cải tổ năm 1985). Sau 10 năm thực
hiện đờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nớc, bên cạnh những
thành tựu đã đạt đợc, đất nớc đứng trớc khó khăn, tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội. Đứng trớc tình hình đó, Đại hội VI đã nghiêm túc nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội VI,
Đảng ta đã vạch rõ những hạn chế, sai lầm về chế độ sở hữu và chế độ phân
phối trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về chế độ sở hữu, có sự
nóng vội chủ quan duy ý chí khi xóa bỏ khu vực kinh tế phi xã hội chủ nghĩa,
thiết lập khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa với hai hình thức sở hữu và hai
thành phần kinh tế là nhà nớc và tập thể, xóa bỏ các thành phần kinh tế quá

độ. Về chế độ phân phối, sự phân phối thực chất mang tính bình quân. Để
khắc phục những sai lầm đó, Đại hội VI đã quyết định thực hiện công cuộc


22

đổi mới toàn diện, chuyển từ mô hình kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp
sang mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trờng, có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Về chế độ phân phối, Đại hội VI khẳng định phải thực hiện nguyên tắc
phân phối theo lao động, đảm bảo công bằng xã hội, loại bỏ phân phối bình
quân, cào bằng. Văn kiện Đại hội VI đã xác định: Việc thực hiện đúng
nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản chế độ
tiền lơng theo hớng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục
tính chất bình quân, xóa bỏ từng bớc phần cung cấp còn lại trong chế độ tiền
lơng, áp dụng các hình thức trả lơng gắn với kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế [26; tr.72], Đảm bảo cho ngời lao động có thu nhập thỏa đáng phụ
thuộc trực tiếp vào kết quả lao động, có tác dụng khuyến khích nhiệt tình lao
động [26; tr.88].
Nh vậy, chúng ta thấy rõ có sự đổi mới trong nhận thức của Đảng về
nguyên tắc phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động không phải là
phân phối bình quân mà phân phối căn cứ vào năng suất hiệu quả của lao
động, làm nhiều hởng nhiều, làm ít hởng ít, không làm không hởng.
Những ngời lao động có chuyên môn tốt hăng say lao động và cống hiến có
hiệu quả cao trong công việc sẽ đợc hởng nhiều hơn những ngời lao động
lời biếng luôn ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nớc. Đây chính là một động lực
quan trọng thúc đẩy ngời lao động có trách nhiệm trong công việc, nhiệt tình
lao động, quan tâm đến năng suất và hiệu quả lao động.
Để thực hiện công bằng xã hội, Đại hội VI nêu ra quan điểm chỉ đạo là
lấy phân phối theo lao động là hình thức chính, khuyến khích làm giàu đi đôi

với giảm số nghèo, nâng cao phúc lợi xã hội phù hợp trình độ phát triển kinh
tế xóa bỏ cơ sở kinh tế - xã hội của sự bất công xã hội.
Bên cạnh vấn đề phân phối theo lao động có còn hình thức phân phối
nào không? Về vấn đề này, văn kiện Đại hội VI viết: Giải quyết một phần
quan trọng việc làm cho ngời lao động và đảm bảo về cơ bản phân phối theo


23

lao động. Thực hiện công bằng xã hội phù hợp điều kiện cụ thể của nớc ta
[26; tr.45].
Hiện nay chúng ta nói phân phối theo lao động là chủ yếu còn phần
không cơ bản sẽ bao gồm những gì và đợc phân phối nh thế nào để đảm bảo
công bằng xã hội thì Đại hội VI cha đề cập tới.
Đại hội VI đánh dấu bớc ngoặt lịch sử quan trọng, mở ra thời kỳ mới
của đất nớc, thời kỳ đổi mới hội nhập và phát triển vững bớc tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Phát triển quan điểm Đại hội VI, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
đã đề ra cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội và chính thức khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định
hớng xã hội chủ nghĩa.
Về nguyên tắc phân phối đảm bảo công bằng xã hội, Đại hội VII mở
rộng hơn nguyên tắc phân phối đảm bảo công bằng xã hội: Thực hiện nhiều
hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
là chủ yếu [27; tr.10].
Nếu Đại hội VI đề cập chính sách phân phối theo lao động là chính thì
đến Đại hội VII bổ sung nội dung quan trọng vào nguyên tắc phân phối là
thực hiện nhiều hình thức phân phối. Nhng cụ thể là bổ sung thêm những
hình thức phân phối nào ngoài phân phối theo lao động thì Đại hội VII vẫn

cha nhắc tới cụ thể.
Để bổ sung quan điểm của Đại hội VII về thực hiện nhiều hình thức
phân phối, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã xác định:
Phân phối theo lao động là chủ yếu, khuyến khích và đãi ngộ xứng đáng các
tài năng, đồng thời phân phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh
doanh [28; tr.47].
Ngoài hình thức phân phối theo lao động, hình thức phân phối theo
nguồn đóng góp vào sản xuất kinh doanh lần đầu tiên đợc chính thức thừa


×