HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
THÂN QUỐC HÙNG
CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ
CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
THÂN QUỐC HÙNG
CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. NGUYỄN THANH BÌNH
2. TS. TRẦN THANH PHƯƠNG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Thân Quốc Hùng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
7
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
7
1.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
17
1.3. Giả thuyết những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về chất lượng xét xử
các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay
23
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
30
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò chất lượng xét xử các vụ án hành chính
của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
30
2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử các vụ án hành chính của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh
49
2.3. Các điều kiện bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh
62
Chương 3: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ
CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
70
3.1. Thực trạng tổ chức và chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa hành
chính thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh
70
3.2. Thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân
dân cấp tỉnh
78
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG
XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
118
4.1. Quan điểm bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh
118
4.2. Các giải pháp bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay
127
KẾT LUẬN
157
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
160
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND
Hội đồng nhân dân
HĐXX
Hội đồng xét xử
HTND
Hội thẩm nhân dân
HVHC
Hành vi hành chính
KKHC
Khiếu kiện hành chính
QĐHC
Quyết định hành chính
QĐKLBTV
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc
QLHCNN
Quản lý hành chính nhà nước
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
THC
Tòa hành chính
TTHC
Tố tụng hành chính
UBND
Ủy ban nhân dân
VAHC
Vụ án hành chính
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
VPHC
Vi phạm hành chính
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
XXHC
Xét xử hành chính
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Xét xử là hoạt động chính, có ý nghĩa quyết định đến sự ra đời, tồn tại và
phát triển của hệ thống cơ quan tòa án tất cả các nước trên thế giới. Hoạt động này
có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định đến quyền lợi chính trị, kinh tế và nhiều khi
là sinh mệnh của con người. Chất lượng, hiệu quả của hoạt động này còn ảnh
hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển của cả xã hội.
Ở nước ta, xét xử là chức năng hiến định của Tòa án nhân dân. Hiến pháp
năm 2013 quy định: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" (Khoản 1, Điều 102). Xét xử là
hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án là cơ quan duy
nhất được đảm nhiệm chức năng xét xử. Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá
bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra phán xét về tính chất, mức độ pháp lý
của vụ việc, từ đó, nhân danh nhà nước đưa ra phán quyết tương ứng với bản chất,
mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc. Do đó, xét xử phải là công cụ
sắc bén và đầy hiệu lực của Nhà nước và xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa,
đồng thời phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong bảo vệ công lý, triệt để tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Những yêu cầu đó được quán
triệt và thực hiện kiên trì, thường xuyên, liên tục trong hoạt động xét xử và đã đạt
được kết quả đáng khích lệ, góp phần không nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong suốt hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã ban hành
và quán triệt thực hiện nhiều nghị quyết chuyên đề về cải cách tư pháp như Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/202 của Bộ Chính trị Về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của
Bộ Chính trị Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020... Nghị quyết số 49 đã
thể hiện rất rõ quan điểm, yêu cầu của Đảng ta về cải cách tư pháp mà trọng tâm là
2
Tòa án nhân dân: "Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp
hợp lý, khoa học; trong đó, xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt
động trọng tâm"; "Hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến
hành có hiệu quả và hiệu lực cao"; "Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối
với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện
hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo
đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án"; "Đổi mới
việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công
khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét
xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp"... Do đó, tổ chức thực hiện
quyền tư pháp đã có những chuyển biến tích cực. Tổ chức bộ máy, chức năng,
nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Tòa án ngày càng được xác định rõ hơn và từng
bước được củng cố, kiện toàn. Chất lượng xét xử có chuyển biến tốt, đặc biệt đối
với án hành chính được xem xét thận trọng, đúng pháp luật, tình trạng tồn đọng
án, sửa án, hủy án cơ bản được khắc phục. Chủ trương "nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa" được triển khai thực hiện, tạo không khí dân chủ trong các
phiên tòa, vai trò của các luật sư được nhìn nhận tích cực hơn...
Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải
quyết những vấn đề bức xúc nhất. Hoạt động xét xử vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập,
hạn chế như: tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ
quan tư pháp còn bất hợp lý; chưa có sự phân định chính xác, hợp lý giữa các
chức năng cơ bản của tố tụng dẫn đến việc quy định vai trò, thầm quyền cụ thể của
từng chủ thể tố tụng và trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng còn chưa rõ ràng; còn
thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt
là cơ chế bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khởi kiện
trong tố tụng hành chính... Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng
không nhỏ đến việc củng cố niềm tin của nhân dân vào tư pháp, công lý, ảnh
hưởng đến mục tiêu xây dựng một nền tư pháp "trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý" mà Nghị quyết số 49 đã đề ra. Nguyên nhân chính
3
của những hạn chế, yếu kém trên có thể kể đến như: hệ thống pháp luật có liên
quan chưa thực sự hoàn chỉnh, thống nhất và đồng bộ; trình độ chuyên môn, tinh
thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ thẩm phán chưa
đáp ứng được yêu cầu của hoạt động xét xử; cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ đối với
thẩm phán còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với tính chất của công việc...
Trên phương diện lý luận, vấn đề chất lượng xét xử nói chung và chất
lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng không
phải hoàn toàn mới. Tuy nhiên, những vấn đề lý luận căn bản về chất lượng xét xử
các vụ án hành chính đều chưa được nhìn nhận một cách toàn diện và giải quyết
thấu đáo. Chính vì vậy, hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử các vụ án
hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh chưa được ghi nhận một cách đầy đủ,
thống nhất. Quy định của pháp luật về chức năng của từng chủ thể trong tố tụng
cũng chưa được rõ ràng và còn chồng chéo...
Cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay đặt ra những yêu cầu mới: Tòa án
phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong bảo vệ công lý, triệt để tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, quyền công dân. Bối cảnh này đòi hỏi hoạt động xét xử của
Tòa án phải không ngừng nâng cao chất lượng, bảo đảm hiệu quả, kịp thời, chính
xác và đúng pháp luật. Do vậy, nghiên cứu vấn đề chất lượng xét xử các vụ án
hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh lại càng có ý nghĩa hết sức cấp thiết cả
về lý luận và thực tiễn. Từ những lý do trên đây, nghiên cứu sinh chọn đề tài:
"Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt
Nam hiện nay" làm luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng xét xử
các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam, tác giả đề xuất
các quan điểm và đưa ra những giải pháp nhằm bảo đảm chất lượng xét xử các vụ
án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.
4
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận án có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu, đánh giá tổng quan các công trình khoa học có liên quan đến
đề tài luận án. Từ đó chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án.
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ sở lý luận liên quan đến đề tài luận án, cụ thể:
nghiên cứu đưa ra khái niệm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh; chỉ ra và phân tích đặc điểm, vai trò của chất lượng xét xử các
vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; xây dựng các tiêu chí đánh giá và
các điều kiện bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân
dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng tổ chức và tình hình xét xử các vụ án
hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ảnh hưởng đến chất lượng xét xử các vụ
án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay và chỉ ra những kết quả, hạn chế và
nguyên nhân của thực trạng đó.
- Phân tích, luận chứng các quan điểm và đề xuất các giải pháp bảo đảm
chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam
hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Dưới giác độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận án tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng xét xử các vụ án hành
chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Vấn đề xét xử và chất lượng xét xử các
vụ án hành chính được thực hiện bởi các tòa án khác nhau. Trong luận án chỉ tập
trung nghiên cứu chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh. Luận án không nghiên cứu chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa
5
án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tối cao, cũng
như Tòa án quân sự.
- Phạm vi về không gian: Luận án phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức
Tòa án nhân dân cấp tỉnh và thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính
của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi toàn quốc.
- Phạm vi về thời gian: Những số liệu thống kê làm cơ sở đánh giá thực
trạng tổ chức và chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh ở Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2017.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
triết học Mác-Lênin, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, lịch sử cụ
thể. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp của các bộ môn khoa học
khác như: thống kê, so sánh, lý thuyết hệ thống...
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở chương 1 nhằm phân
tích, đánh giá các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở chương 2 nhằm làm sáng
tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, lý thuyết hệ thống
được sử dụng ở chương 3 trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác-Lênin,
nhằm đánh giá đúng thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp - diễn dịch được sử dụng
ở chương 4, để đề xuất các quan điểm, giải pháp phù hợp thực tế, khả thi nhằm bảo
đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
6
5. Những điểm mới của luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn diện và hệ thống
cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay; vì vậy, luận án có một số điểm mới về
mặt khoa học như sau:
1. Luận án đã xây dựng khái niệm, phân tích đặc điểm và vai trò chất lượng
xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
2. Luận án xây dựng được các tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử các vụ án
hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
3. Luận án phân tích, chỉ ra được những kết quả, hạn chế và nguyên nhân
thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở
Việt Nam hiện nay.
4. Luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm chất lượng xét xử
các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm
lý luận về chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
- Về thực tiễn: Những kết quả của luận án sẽ góp phần nhằm nâng cao chất
lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện
nay. Đồng thời, luận án là nguồn tư liệu tham khảo tốt cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố
liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4
chương, 10 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam theo định hướng XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng, chúng ta đã và đang thực hiện cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, trong đó có chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo đó, các hoạt
động nghiên cứu khoa học được tiến hành mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, trong đó có
lĩnh vực nghiên cứu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND nói chung
và TAND cấp tỉnh nói riêng. Trên thực tế đã có được khối lượng đáng kể các công
trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn liên quan tổ chức và hoạt động xét xử
của TAND cấp tỉnh. Nghiên cứu về chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp
tỉnh ở nước ta có một số công trình ở cấp độ khác nhau. Những công trình này đặt
nền móng và có những bước phát triển đáng kể mà tác giả có thể tiếp thu, phát triển
trong luận án này. Khi tham khảo những công trình đã được công bố của các tác giả
trong nước, tác giả tìm thấy nhiều điểm tương đồng về quan điểm lý luận và phát
triển những vấn đề mới về chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh mà các
công trình khác nghiên cứu ở mức độ hạn chế, chưa toàn diện về chất lượng xét xử
các VAHC của TAND cấp tỉnh.
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến tổ chức, chức năng
nhiệm vụ của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Liên quan mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ của TAND nói chung phải
kể đến Đề tài “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống thủ tục tư pháp,
nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân do dân và vì dân” [58]. Công trình này có chất lượng rất cao về
vấn đề lý luận của nhiệm vụ cải cách tư pháp, về khối lượng thủ tục tư pháp nói
chung cần và đủ cho giải quyết án và đặc biệt là các giải pháp nâng cao hiệu quả và
hiệu lực xét xử của Tòa án, mà thực là chất lượng xét xử trong đó có xét xử án hành
8
chính của TAND các cấp. Tác giả tiếp thu được nhiều quan điểm khoa học hợp lý
của đề tài để nghiên cứu đưa vào luận án.
Đề tài khoa học cấp bộ: “Đổi mới chế độ Thẩm phán - Hội thẩm nhân dân
trong tiến trình cải cách tư pháp” của Nguyễn Mạnh Lân [48]. Đề tài tập trung giải
quyết các vấn đề lý luận về tuyển dụng, bổ nhiệm, các tiêu chí tuyển dụng Thẩm
phán; thực trạng đội ngũ Thẩm phán, chế độ đãi ngộ như: lương, phụ cấp ngành,
những bất cập của chế độ đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (HTND). Đề tài
cũng đã chỉ ra những nguyên nhân khách quan, chủ quan của việc xây dựng chính
sách, chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán và HTND với tư cách là một ngành nghề
có tính chất khá đặc biệt trong hệ thống quyền lực nhà nước. Là những người duy
nhất có chức năng xét xử, phán quyết các vấn đề bức xúc trong xã hội, giải quyết
các tranh chấp trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác, đề tài cũng đưa
ra được một số kiến nghị, giải pháp thiết thực để bảo đảm chế độ đối với Thẩm
phán và HTND một cách hợp lý trong tổng thể chế độ cán bộ, công chức, viên
chức ở nước ta hiện nay. Những vấn đề trong đề đề cập và giải quyết có ý nghĩa
thiết thực liên quan đến chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. Bởi vì,
khi chế độ của Thẩm phán, HTND được bảo đảm sẽ góp phần tích cực vào việc
hạn chế tiêu cực trong ngành, đạo đức nghề nghiệp xét xử được tăng cường, Thẩm
phán, HTND yên tâm công tác tập trung cao độ vào công tác chuyên môn xét xử.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ:“Tài phán hành chính - thể chế bảo vệ
bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức” của Hoàng Thị Kim
Quế [70]. Qua nghiên cứu công trình này, tác giả có được sự đánh giá tổng quan
nhất về vị trí, vai trò của Tòa hành chính (THC) trong cơ chế giải quyết các khiếu
kiện hành chính ở nước ta. Vai trò của Tòa án trong việc kiểm soát quyền lực nhà
nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Mối liên hệ giữa thiết
chế THC với tài phán hành chính, giữa thiết chế giải quyết khiếu nại hành chính với
xét xử hành chính (XXHC) thông qua con đường tư pháp. Mặt khác, cũng tham
khảo được một số điểm khái quát về khiếu nại, khiếu kiện hành chính ở nước ta thời
kỳ phong kiến và từ năm 1945 đến trước đổi mới năm 1986. Sự hình thành và phát
triển của Tòa án trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước, nguyên tắc tổ chức
quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam,
9
những nguyên tắc hoạt động của Tòa án,Trên cơ sở đó, xác định rõ hơn về vị trí, vai
trò, chức năng của THC nói chung và THC thuộc hệ thống TAND.
Đề tài cấp bộ: “Nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, quy hoạch và luân
chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành Tòa án” của Nguyễn Tường Linh [52]. Đề
tài đã làm sáng tỏ được những vấn đề về lý luận và thực tiễn của công tác quản lý,
sử dụng đội ngũ lãnh đạo của ngành TAND. Đáng chú ý nhất là đề tài đã đã giải
quyết được những vấn đề căn bản về việc sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo thuộc
TAND các cấp sao cho có hiệu quả nhất. Trong đó, các nội dung quan trọng về
đánh giá cán bộ lãnh đạo như: mục tiêu đánh giá, phương pháp đánh giá, các tiêu
chí đánh giá… cần có những thay đổi căn bản để đảm bảo nguyên tắc đánh giá cán
bộ một cách khách quan, chính xác, không thiên vị. Vấn đề quy hoạch cán bộ lãnh
đạo, thành công của đề tài là đã chỉ ra được những bất cập trong quy hoạch, bồi
dưỡng, đào tạo và sử dụng nguồn quy hoạch. Cơ chế luân chuyển cán bộ lãnh đạo
trong ngành Tòa án là phù hợp cả về phương diện lý luận và thực tiễn, phù hợp với
chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đề tài đã làm rõ được ý nghĩa, vai trò và sự cần
thiết của việc luân chuyển. Đồng thời đã đưa ra được những tiêu chí, giải pháp, cách
thức luân chuyển cán bộ khá hợp lý.
Đề tài khoa học cấp bộ “Khiếu nại hành chính và giải quyết khiếu nại
hành chính trong quản lý và sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội - thực
trạng và giải pháp” do Lê Tiến Hào [27]. Công trình đã này đã căn bản phân tích
được cơ sở lý luận quyền khiếu kiện của tổ chức và công dân khi bị xâm hại đến
quyền sử dụng đất, nhất là trên địa bàn Hà Nội, vốn dĩ công tác quản lý nhà nước
về đất đai khá nhậy cảm và phức tạp. Đề tài đã chỉ rõ những bất cập trong công tác
giải quyết khiếu nại liên quan đến quyền sử dụng đất của các chủ thể sử dụng đất.
Bên cạnh quyền khiếu nại theo thủ tục hành chính công trình đã đề cập đến nhiều
nội dung về quyền khởi kiện, trình tự thủ tục, thẩm quyền giải quyết theo trình tự,
thủ tục tư pháp.
Sách chuyên khảo: “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền” của Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Trí [9]. Mặc dù cuốn sách tham
khảo được phát hành khá lâu, nhưng một số vấn đề được giải quyết trong sách vẫn
còn giá trị thực tiễn và giá trị tham khảo đối với luận án. Nhiều vấn đề được luận
10
giải khá thuyết phục như: quan điểm, mục tiêu, phương hướng cải cách; mô hình tổ
chức TAND ở địa phương; vấn đề con người thực thi quyền tư pháp về tiêu chuẩn,
tiêu chí, quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp.
Sách chuyên khảo: “Những điểm mới của của Luật Tố tụng hành chính năm
2015” của Nguyễn Văn Cường. Đây là cuốn sách mà tác giả đã thống kê đầy đủ
những điểm mới được Luật Tố tụng hành chính (TTHC) năm 2015 bổ sung, sửa đổi
so với Luật TTHC năm 2010. Luật đã sửa đổi, bổ sung 198 Điều/372 Điều; bổ sung
111 Điều mới; giữ nguyên 63 Điều của Luật TTHC năm 2010. Chẳng hạn sửa đổi,
bổ sung các nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc đối thoại, thẩm quyền xét xử của Tòa
án, quyền, nghĩa vụ của Chánh án, Thẩm phán, kiểm sát viên, người đại diện, người
bảo vệ… Những thông tin và luận giải trong cuốn sách có giá trị so sánh, giá trị
tham khảo về những căn cứ thay đổi, sửa đổi, bổ sung những quy định mới. Đồng
thời lý giải được tại sao phải sửa đổi, sự cần thiết sửa đổi và nhằm đáp ứng những
yêu cầu gì về mô hình tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa
hành chính và trong quá trình xét xử các VAHC.
Luận án Tiến sĩ: “Tòa hành chính trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Trần Kim Liễu [49]. Luận án đã làm rõ được
những vấn đề về lý luận liên quan đến Tòa hành chính trong hệ thống TAND. Đồng
thời chỉ ra những bất cập của mô hình tổ chức, bất cập về phạm vi thẩm quyền xét
xử các VAHC của TAND, trong đó có TAND cấp tỉnh. Tuy nhiên, nhiều vấn đề
luận án đặt ra cũng đã được giải quyết trong Luật TTHC năm 2015. Mặc dù vậy,
giá trị của những vấn đề về lý luận, về mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ, cũng
như một số bất cập về bảo đảm tính độc lập của Tòa án trong xét xử các VAHC
chưa được giải quyết một cách cơ bản trong Luật TTHC năm 2015, như thành lập
Tòa hành chính khu vực. Luận án đã tập trung phân tích vị trí, vai trò THC trong
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đặc biệt luận án
cũng đã đưa ra được một số đảm bảo pháp lý cho tổ chức và hoạt động của THC;
phân tích, đánh giá, bình luận thực trạng tổ chức, hoạt động của THC, những ưu
điểm trong hoạt động, một số hạn chế, nguyên nhân của hạn chế về bảo đảm pháp
lý đối với việc tổ chức và hoạt động của THC. Tuy nhiên luận án chỉ đề cập và giải
quyết những vấn đề chung về THC, chưa chuyên sâu về THC trong TAND cấp tỉnh
11
với chức năng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp
huyện khi có kháng cáo, kháng nghị.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên, còn một số công trình
cũng đã giải quyết phần nào về lý luận, thực trạng và đưa ra những giải pháp thiết
chế mô hình tổ chức của THC có những nét khác nhau như:
Đề tài khoa học “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ
tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân” [58]. “Những vấn đề lý luận và
thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng
nhà nước pháp quyền” của Đỗ Thị Ngọc Tuyết [115]; các bài viết trong sách tham
khảo: “Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Như Phát, Nguyễn Thị Việt Hương
[66]; “Thực trạng và yêu cầu kiện toàn đội ngũ Thẩm phán hành chính ở Việt Nam
hiện nay” của Nguyễn Văn Cương, Nguyễn Hữu Xương [11];
Sách tham khảo như: "Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Lê Minh Thông
[94]; “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền” của Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí [9]. “Các mô hình tài phán hành chính và
kinh nghiệm cho Việt Nam” của Vũ Thư [95]; “Vấn đề đổi mới hệ thống cơ quan
tài phán hành chính ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Cửu Việt [124]; Luận án
Tiến sĩ Luật học liên quan đến vấn đề này gồm một số công trình như: “Đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” của Lê
Thành Dương [17]; “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo
hướng xây dựng nhà nước pháp quyền” của Trần Huy Liệu [50].
Các bài nghiên cứu được đăng trong các báo và tạp chí chuyên ngành như:
“Cải cách tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước”, của Nguyễn Đăng Dung
[14]; “Cải cách tư pháp: ý nghĩa, mục đích và trọng tâm”, của Đào Trí Úc [117].
“Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp” của Phạm Văn Hùng [39]. “Bàn về quản lý
Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp” của Đỗ Gia Thư [15]. “Yêu cầu của việc xây
dựng nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp” của Nguyễn Mạnh Cường [12]; “Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính
12
của Tòa án, sự bảo đảm công lý trong quan hệ giữa nhà nước và công dân” của
Nguyễn Thanh Bình [3]; “Cơ chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án theo quy
định của Luật Tố tụng hành chính” của Đặng Thanh Sơn [86].
Nhận xét chung, các công trình và bài viết nghiên cứu đã phần nào làm rõ
được một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tư pháp, về hoạt động tố tụng ở
Việt Nam hiện nay thông qua việc đưa ra những đánh giá tổng quát về yêu cầu của
quá trình cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta, về mối quan hệ giữa hệ thống cơ
quan tư pháp với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước và các cơ quan trong hệ
thống cơ quan tư pháp với nhau, về cơ chế giám sát của cơ quan đại diện đối với
hoạt động của Tòa án các cấp; những đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động
của các Tòa án ở Việt Nam; đã làm rõ một số yếu tố tác động đến chất lượng và
hiệu quả hoạt động của các THC; đã đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp đổi
mới tổ chức hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong quá trình cải cách tư pháp. Trên cơ
sở đó, các tác giả đã đề xuất một số kiến nghị về đổi mới và hoàn thiện các THC ở
nước ta. Một vấn đề rất cơ bản là các công trình khoa học (nhất là của các tác giả:
Nguyễn Thị Kim Quế; Lê Minh Thông; Đào Trí Úc; Lê Cảm; Đỗ Gia Thư) đã có
những đề xuất khoa học, đóng góp qua trọng vào việc thay đổi về tư duy chính trị pháp lý, cách tiếp cận khoa học trong việc xác định thẩm quyền, quyền lực Tư pháp
trong cấu trúc chung của quyền lực nhà nước, góp phần xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về tổ chức TAND năm 2014, luật TTHC năm 2015. Nhiều tinh thần của
đề tài cũng đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ: “Tòa án là
cơ quan thực hiện quyền tư pháp” (khoản 1, Điều 112, Hiến pháp 2013). Hay nói
cách khác, quyền tư pháp đã được xác định rõ và cụ thể giao cho cơ quan Tòa án
đảm nhiệm. Điều này tương thích với các nhánh quyền lực nhà nước khác như:
quyền Lập pháp và quyền Hành pháp. Theo đó, các luật khác có liên quan như Luật
Tổ chức Tòa án, các luật tố tụng... đều thể chế hóa quan điểm, tư tưởng này thành
các quy định cụ thể.
Mặt khác, các công trình khoa học này cũng đã đưa ra các cơ sở lý luận và
thực tiễn về các mô hình tổ chức tòa án khác nhau để tổ chức thực hiện quyền tư
pháp đảm bảo tính độc lập và hiệu quả nhất như: Mô hình tổ chức Tòa khu vực; mô
hình tòa trung thẩm, thượng thẩm... Tuy nhiên, một số quan điểm khoa học được
13
đưa ra nhưng cũng không đủ tính thuyết phục. Chẳng hạn, quan điểm về đối tượng
khởi kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc (QĐKLBTV) chỉ giới hạn trong phạm
vi công chức là chưa đủ. Theo quan điểm lập luận của Luận án tiến sĩ luật học của
tác giả Trần Kim Liễu thì: nếu quy định chỉ công chức mới có thể kiện QĐKLBTV
theo thủ tục TTHC thì sẽ không công bằng đối với viên chức. Bởi lẽ, theo Điều 2
Luật viên chức: “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc
là, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng
lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
Trong khoa học pháp lý hành chính, từ lâu đã thừa nhận hoạt động của viên chức là
hoạt động phục vụ lợi ích công như hoạt động công chức (chỉ khác nhau ở mức độ
quyền lực). Điều 59 Luật Viên chức năm 2010 về “quy định chuyển tiếp” cho thấy
chế độ của viên chức được tuyển dụng trước hoặc sau ngày 01/7/2003 hầu như
không khác biệt so với công chức. Điểm d, khoản 1, Điều 52 Luật viên chức 2010
quy định các hình thức kỷ luật với viên chức bao gồm hình thức “buộc thôi việc”.
Vì sao cùng là chủ thể hoạt động theo chế độ công vụ - phục vụ lợi ích công, cùng
được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch hành chính và hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước nhưng khi bị kỷ luật “buộc thôi việc” thì chỉ công chức mới có quyền
khởi kiện theo thủ tục TTHC, viên chức thì không? Phải chăng quyết định buộc thôi
việc của cơ quan quản lý viên chức không phải là quyết định hành chính (QĐHC)
[49, tr.126-127].
Luận án không đồng tình với quan điểm này, vì công chức và viên chức là
hai chủ thể khác nhau bởi nội hàm thuộc tính của khái niệm. Công chức thực hiện
chức năng quản lý hành chính nhà nước (QLHCNN) (dịch vụ hành chính công),
còn viên chức thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà
nước (dịch vụ sự nghiệp công). Viên chức dược tuyển dụng trong biên chế nhà
nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, còn viên chức làm việc theo chế độ hợp
đồng làm việc, hưởng lương từ nguồn thu của đơn vị sự nghiệp công. Như vậy, về
thân phận pháp lý của công chức và viên chức khác biệt nhau. Viên chức không
tham gia QLHCNN (trừ trường hợp được trao quyền). Khi có tranh chấp về kỷ luật
buộc thôi việc được giải quyết theo thủ tục hợp đồng là hợp lý.
14
Các công trình nêu trên chưa nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của THC
thuộc TAND cấp tỉnh, cũng như cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính một cách
chuyên sâu và đầy đủ như một công trình khoa học toàn diện trong bối cảnh cải
cách tư pháp ở Việt Nam. Một số đề xuất, kiến nghị đổi mới tổ chức và hoạt động
giải quyết khiếu kiện hành chính đã được tiếp thu và được thể hiện trong quy định
của pháp luật Tổ chức Tòa án và Luật TTHC. Thực ra chưa có công trình khoa học
nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về chất lượng xét xử các VAHC của TAND
cấp tỉnh.
Các công trình khoa học khác của các tác giả đã góp phần làm rõ lý luận và
thực trạng tổ chức quyền lực nhà nước, quyền tư pháp, sự hình thành, vị trí, vai trò
của TAND trong bộ máy nhà nước, các quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt động
của TAND, yêu cầu của cải cách tư pháp đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của
TAND. Đồng thời đưa ra các đề xuất những phương hướng cơ bản cho việc đổi mới
và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND trong tiến trình cải cách tư
pháp. Luận án tiến sĩ luật học của Trần Kim Liễu, Trường Đại học luật Hà Nội đã
chỉ ra được vị trí, vai trò của Tòa hành chính, những bảo đảm pháp lý cho tổ chức
và hoạt động của Tòa hành chính trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân. Đánh giá được những ưu điểm, những hạn chế của Tòa hành
chính, đưa ra được các nhóm giải pháp đổi mới về tổ chức, về hoạt động của Tòa
hành chính.
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu
chung nhất về tổ chức, về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của chức năng nhiệm vụ,
cách thức phân công quyền lực, cách thức tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước
hoặc có công trình nghiên cứu về vấn đề có tính chuyên biệt, có phạm vi nghiên
cứu giới hạn ở các lĩnh vực khác nhau nên cũng chỉ nghiên cứu về lý luận, đánh
giá thực tiễn và đưa ra được những giải pháp trong khuôn khổ, phạm vi nghiên
cứu của từng đề tài.
1.1.2. Nhóm công trình liên quan đến chất lượng xét xử các vụ án hành
chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận án Tiến sĩ: “Cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành chính
ở Việt Nam” của Trần Quang Hiển [28]. Luận án đã đề cập đến cơ chế pháp lý liên
15
quan đến hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính ở nước ta. Các điều kiện bảo
đảm cho hoạt động giải quyết các tranh chấp đạt hiệu quả. Luận giải các cơ chế
pháp lý giải quyết bao gồm: cơ chế giải quyết thông qua con đường hành chính,
trong đó trọng tâm là các thủ tục hành chính, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu
nại, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thuộc phạm vi thẩm quyền của người có
thẩm quyền trong cơ quan HCNN. Đặc biệt luận án cũng đã đi sâu phân tích cơ chế
giải quyết tranh chấp hành chính thông qua con đường tư pháp (Tòa án). Đồng thời
đưa ra một số giải pháp về đến tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính thuộc
TAND, trong đó có TAND cấp tỉnh.
Luận án Tiến sĩ: “Giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” của Nguyễn Danh Tú [111]. Luận án tập
trung phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò của giải quyết khiếu kiện hành chính,
phân tích những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đánh giá những ưu
điểm, hạn chế, bất cập tồn tại của việc giải quyết khiếu kiện trên các phương diện:
thể chế pháp lý liên quan; quá trình triển khai thực hiện việc giải quyết khiếu kiện
cả trên phương diện chủ quan và khách quan. Trên cơ sở đó luận án đưa ra những
giải pháp nhằm bảo đảm cho việc giải quyết khiếu kiện hành chính đạt hiệu quả
gắn với các yêu cầu của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của
dân, do dân, vì dân.
Luận án Tiến sĩ: “Giải quyết khiếu nại hành chính trong công cuộc cải cách
hành chính ở Việt Nam” của Hoàng Ngọc Dũng [15]. Luận án đã làm sáng tỏ thêm
về những vấn đề lý luận về khiếu nại hành chính, phân tích các đặc điểm, nguyên
tắc, các yếu tố bảo đảm của hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính. Trong đó, có
đề cập đến vai trò, trình tự, thủ tục, quyền khởi kiện VAHC tại Tòa án trong trường
hợp hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc nhận
được quyết định giải quyết khiếu nại mà đương sự không đồng ý thì có quyền khởi
kiện VAHC tại Tòa giải quyết các tranh chấp hoặc khiếu nại tiếp theo. Như vậy
quyền pháp lý của đương sự được lựa chọn phương thức giải quyết hoặc bằng con
đường hành chính hoặc bằng con đường Tòa án giải quyết.
Luậ án Tiến sĩ: “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
trong xét xử các vụ án hành chính ở Việt Nam” của Vũ Thị Hòa [33]. Trong luận
16
án, tác giả đã phân tích khá sâu sắc về quyền khởi kiện, các phương thức bảo đảm
quyền khởi kiện VAHC của cá nhân và tổ chức nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của
họ theo quy định của pháp luật. Mặt khác, luận án đã đề cập và làm rõ hơn về
nguyên tắc, đặc điểm, vai trò và các yêu cầu về xét xử hành chính của TAND các
cấp. Đồng thời tác giả đã đưa ra những giải pháp về các phương diện pháp lý,
chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức thực hiện xét xử các VAHC nhằm bảo đảm cho
hoạt động xét xử các VAHC có chất lượng và đạt hiệu quả thiết thực.
Luận án Tiến sĩ: “Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam” của Nguyễn
Thị Hà [22]. Tác giả đã luận giải được những vấn đề lý luận về xét xử nói chung, lý
luận về xét xử sơ thẩm VAHC nói riêng, khái niệm, đặc điểm, vai trò, các tiêu chí
của xét xử sơ thẩm. Nhất là các yêu cầu về phẩm chất đạo đức, phẩm chất chuyên
môn nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán, những người tiến hành TTHC. Những vấn
đề về quy định của pháp luật liên quan đến xét xử, liên quan đến xét xử sơ thẩm
VAHC. Xét xử sơ thẩm VAHC là việc giải quyết có có ý nghĩa “khởi đầu” của một
tranh chấp, xung đột hành chính và được thực hiện bởi hai cấp Tòa án: TAND cấp
huyện và TAND cấp tỉnh. Đặc trưng xét xử của từng cấp Tòa án có những khác biệt
nhật định. Luận án cũng đã đánh giá những ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân
của kết quả, tồn tại. Đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử
các VAHC của TAND thực hiện xét xử sơ thẩm.
Luận văn Thạc sĩ: “Pháp luật về căn cứ thụ lý vụ án hành chính ở Việt Nam
hiện nay” của Trần Thị Lâm [47]. Luận văn đã phân tích trên bình diện pháp luật
hiện hành quy định về những căn cứ pháp lý để thụ lý giải quyết một VAHC. Tác
giả phân tích sâu sắc về các điều kiện thụ lý và những yếu tố loại trừ không thuộc
điều kiện thụ lý khi Tòa án xem xét quyết định có giải quyết VAHC hay không.
Việc lập luận, lý giải các điều kiện về: chủ thể khởi kiện; đối tượng khởi kiện; trình
tự, thủ tục khởi kiện; thẩm quyền giải quyết và điều kiện về nghĩa vụ án phí khi
khởi kiện VAHC của luận án là khá thấu đáo và chặt chẽ. Đây cũng là một trong
những yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm cho việc giải quyết các VAHC đạt chất
lượng và hiệu quả.
Ngoài ra còn một số công trình khoa học khác có giá trị tham khảo liên
quan đến đề tài của luận án. Chẳng hạn: “Kỹ năng giải quyết các vụ án hành
17
chính” của Nguyễn Thị Thu Hương [43]; “Cơ chế bảo đảm thi hành phán quyết
của Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính” của Đặng Thanh Sơn
[86]; “Ý nghĩa của việc nghiên cứu mô hình nhân cách người Thẩm phán trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của Bùi
Kim Chi [10]; “Văn hóa pháp luật của Thẩm phán trong lĩnh vực Tố tụng hành
chính” của Cao Thị Nga [62].
Nhận xét chung, các công trình khoa học này, mặc dù góc độ nghiên cứu có
khác nhau theo từng lĩnh vực nhất định, nhưng có liên quan đến chất lượng xét xử
các VAHC của TAND cấp tỉnh. Luận án có thể tham khảo, kế thừa những nội dung,
quan điểm khoa học để tác giả hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình. Có thể thấy,
các công trình nghiên cứu mới chỉ đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau cũng phần
nào liên quan đến hoạt động xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về chất lượng
xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. Bởi vì, trong hệ thống Tòa án bốn cấp thì vị trí,
vai trò của TAND cấp tỉnh nói chung và THC của TAND cấp tỉnh nói riêng có vị
trí, vai trò rất quan trọng trong hệ thống xét xử ở nước ta. Đặc trưng cơ bản của
THC thuộc TAND cấp tỉnh khác với các cấp Tòa án khác là vừa xét xử sơ thẩm,
vừa xét xử phúc thẩm các VAHC của TAND cấp huyện đã xét xử sơ thẩm, để một
mặt vừa kiểm tra, thẩm tra lại tính chính xác của bản án sơ thẩm, vừa thẩm định lại
việc Tòa án cấp huyện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện có chính
đáng không. Đồng thời thông qua xét xử phúc thẩm để kịp thời uốn nắn, rút kinh
nghiệm, triển khai tập huấn nghiệp vụ xét xử các VAHC đối với Tòa án cấp huyện
và ngay cả đối với Thẩm phán TAND cấp tỉnh đảm nhiệm chức năng xét xử các
VAHC. Bởi vậy, chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong hệ thống xét xử ở nước ta.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI
Bên cạnh các công trình nghiên cứu liên quan đến tổ chức và hoạt động xét
xử của TAND nói chung và Tòa hành chính nói riêng ở Việt Nam, thì ở nước ngoài
cũng có một số công trình, một số mô hình về tổ chức và hoạt động của Tòa hành
18
chính, chúng ta có thể tham khảo để vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện nước
ta để hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung cũng như hệ thống cơ quan thực hiện
quyền tư pháp ở nước ta nói chung, liên quan đến tổ chức và hoạt động xét xử các
VAHC của TAND cấp tỉnh nói riêng như:
- Tài phán hành chính thuộc hệ thống Anglo-saxons.
Các quốc gia trên thế giới lâu nay cũng có những quan niệm khác nhau về
tài phán hành chính. Sự khác nhau đó xuất phát từ sự khác biệt của những hệ thống
pháp luật khác nhau. Chẳng hạn theo quan niệm của các nước theo hệ thống pháp
luật Anh - Mỹ (Anglo-sacxon), tài phán hành chính là việc giải quyết các tranh chấp
hành chính bằng Tòa án. Tòa án ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ dược tổ chức theo hệ
thống: Tòa liên bang và Tòa các tiểu bang xét xử tất cả các loại việc từ hình sự, dân
sự đến hành chính. Ở Anh, mô hình Tòa án ở thế kỷ XX, trước thập niên 30 cũng có
mô hình như vậy, đến thập niên 50 trở lại đây mới phát triển tài phán hành chính.
Các nước theo hệ thống này giao hoàn toàn xét xử các khiếu kiện hành chính
cho các Tòa án tư pháp. Việc phán quyết về hoạt động hành chính thuộc về Tòa án
thường. Cơ quan hành chính không được hưởng bất kỳ sự ưu ái nào trước cơ quan
tài phán. Hệ thống này với những hình thức khác nhau như: Anh quốc, Hoa Kỳ, và
ở nhiều nước châu Phi như: Sesnegan, Bờ Biển Nga. Các nước ở châu Phi lập ra
một Tòa án cao cấp trong đó có phân tòa chuyên xét xử về hành chính và có thẩm
quyền kép: xét xử các khiếu kiện về tính hợp pháp của văn bản hành chính thông
qua con đường tố tụng lạm quyền (le recour pour exces de pouvoir) và xét xử các
khiếu kiện chống lại các quyết định của Tòa án cấp dưới, bằng con đường phá án
(Giám đốc thẩm).
Theo quan niệm của hệ thống này, lâu nay vẫn ghét cay, ghét đắng việc tạo
ra các tòa án chuyên biệt, với họ chỉ có một loại tòa án, không có chuyên tòa án
hành chính, tòa án thương mại hay tòa án xã hội… đó là các nước thuộc trường phái
Anglo-saxons chính hiệu. Ở những nước này thì các tranh chấp hành chính thuộc về
thẩm quyền cuối cùng của các “court” truyền thống, tức là tòa án tư pháp (hay Tòa
án thông luật - Common Law). Tuy nhiên, những năm gần đây sự can thiệp ngày
càng nhiều của các cơ quan công quyền vào hoạt động kinh tế - xã hội cho nên đã
19
thúc đẩy các quốc gia này tạo ra nhiều thiết chế chuyên biệt để giải quyết tranh chấp
hành chính [61].
- Tài phán hành chính ở một số quốc gia Châu Á
Ở một số nước châu Á như: Nhật bản, Hàn Quốc, Trung Quốc quan điểm về
tài phán hành chính có đặc thù riêng. Chẳng hạn người Trung Quốc quan niệm về
tài phán hành chính là hoạt động xét xử của Tòa án đối với hoạt động đặc biệt tranh
chấp hành chính thông qua một thủ tục riêng là Tố tụng hành chính (Luật kiện tụng
hành chính năm 1990 của Trung Quốc). Ở Nhật Bản do chịu ảnh hưởng của hai hệ
thống pháp luật châu Âu và Anh - Mỹ nên tài phán hành chính có nét pha tạp, các
tranh chấp hành chính được giải quyết thông qua hai con đường tố tụng hành chính
và tố tụng tư pháp (Tòa án).
- Tài phán hành chính theo hệ thống hỗn hợp
Sách tham khảo "Nhà nước pháp quyền" của Josef Thesing [44]. Đây là sách
tham khảo trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
xây dựng Nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới. Nội dung sách do
tập thể các nhà nghiên cứu pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức biên soạn dưới
sự biên tập lại của tác giả Joser Thesing, đã đề cập nhiều nội dung liên quan đến lý
luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền tại nước Đức và một số nước có
liên quan,… Sách đã đề cập đến những đặc điểm cơ bản của chế độ pháp trị được
ghi trong Hiến pháp Đức, pháp trị với tư cách một nguyên tắc hiến định, tự do và
bình đẳng trước pháp luật, tính hợp pháp trong hành pháp, tư pháp và việc bảo hộ
pháp luật,... Về nguyên tắc, hệ thống này trao quyền xét xử về tính hợp pháp của
hoạt động hành chính cho Tòa án hành chính nhưng thẩm quyền xét xử các vụ việc
đòi bồi thường thiệt hại lại thuộc về Tòa án tư pháp. Theo hệ thống này có các
nước: Đức, Italia, Hà Lan, Phần Lan, Luychxembua.
- Tài phán hành chính ở Cộng hòa Pháp
Điều đầu tiên cần nói đến là hệ thống này bao gồm các khiếu kiện về tính
hợp pháp và khiếu kiện đòi bồi thường được giao cho một cơ quan xét xử đặc biệt
đó là các Tòa án hành chính, độc lập hoàn toàn với các Tòa án tư pháp (Tòa án
thường). Đó là hệ thống của Pháp xuất hiện từ thời cách mạng - theo luật ngày 16
20
và 24 tháng Tám năm 1790 và Sắc lệnh số 16 năm thứ III tính theo lịch đã tuyên bố
về sự phân chia giữa quyền lực hành chính và quyền lực tư pháp. Hệ thống này từ
chối việc giao cho Tòa án thường khả năng xét xử các cơ quan hành chính vì nó sẽ
làm lẫn lộn giữa hai ngành hành chính và tư pháp.
Hệ thống pháp luật hành chính, cụ thể là Bộ Luật Công lý hành chính đã tạo
cho nền tài phán hành chính của Cộng hòa Pháp khá phát triển và độc lập với các
Tòa án khác như hình sự; dân sự… Về cấu trúc của hệ thống hành chính ở Pháp
được chia thành 02 nhánh: THC thông thường và THC đặc biệt. Tòa hành chính
thông thường gồm 03 cấp Tòa án: THC sơ thẩm; THC phúc thẩm; Tham chính
viện. THC đặc biệt bao gồm: các THC công; kỷ luật tài chính và các thiết chế kỷ
luật (thường nằm trong các Hội nghề nghiệp như Hội bác sĩ); Ủy ban xử lý kỷ luật
trong các cơ sở giảng dạy đại học; thiết chế tài phán trong lĩnh vực trợ cấp xã
hội… Các thiết chế tài phán đặc biệt này có tên gọi đa dạng, không phải khi nào
cũng là Tòa án, nhưng có thẩm quyền ra phán quyết như Tòa án. Việc xét xử lại
các phán quyết này thuộc thẩm quyền cuối cùng của Tham chính viện. Về thẩm
quyền, tài phán hành chính ở Cộng hòa Pháp đưa ra những phán quyết thuộc các
lĩnh vực sau đây:
- Kiện hành chính đầy đủ: đây là loại kiện mà Thẩm phán có nhiều quyền
hạn nhất: Phán xét trên bình diện pháp luật và cả trên bình diện thực tế của vụ việc;
có quyền buộc cơ quan hành chính phải bồi thường; đưa ra mệnh lệnh buộc cơ quan
hành chính phải thực thi; ra quyết định thay thế cho cơ quan hành chính; kiện bầu
cử, Thẩm phán có thể hủy kết quả bầu cử, tính lại số phiếu và có thể tuyên rằng ứng
cử viên nào thắng phiếu; kiện về xếp hạng công trình; về thuế…
- Kiện hủy quyết định: là loại kiện hướng tới mục tiêu tuyên hủy QĐHC.
Tuy nhiên Thẩm phán không có thẩm quyền ban hành quyết định mới thay thế cho
quyết định bị kiện;
- Kiện giải thích quyết định: đối với loại kiện này, Thẩm phán phải đưa giải
thích chính thức về ý nghĩa của QĐHC;
- Kiện cưỡng chế thi hành: đây là loại kiện trong đó Thẩm phán có quyền
cưỡng chế. Điển hình là thủ tục xử các vi phạm giao thông.