Tải bản đầy đủ (.pdf) (201 trang)

Luận án tiến sĩ nghệ thuật sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí quần thể di tích cố đô huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.49 MB, 201 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Đỗ Xuân Phú

SƠN TRUYỀN THỐNG TRONG NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 9210101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS NGUYỄN QUỐC HÙNG

Hà Nội - 2018


1

LỜI CAM ĐOAN
Công trình nghiên cứu luận án của NCS, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn của PGS,TS. Nguyễn Quốc Hùng, Nguyên Phó Cục trưởng Cục Di
sản Văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với sự góp ý nhiệt tình của các
nhà khoa học, các nhà quản lý....
Luận án tiến sĩ: Sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí Quần
thể di tích cố đô Huế là do NCS viết và chưa công bố.
Các trích dẫn, số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất
xứ rõ ràng.
NCS xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.


Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả luận án

Đỗ Xuân Phú

năm 2018


2

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................ 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT............................................................. 3
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN............................................ 4
MỞ ĐẦU……...………………...……………………...........…..…............... 5
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN
CỨU VỀ SƠN TRUYỀN THỐNG TRONG NGHỆ THUẬT TRANG
TRÍ QTDTCĐH.............................................................................................15
1.1. Khái niệm sơn truyền thống và một số thuật ngữ ....................................15
1.2. Sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí thời Nguyễn…....................19
1.3. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu ...........................................................42
Tiểu kết chương 1............................................................................................54
Chương 2. NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ
CỦA SƠN TRUYỀN THỐNG TRONG QTDTCĐH................................56
2.1. Hiệu quả trang trí trong các đề tài mỹ thuật ............................................56
2.2. Giá trị tạo hình nghệ thuật trang trí trên sơn truyền thống ......................67

2.3. Tính biểu đạt của sơn truyền thống..........................................................91
2.4. Giá trị bền vững của chất liệu kết dính.....................................................97
2.5. Hội tụ và lan tỏa của sơn truyền thống trong đời sống VHXH................99
Tiểu kết chương 2...............….…………………….....…..……...…............103
Chương 3. BÀN LUẬN VỀ NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA SƠN TRUYỀN
THỐNG CÓ TÍNH KHOA HỌC TRONG NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ
QTDTCĐH……...................................................................…………........105
3.1. Cơ sở khoa học chứng minh sơn truyền thống.......................................106
3.2. Vị trí của sơn truyền thống trong dòng chảy..........................................115
3.3. Vai trò quan trọng của mỗi loại sơn ......................................................128
3.4. Một vài biện luận về tính mới của luận án.............................................138
Tiểu kết chương 3.....……………………..........................……...................141
KẾT LUẬN………………….…....……………......……………...............144
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU..........................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………............................….................152
PHỤ LỤC………….........................…………………………....................164


3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

B.A.V.H.

: Bulletin des Amis du Vieux Huế
(Những người bạn cố đô Huế)


C

: Chương

DTCĐH

: Di tích cố đô Huế

GS

: Giáo sư

H

: Hình

HS

: Họa sĩ

KĐĐNHĐSL

: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ

NCS

: Nghiên cứu sinh

NKT


: Ngoài Kinh thành

Nxb

: Nhà xuất bản

PGS

: Phó giáo sư

PL

: Phụ lục

QTDTCĐH

: Quần thể Di tích cố đô Huế

TCT

: Tử Cấm Thành

THT

: Trong Hoàng thành

TKT

: Trong Kinh thành


TLTK

: Tài liệu tham khảo

Tp

: Thành phố

tr

: trang

TS

: Tiến sĩ

TTBTDTCĐH

: Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế

VHXH

: Văn hóa xã hội

Xb

: Xuất bản


4


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 1. Thống kê các họa tiết trang trí bằng sơn truyền thống.......................31
Bảng 2. Thống kê số lượng của các hiện vật trong nội và ngoại thất kiến trúc
gỗ được trang trí bằng sơn truyền thống.........................................31
Bảng 3. Họa tiết trang trí trên 11 ô hộc tại án thờ Thế Miếu..........................64
Bảng 4. Họa tiết trang trí trên 11 ô hộc tại án thờ Hưng Miếu (mặt tiền)......64
Bảng 5. Họa tiết trang trí trên 13 ô hộc tại án thờ Hưng Miếu (mặt hậu).......65
Bảng 6. Thành phần và tính chất của bột màu................................................82
Bảng 7. Vị trí sơn truyền thống ngoài Kinh thành (NKT) và kiểu thức trang trí
.......................................................................................................119
Bảng 8. Vị trí sơn truyền thống trong Kinh thành (TKT) và kiểu thức trang trí
.......................................................................................................120
Bảng 9. Vị trí sơn truyền thống trong Hoàng thành (THT) và kiểu thức trang
trí ..................................................................................................121
Bảng 10. Vị trí sơn truyền thống trong Tử Cấm Thành (TCT) và Kiểu thức
trang trí………......................................……................................121
Bảng 11. Tóm tắt quy trình các lớp sơn trên nền gỗ trong DTCĐH.............136
Bảng 12. Tóm tắt các lớp thí son, thếp vàng lá và phủ hoàng kim trên kiểu
thức trang trí tại di tích cố đô Huế................................................137


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sơn truyền thống trong kiến trúc thời Nguyễn phản ánh sâu sắc tính
thẩm mỹ của cung đình. Chúng không chỉ mang trong mình những giá trị to
lớn về lịch sử, nghệ thuật mà còn chứa đựng cả văn hóa tâm linh, tôn giáo, tín

ngưỡng dân gian..., chúng còn ảnh hưởng bởi tư tưởng chính thống của nho
giáo và hòa đồng với Lão giáo, Phật giáo. Đó chính là đặc trưng của văn hóa
nghệ thuật thời Nguyễn, sơn truyền thống đã tạo nên bản sắc riêng về giá trị
thẩm mỹ, có tính khái quát cao bởi màu sắc và tượng trưng của những kiểu
thức trang trí có ý nghĩa sâu sắc, lắng đọng. Điều đó có được là do các chúa
Nguyễn đã quy tụ những danh nhân kiệt xuất trong lĩnh vực mỹ thuật của cả
nước về Thuận Hóa (Huế), tạo nên những công trình kiến trúc cung đình đậm
tính sơn với những tác phẩm tuyệt tác. Đánh dấu bước phát triển của mỹ thuật
cung đình và góp phần hình thành nên phong cách mỹ thuật riêng của thời
Nguyễn. Ngày nay sơn truyền thống và kiểu thức trang trí vẫn còn được lưu
truyền, giữ gìn và trao truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác trong tương lai,
chúng đã trở thành điểm nhấn mạnh mẽ và không thể thiếu đối với đời sống
con người xưa và nay.
Có thể khẳng định rằng, triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) đã để lại
cho chúng ta một khối di sản đồ sộ về kiến trúc có sử dụng chất liệu sơn cổ
truyền như đồ dùng sinh hoạt, đồ tế tự son thếp và những kiểu thức trang trí.
Ở đây, vai trò quan trọng của sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí
chúng đã góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa dân tộc và mang ý nghĩa
nhân văn về Chân - Thiện - Mỹ rõ nét. Sơn truyền thống trong kiến trúc cố đô
Huế có những sắc màu cổ kính, huyền ảo, ấm cúng và điểm xuyết những họa
tiết, hoa văn trang trí làm nổi bật chủ đề được truyền tài từ dân gian của một
thời kỳ vàng son tráng lệ.


6

Chất liệu sơn truyền thống Việt Nam vốn được coi là kho báu giúp cho
công tác bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa có giá trị thẩm mỹ. Tạo điều kiện
cho các làng nghề sơn phát triển trong mạch chảy văn hóa sơn khắp mọi miền
tổ quốc. Từ ưu thế đó, thời Nguyễn đã vận dụng có hiệu quả chất liệu sơn

truyền thống trong kiến trúc cung đình mỹ thuật và chúng được bao phủ và tô
điểm lộng lẫy trên các đồ sơn, cấu kiện và những kiểu thức trang trí... bằng
đôi bàn tay khéo léo, đôi mắt thẩm mỹ và có tính sáng tạo của các nghệ nhân,
người thợ sơn đã sáng tác ra những sản phẩm đồ sơn trang trọng phục vụ cung
đình. Chất liệu sơn đã trở thành mạch sống kết nối giữa cái tâm hồn, cái đẹp
của những kiểu thức trang trí làm phong phú, đa dạng chính thể triều đình,
chúng đã góp phần tăng thêm giá trị thẩm mỹ, giá trị dân gian và mang đậm
tôn giáo tín ngưỡng với đầy đủ ngôn ngữ biểu đạt của sơn truyền thống.
Thực tế cho thấy, sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí tại Quần
thể di tích cố đô Huế (QTDTCĐH) được các nghệ nhân sử dụng với mục đích
làm đẹp cung điện và trang nghiêm nơi thờ cúng gia tiên. Sự xuất hiện của
cặp màu vàng - đỏ, đen - đỏ, vàng bạc trên các kiểu thức trang trí và cặp màu
xanh, lục trên đường viền hoặc các ô hộc của sơn truyền thống đã làm tăng
thêm vẻ đẹp lộng lẫy và tính trang nghiêm nơi thờ cúng của chúa Nguyễn.
Các tác phẩm mỹ thuật có sử dụng sơn truyền thống chiếm một tỷ lệ khá
khiêm tốn, nhưng vẫn cho thấy sự lớn mạnh, hùng hậu trong các cung, điện,
lăng tẩm. Bên cạnh đó, so sánh với những tác phẩm khác được thể hiện bằng
chất liệu sành sứ, pháp lam, tranh kính màu, đồ gốm, đồ đồng, đồ đá, mành
tre, xà cừ, gạch lát nền, tường bao và ngói màu các loại....để tăng thêm giá trị
cuar sơn truyền thống. Bản thân giữa chúng có nhiệm vụ mục đích bổ sung
cho nhau, làm phong phú các chất liệu với nhau và tồn tại trong chuỗi di sản
của cung đình mỹ thuật triều Nguyễn một thời vàng son. Đề tài nghiên cứu về


7

lý thuyết và thực tiễn, góp phần thiết thực trong sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước nói chung, nói riêng nghề sơn và du lịch tại QTDTCĐH.
Nghiên cứu sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí trên các cấu
kiện, ô hộc để tìm thấy những tinh hoa, phẩm chất cao quý. Mang ý nghĩa tôn

vinh giá trị thẩm mỹ của sơn và các họa tiết, ngoài ra biết được những tồn tại,
hạn chế để đề xuất các giải pháp bảo tồn. Trong nghiên cứu về sơn cổ truyền
mới thấy hết được giá trị “văn hóa sơn” ở thời Nguyễn có tầm quan trọng
trong xu thế phát triển của thời đại. Bản thân chúng góp phần bảo tồn các giá
trị thẩm mỹ vốn có của cha ông ta để lại, đồng thời nhìn nhận, đề suất các giải
pháp nhằm tôn tạo những di sản đang có nguy cơ bị mai một dần bởi nhiều
yếu tố khách quan.
Đây là tính cấp thiết khi nghiên cứu đề tài này, những khái niệm và
thuật ngữ được đề cập là mục đích khẳng định để có cơ sở lý luận của luận án.
Nghiên cứu vị trí, vai trò, đặc trưng của sơn truyền thống và tinh hoa nghệ
thuật trang trí để làm chúng bật lên so với các chất liệu khác cùng thời. Như
vậy, có thể khẳng định sơn truyền thống có vai trò khá quan trọng trong nghệ
thuật tạo hình ở QTDTCĐH, nhưng chưa có nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đã trình bày trên, do vậy
nghiên cứu sinh chọn đề tài Sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí
Quần thể di tích cố đô Huế để thực hiện luận án tiến sĩ chuyên ngành Lý luận
và Lịch sử Mỹ thuật.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích tổng quát
- Luận án chứng minh và khẳng định sơn truyền thống trong nghệ thuật
trang trí ở QTDTCĐH được tồn tại từ thế kỷ thứ XIX cho đến ngày nay.


8

- Luận án hướng đến xác lập những căn cứ khoa học và thực tiễn của
sơn truyền thống để làm sáng tỏ giá trị thẩm mỹ kiến trúc, hiện vật và những
kiểu thức trang trí được thăng hoa trong DTCĐH.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến đề tài sơn truyền thống

trong DTCĐH của thời Nguyễn để lại.
- Tìm hiểu diện mạo của sơn truyền thống trong tiến trình lịch sử của
dân tộc về nguồn gốc, xuất xứ và kỹ thuật chế tác sơn của QTDTCĐH.
- Nhận diện sự hài hòa giữa các tác phẩm mỹ thuật làm bằng sơn truyền
thống và các tác phẩm của một số chất liệu khác trong nghệ thuật trang trí
DTCĐH.
- Tìm ra những minh chứng khẳng định giá trị mỹ thuật của các tác
phẩm có sử dụng sơn truyền thống
- Xác định những giá trị thẩm mỹ của những kiểu thức trang trí có đặc
điểm tạo hình dân gian, như các bộ đề tài Tứ linh, Tứ thời, bát bửu, án thờ,...
và đặc biệt hình tượng rồng trên các hàng cột ở điện Thái Hòa chúng được
biểu hiện bởi chất liệu sơn truyền thống.
- Đánh giá, phân tích và khẳng định giá trị của sơn truyền thống trong
nghệ thuật trang trí dưới thời Nguyễn và làm sáng tỏ những cái đạt được và
chưa được của công tác sơn.
- Góp thêm tiếng nói có luận cứ khoa học trong việc khẳng định giá trị
của chất liệu sơn truyền thống và nghệ thuật trang trí. Nhằm bảo tồn và phát
huy các tác phẩm mỹ thuật có sử dụng sơn truyền thống trên cơ sở giữ gìn, kế
thừa, phát huy những giá trị truyền thống vốn có làm thăng hoa cung đình mỹ
thuật thời Nguyễn trong dòng chảy mỹ thuật dân tộc nước nhà.


9

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chất liệu sơn truyền thống trong
nghệ thuật trang trí di tích cố đô Huế, như những kỹ thuật chế tác, kỹ thuật
khắc chạm họa tiết trang trí điêu luyện, kỹ thuật dát vàng, bạc lá tinh tế.
Nghiên cứu đặc trưng của chất liệu sơn truyền thống (sơn cổ truyền,

sơn mỹ nghệ, sơn ta, sơn thếp, sơn quang, sơn phủ hoàng kim... ), có nhu cầu
thẩm mỹ (làm đẹp) các công trình kiến trúc gỗ như trên các kiểu thức trang trí
của các hiện vật, đồ sơn, đồ sinh hoạt của các bà hoàng, quan lại và trên các
cấu kiện, hàng cột, án thờ, ô hộc... tại cung điện, đền đài, lăng tẩm, khẳng
định thêm giá trị sơn truyền thống. Nghiên cứu đặc trưng kiểu thức trang trí
của DTCĐH để làm sáng tỏ giá trị nghệ thuật tạo hình, các họa tiết mang đậm
tính dân gian, gần gũi, thân thiện với thiên nhiên cả nước, đã hội tụ bản sắc
dân tộc trên nghệ thuật trang trí. Nghiên cứu sơn truyền thống góp phần nhận
diện dấu ấn riêng cũng như sự phong phú đa dạng của mỹ thuật cung đình
thời Nguyễn trong dòng chảy của Mỹ thuật dân tộc.
Tuy nhiên, để làm rõ diện mạo và sự đóng góp của sơn truyền thống
trong QTDTCĐH, luận án mở rộng tìm hiểu sơn truyền thống trong tỉnh Thừa
Thiên Huế và đặc biệt so sánh giữa sơn truyền thống ở Hưng Miếu - DTCĐH
với Văn Miếu - Quốc Tử giám ở Hà Nội mục đích tìm ra sự khác biệt giữa
màu sơn giũa chúng với nhau, mục đích để phân tích và làm sáng tỏ đề tài
nghiên cứu của luận án và phân tích so sánh giữa các công trình sơn cùng thời
Nguyễn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu chất liệu sơn truyền thống trên các
công trình kiến trúc có tính dân tộc tiêu biểu như điện Thái Hoà, Thế Miếu,
Hưng Miếu, Hiển Lâm Các và lăng Tự Đức...


10

- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu, tìm hiểu sơn truyền thống thời
Nguyễn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, với các dấu mốc thời gian cụ thể
gắn với việc trang trí các họa tiết trên kiến trúc cung đình biến đổi theo thời
gian.
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu

4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Để trả lời cho giả thuyết, NCS có thể nêu ra một số câu hỏi nghiên cứu,
nhằm mục đích làm sáng tỏ đề tài có tính khoa học hơn. Vì sao sơn truyền
thống được ưa chuộng trong trang trí kiến trúc ở nước ta? Có bao nhiêu loại
sơn truyền thống trong trang trí mỹ thuật cung đình Huế? Sơn truyền thống
thường được sử dụng cho mục đích trang trí ngoài ra còn mục đích gì? Chất
liệu của nó có bền chặt hay không? Những vật liệu gì phù hợp cho đề tài trang
trí gắn kết sơn truyền thống? Các tác phẩm mỹ thuật sử dụng sơn truyền
thống ở Huế với tư cách là kinh đô có khác gì với các địa phương khác? Tỷ lệ
các kiến trúc, hiện vật được trang trí bằng sơn truyền thống so với các thể loại
và chất liệu khác ở Huế? Đội ngũ nghệ nhân thực hiện các sản phẩm thô, phác
thảo (thợ mộc) và nghệ nhân sơn son thếp vàng? Hiện tượng sơn bị uốn cong
và bong tróc ra từng mảng? Lớp phủ trên có dát bạc bị phai nhạt để lại những
mảng màu vàng và bạc chen kẻ lốm đốm? Tại sao không thếp vàng lá thay
cho bạc lá? và tại sao phải trộn bột đá với đất phù sa trong các lớp hom? v.v...
Từ đây các câu hỏi sẽ được trả lời thông qua các kết quả nghiên cứu
phải đạt được là:
- Cho thấy rõ, sơn truyền thống góp phần tô đẹp kiến trúc và hiện vật
đồ sơn tại DTCĐH, hay nói cách khác sơn truyền thống có vai trò rất quan
trọng trong nghệ thuật trang trí, bởi bề mặt của nền sơn được phủ lên một lớp
sơn son và thếp vàng rực rỡ trong cung đình mỹ thuật thời Nguyễn.


11

- Sơn truyền thống đem lại giá trị thẩm mỹ và thăng hoa cho các họa
tiết trang trí trong QTDTCĐH.
- Bằng lý luận và lịch sử mỹ thuật đề tài được khẳng định và làm sáng
tỏ một số công trình đạt kết quả, bên cạnh một số bị hư hỏng của sơn truyền
thống trong QTDTCĐH.

4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Trong thực tiễn, tại các di tích lịch sử và DTCĐH có một nền tảng
chung sử dụng chất liệu sơn truyền thống, nhưng chưa hẳn mỗi di tích đã có
được sự thống nhất cao về kỹ thuật chế tác sơn, các công đoạn bó, hom, thí...
mà mỗi nơi có kỹ thuật riêng tùy thuộc vào kinh nghiệm của người thợ sơn và
nghệ nhân thời xưa cho đến bây giờ. Vì vậy, nguyên nhân do đâu. Làm thế
nào để có thêm những căn cứ để xác lập, đánh giá và thẩm định chất lượng và
quy trình chuẩn về sơn truyền thống? Vấn đề đặt ra là có thể tìm thêm những
cơ sở khoa học nào để đánh giá đúng hơn về giá trị bền vững của chất liệu,
tránh sự ảnh hưởng không tốt từ nhiều phía như sơn sống có pha thêm dầu
hỏa, sơn kém chất lượng trong thời gian thu hoạch v.v...
NCS thấy rằng, trong quá trình hình thành phát triển những di sản văn
hóa dân tộc. Sơn truyền thống trong DTCĐH là một chất liệu mang tính trang
trí rõ nét và đặc biệt, chứng tỏ khả năng dung hợp, khả năng tiếp biến văn hóa
trong sự giao lưu với các nước lân bang thời bấy giờ. Sơn và kiểu thức trang
trí có sức sống mãnh liệt và chứa đựng khả năng tạo hình vô tận thông qua trí
óc và đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân, họ tạo nên những giá trị đặc sắc
trong mỗi họa tiết, hoa văn trang trí đậm bản sắc dân tộc và có giá trị nhân
văn trong mỗi tâm hồn và trí tuệ của con người Việt Nam.
Giả thuyết khoa học mà NCS đặt ra là: Trong quá trình thực hiện những
tác phẩm mỹ thuật thời Nguyễn nếu như không có chất liệu sơn truyền thống?
Thử hỏi những công trình kiến trúc muốn làm đẹp và có tính bền vững thì sử


12

dụng chất liệu gì để thay thế? Nên yếu tố quyết định để tạo ra sự bền vững và
sản phẩm đẹp đó chính là mủ sơn, trải qua quá trình tinh luyện để trở thành
sơn chín, sơn cánh gián, sơn quang, sơn phủ hoàng kim.... chúng đại diện sơn
truyền thống để nói lên tiếng nói chung trong các di tích lịch sử và DTCĐH.

Hầu hết, sơn truyền thống được sử dụng để trang trí các kiến trúc, các hiện vật
tại QTDTCĐH, những công trình vàng son rực rỡ hòa chung với những tác
phẩm mỹ thuật của các chất liệu khác nhằm bổ sung và làm sang trọng mỹ
thuật cung đình thời Nguyễn thời bấy giờ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của nghiên cứu là so sánh, đối chiếu, đối sánh, liên
hệ, liên tưởng các hiện tượng sơn và kiểu thức trang trí cung đình mỹ thuật
thời Nguyễn. Ngoài ra NCS còn sử dụng những phương pháp khác ở mức độ
nhất định trong luận án như.
5.1. Phương pháp hệ thống
Phương pháp hệ thống là thống kê hiện tượng sơn truyền thống hiện
hữu trên các đồ sơn, hiện vật trong nghệ thuật trang trí. Trên cơ sở đó, luận án
sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá cụ thể về ý nghĩa của sơn son thếp vàng.
Phương pháp còn hệ thống những hoa văn có họa tiết trang trí mang tính nhân
văn của xã hội. Trên cơ sở đó, đối sánh giữa công trình sơn truyền thống ở
Hưng Miếu tại QTDTCĐH và công trình Văn Miếu, Quốc Tử Giám, Hà Nội
để tìm ra những điểm khác biệt giữa chúng về sơn phủ hoàng kim.
5.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Luận án sử dụng phương pháp liên ngành chính là phương pháp tiếp
cận đa chiều các ngành khoa học khác nhau như Văn hóa, Sử học, Mỹ học,
Dân tộc học và Nghệ thuật học…, nhằm tìm hiểu và khai thác các đối tượng
cần nghiên cứu, bao gồm các kỹ thuật và thao tác sơn truyền thống cũng như
nghệ thuật trang trí và lịch sử của nghề sơn.


13

5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu cho phép người
nghiên cứu nhìn nhận vấn đề một cách chỉnh thể, từ đó rút ra những kết luận,

những tổng kết, đánh giá về các vấn đề của chất liệu sơn truyền thống trong
DTCĐH.
5.4. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin
Phương pháp thu thập, xử lý thông tin, điền dã tại QTDTCĐH đối với
chất liệu sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí bằng quan sát ghi chép,
đọc tư liệu, phiếu phỏng vấn người thợ sơn, các nhà quản lý phục vụ nghiên
cứu và xử lý nguồn thông tin bằng phân tích tổng hợp.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Trên cơ sở học hỏi và kế thừa những kết quả nghiên cứu và lý luận của
những đề tài trước đó, đề tài của NCS bước đầu tổng hợp, hệ thống và bổ
sung trên cơ sở lý luận về sơn truyền thống thời Nguyễn. NCS nhận thấy đề
tài Sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí Quần thể Di tích cố đô Huế,
chưa có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Đây là cơ sở để đóng góp tính
mới về lý thuyết có tính khoa học của đề tài, một hướng nghiên cứu cần thiết
đối với chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật nói riêng và ngành Mỹ
thuật nói chung.
Ngoài ra, đề tài tập trung phân tích và tìm ra cái thẩm mỹ (cái đẹp) của
mỗi công trình. Sơn truyền thống đem lại giá trị thẩm mỹ của những kiểu thức
trang trí trong DTCĐH.
Nhận diện những tác phẩm mỹ thuật tạo hình có giá trị biểu cảm chất
liệu sơn truyền thống rực rỡ bởi sắc màu đỏ, vàng và được xem đây cũng là
tính mới trong luận án. Đồng thời đề tài còn hướng đến phân tích cụ thể các
tác phẩm nghệ thuật trang trí, đồ sơn bằng sơn truyền thống trên các biểu
bảng.


14

Phân tích sự hài hòa giữa các tác phẩm mỹ thuật có sử dụng sơn truyền
thống và các tác phẩm mỹ thuật thuộc các chất liệu khác tạo nên sự đa dạng

và phong phú mỹ thuật cung đình Huế.
Và sưu tập, dẫn chứng những tư liệu quý hiếm của thời Nguyễn để có
cơ sở lý luận về sơn truyền thống, đó cũng là tính mới trong luận án.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu (10 trang), Kết luận (7 trang), Tài liệu tham khảo
(12 trang) và Phụ lục (35 trang), nội dung của luận án được kết cấu thành 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận, tổng quan tình hình nghiên cứu về sơn
truyền thống trong nghệ thuật trang trí QTDTCĐH (41 trang)
Chương 2. Những giá trị tiêu biểu nghệ thuật trang trí của sơn
truyền thống trong QTDTCĐH (49 trang)
Chương 3. Bàn luận về những giá trị của sơn truyền thống có tính
khoa học trong nghệ thuật trang trí QTDTCĐH (39 trang)


15

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ
SƠN TRUYỀN THỐNG TRONG NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
1.1. Khái niệm sơn truyền thống và một số thuật ngữ
1.1.1. Khái niệm sơn truyền thống
Khi nói về sơn truyền thống trong các di tích lịch sử nói chung và nói
riêng QTDTCĐH, chúng ta thử hỏi có biết bao nhiêu con người đã thấu hiểu
đầy đủ về kỹ thuật và tên gọi của nó? Thật sự, mỗi khi chúng ta quan tâm, tìm
hiểu, nghiên cứu về chất liệu sơn truyền thống mới thấy được giá trị thẩm mỹ
của nó. Thời Nguyễn, nhận biết sơn truyền thống trong mỗi công trình kiến
trúc có vị trí vai trò rất quan trọng, nên đã sử dụng nó phủ khắp cung đình.
Chất liệu sơn truyền thống còn có tên gọi khác là sơn cổ truyền, sơn mỹ nghệ

hay sơn ta. Trong thực tế, thường nhật con người thường gọi là “sơn ta” nhiều
hơn cụm từ sơn truyền thống, sơn mỹ nghệ vì tính chất của nó mang tính địa
phương nhiều hơn, mặt khác để chỉ rõ sự khác biệt giữa sơn Tây, sơn Tàu,
sơn Nhật và theo cách gọi dân gian ấy nhằm để phân biệt với sơn công nghiệp
hiện đại ngày nay.
Những vết tích đầu tiên về sơn truyền thống ở Việt Nam đã được khai
quật hàng trăm năm trước công nguyên. Thời Đinh (930-950) đã biết sử dụng
sơn truyền thống để sơn lên chiếc ghe thuyền vượt sông trong thời kỳ chiến
tranh, không chỉ vậy nó còn được trang trí đồ sơn, hoành phi, ngai kiệu, án
thờ và những kiến trúc cung điện nguy nga lộng lẫy. Đứng trước những ưu
điểm nổi bật đó nên sơn truyền thống là chất xúc tác cho con người thời bấy
giờ phải trăn trở đón nhận và ứng dụng nó trong di tích thời Nguyễn.
Sơn cổ truyền một lần nữa khẳng định sự khác biệt giữa sơn cổ truyền
Việt Nam với các loại sơn khác như sơn Nam Vang của Campuchia, sơn


16

Nhật, sơn Trung Quốc (Tàu) hoặc sơn hạt điều trong nước. Thuật ngữ sơn
truyền thống (sơn mỹ nghệ, sơn cổ truyền) được viết trên văn bản và sách vở,
còn trong giao tiếp của người dân địa phương thường gọi là sơn ta, chúng vừa
ngắn gọn, dễ hiểu. Hơn nữa cụm từ “sơn ta” đã thấm sâu vào tâm hồn và ký
ức của mỗi người dân miền Bắc nói chung và nói riêng ở tỉnh Phú Thọ, nhất
là đối với sinh viên các trường Mỹ thuật có chương trình đào tạo chất liệu sơn
truyền thống, cũng như đối với các nhà quản lý, nghệ nhân, người thợ trong
công tác bảo tồn các di tích lịch sử Việt Nam và Quần thể di tích cố đô Huế.
Vậy khái niệm sơn truyền thống, là chất liệu chuyên dụng trong các di
tích văn hóa lịch sử Việt Nam. Một chất liệu được chiết suất từ mủ cây sơn để
tinh chế và trở thành các loại sơn quý hiếm làm đẹp di tích và bằng những kỹ
thuật theo lối cổ truyền đã để lại cho di tích những dấu ấn sắc son về sơn thếp

trong lòng của mỗi người thợ, quản lý và dân địa phương. Ngày nay, sơn
truyền thống (sơn cổ truyền...) trong đời sống thường nhật và trong các tác
phẩm mỹ thuật có tên gọi khác đó là sơn mài Việt Nam.
1.1.2. Một số thuật ngữ sơn truyền thống sử dụng trong DTCĐH
Thời Nguyễn, những thuật ngữ sơn truyền thống chỉ định rõ nét những
nghề nghiệp tương ứng như Kim tượng ty (Ty thợ thếp vàng), Ngân tượng ty
(Ty thợ thếp bạc) có nghĩa là chuyên thếp vàng, bạc lá trên các họa tiết trang
trí; Tất tượng cục (Cục thợ làm nghề sơn thếp) chuyên sơn sửa và làm mới
công trình kiến trúc có sơn son thếp vàng trên các kiểu thức; Họa tượng ty
(Ty thợ vẽ) vẽ các họa tiết lên trên nền gỗ và nền sơn truyền thống, Mộc
tượng ty (Ty thợ mộc), Long tú tượng ty (Ty thợ thêu rồng), Nề tượng cục
(Cục thợ nề), Pháp lam tượng cục (cục thợ làm pháp lam)...
Như đã trình bày, khái niệm sơn truyền thống và các tượng cục mở đầu
cho việc nhận diện chất liệu sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí, bởi
những quy trình về kỹ thuật sơn đem lại những thủ thuật, thủ pháp biểu hiện


17

trên các đồ vật, cấu kiện gỗ, ván tường hay cột trụ... tạo thành những đồ sơn
có giá trị thẩm mỹ nhất định. Sơn truyền thống khá phức tạp về mặt kỹ thuật,
nên những thuật ngữ và khái niệm mang tính nghề nghiệp đặc thù. Chúng có
liên quan trực tiếp đến quy trình sơn truyền thống, sơn cổ truyền, son thếp,
sơn quang bóng và nền cốt gỗ (vóc), hom bó, sơn son thếp bạc hay vàng, mài
phẳng, khắc nét, lớp màu, chồng các lớp hom, lớp thí sơn. Sơn ta, sơn chín rất
cần thiết đối với DTCĐH nên NCS hệ thống một số thuật ngữ thường dùng
trong quá trình thao tác của nghề sơn truyền thống ở DTCĐH cụ thể như sau:
- Cốt gỗ là nguyên liệu chính trong việc tạo tác thành nền mộc như các
kiểu thức trang trí, những cấu kiện, hàng cột, ô hộc, ván tường, cơi trầu, án
thờ, khánh thờ và kiệu võng...

- Phất vải (phủ vải) trên nền gỗ của các sản phẩm, mục đích tránh sự co
giản và tạo nền bám vững chắc cho lớp bó sơn, hom sơn...
- Bó sơn là trát lên nền mặt gỗ có phủ vải hoặc không phủ vải một lớp
sơn gồm sơn sống trộn với đất phù sa và mạt cưa.
- Hom là công đoạn sử dụng sơn sống trộn với đất phù sa để hom lên
những đồ sơn như câu đối, án thờ, khánh thờ, kiệu võng, long sàng... để nơi
mát mẻ và tránh ở vị trí khô nóng làm rạn nứt mặt hom.
- Lót sơn là lót lên mặt hom nhiều lớp sơn sống làm nền.
- Mài sơn là mài các lớp sơn (mài bó, hom, lót sơn, thí sơn) cho phẳng
phiu bằng đá mài hoặc giấy ráp (giấy nhám).
- Thí sơn cũng như chồng lớp sơn, lớp màu lên trên nền vóc hoặc trên
các họa tiết trang trí. Hòa trộn màu son (đỏ) với sơn chín tô phủ lên bề mặt
các kiểu thức, đồ sơn, hàng cột...
- Vóc sơn có nghĩa là cốt gỗ được xử lý qua các công đoạn từ bó sơn
đến thí son gọi là vóc.


18

- Sơn cầm, tô quét mỏng một lớp sơn cầm trên nền vóc có họa tiết để
dát (thếp) vàng hay bạc lá.
- Sơn thếp, thếp (dát) vàng bạc chính là sử dụng kim loại quý của nghề
kim hoàn được người thợ dát mỏng. Chúng được thếp lên các họa tiết trang trí
hoặc đường viền, đường diềm của họa tiết trong và ngoài ô hộc.
- Sơn quang (dầu) là nước sơn được phủ nhiều lần lên các cấu kiện gỗ
có hoặc không có kiểu thức trang trí. Chúng tạo sản phẩm có độ bóng như
công trình kiến trúc cung Diên Thọ và điện Long An.
- Sơn phủ hoàng kim, loại sơn phủ trên bề mặt của vàng, bạc lá và trên
nền màu son (đỏ).
- Sơn sống là một loại mủ sơn được chiết xuất từ cây sơn Phú Thọ

- Sơn cánh gián (sơn chín) được khuấy chín bởi sơn sống loại tốt (sơn
giọi nhất) với nhựa thông để trộn với màu son (đỏ) tô phủ mặt nền và họa tiết
trang trí trong QTDTCĐH.
- Sơn then được tinh chế từ sơn sống trộn với bột sắt, tô phủ lên mảng
tường, cột kèo có các họa tiết trang trí...
- Sơn son thếp vàng có nghĩa kết hợp hai công đoạn sơn son nền và dát
vàng hoặc bạc lá phủ hoàng kim.
- Sơn ta (sơn mỹ nghệ, sơn cổ truyền, sơn truyền thống) chính là sơn
sống, những cụm từ đó được sử dụng chung trong nghề sơn.
- Sơn hạt điều, sơn Nhật được tinh luyện theo công nghệ hiện đại, ưu
điểm nhanh khô, không bị lở loét da thịt người của thợ sơn; nhược điểm
nhanh chóng bong tróc thành từng mảng, vì vậy trong DTCĐH không nên sử
dụng hai loại sơn này.
- Sơn mật dầu là lớp mật loãng, có màu nâu sẫm, nổi trên mặt sơn, rất
khó khô và có khi không khô, công dụng pha chế và che chở các lớp sơn bên
dưới như sơn giọi nhất, nhì, thịt.


19

- Dầu đồng là một loại dầu có sắc đỏ, như dầu nhựa thông.
- Ngân châu có nghĩa là chất thuốc màu sắc đỏ, lấy lưu hoàng và thủy
ngân chế thành, được hiểu như màu son (đỏ) ngày nay.
- Thổ phấn châu, trong Hán Việt dịch thuật chữ thổ có nghĩa là đất (đất
thó), còn từ phấn như phàm vật gì tán nhỏ gọi là phấn, châu là sắc đỏ. Được
hiểu là đất mịn có màu nâu đỏ (bột chu) để trộn với sơn sống và hom bó.
- Phấn châu, Phấn có nghĩa là vật nghiền ra rất nhỏ gọi là phấn và châu
là sắc đỏ.
- Khắc nét là dùng các loại đục bạt, vũm, tách có nhiều kích cỡ, sử
dụng linh hoạt trong khắc chạm nông sâu họa tiết trang trí.

- Vẽ nét chính là sử dụng bút lông có kích cỡ nhỏ, người thợ vẽ nét
theo mẫu lên nền sơn son hoặc nền gỗ bằng chất liệu sơn then, sơn cầm; cụ
thể từng chi tiết của họa tiết để sơn son thếp vàng, còn đối với vẽ nét chạm
khắc sử dụng bút chì để vẽ nét thành họa tiết.
1.2. Sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí thời Nguyễn
1.2.1. Khái quát về chất liệu sơn truyền thống trong nghệ thuật trang
trí di tích cố đô Huế
Thời Nguyễn tinh tế chọn Huế làm thủ phủ (1802-1945), kế thừa và
phát triển mạnh mẽ những tinh hoa của các thời kỳ trước đó, nhất là thời Lý.
So sánh với kiến trúc di tích của cả nước thì tuổi đời mỹ thuật cung đình thời
Nguyễn còn non trẻ, chỉ có 143 năm hình thành xây dựng kinh thành, nhưng
cũng vừa đủ để góp thêm tiếng nói của các chất liệu khác mà trong đó chất
liệu sơn truyền thống và nghệ thuật trang trí nổi bật nhất. Sơn truyền thống
đóng vai trò chủ đạo trong kiến trúc DTCĐH, bởi giá trị nhân văn của nó biểu
hiện rõ nét trên các kiểu thức trang trí. Chúng vẫn còn gắn bó với các nhân
chứng sống đó là “các kiểu thức trang trí” và “chất liệu sơn truyền thống ”
được định hình cụ thể trong QTDTCĐH ngày nay.


20

Thuận Hóa (Huế) là nơi hội tụ các bậc tài năng, trí tuệ của cả nước.
Cùng với kiến trúc, điêu khắc, sơn cổ truyền hiện hữu khắp nơi, từ cung điện,
đền miếu, đền đài lăng tẩm của vua chúa cho đến các đình, chùa, nhà thờ họ
đều được sơn son thếp vàng lộng lẫy. Các vật dụng sinh hoạt từ trong cung
đình cho đến dân gian như các gia đình quyền quý với những đồ sơn quen
thuộc như hoành phi, câu đối, đáp, hộp, kiệu võng, án thư, sạp tủ đều được
sơn cổ truyền tô điểm trang trọng, uy nghi. Sơn cổ truyền Huế được sinh hoạt
theo từng cụm gia đình, họ hàng theo kiểu cha truyền con nối như một số
ngành nghề thủ công khác.

Có thể nói cái nôi của nghề sơn truyền thống Huế tập trung ở các làng
như Địa Linh, Triều Sơn, Tiên Nộn ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong đó làng
Tiên Nộn - xã Phú Mậu - huyện Phú Vang cách thành phố Huế khoảng 10 km
về hướng Đông - Bắc, được xem là làng nghề sơn cổ truyền tại xứ Huế. Vào
thời vua Khải Định đã trưng dụng cụ Nguyễn Đức Bùi vào cung đình phục
chế sơn son thếp vàng. Trong kỹ thuật chế tác từ sơn sống làm ra sơn cánh
gián để điều chế ra các màu, các loại sơn thì người thợ sơn đánh sơn rất vất
vả, công lao của họ được đền đáp bằng những công trình sơn truyền thống
biểu hiện rõ nét trên những kiểu thức trang trí.
Ngoài những kiến trúc có sử dụng chất liệu sơn truyền thống như Ngọ
Môn, điện Thái Hoà và Thế Miếu… Thời Nguyễn, còn cho xây dựng nhà hát
Duyệt Thị Ðường, Tĩnh Quang Viện, Thông Minh Ðường, Minh Khiêm
Ðường ở Khiêm Lăng, thành lập Thanh Bình Thư được sơn son thếp vàng
lộng lẫy và kiểu thức trang trí phù hợp với chức năng diễn xuất của diễn viên
tuồng dưới thời vua Minh Mạng. Thành lập Ban Hiệu Thư dưới thời vua Tự
Ðức chuyên nhuận sắc, chỉnh lý, hiệu đính và sáng tác tuồng, những cơ sở
được tô vẽ trang trí họa tiết bằng sơn truyền thống giàu tính dân tộc và được


21

coi như toàn bộ công trình là một “khối thống nhất sơn” mạnh mẽ, đặc trưng
và sánh với các chất liệu khác cùng thời.
Các công trình kiến trúc cung đình dưới thời Nguyễn theo lối dàn trải,
không cao theo hướng vút lên bầu trời so với một số kiến trúc ở miền Bắc,
nhưng kiến trúc thời Nguyễn có kiểu thức trang trí được phủ lớp sơn truyền
thống độc đáo và nổi bật, bắt mắt nên tác giả Phan Thuận An trong bài viết
Kiến trúc cố đô Huế khẳng định “…Với vật liệu chính là gỗ, các cung điện
làm theo kiểu nhà kép, gọi là trùng lương trùng thiềm. Trang trí nội ngoại thất
đều rất phong phú bằng hình ảnh và thư văn chen kẽ nhau theo lối nhất thi

nhất họa. Chạm trổ tỉ mỉ, công phu, tinh tế” [2, tr.37]. Cho thấy, thời Nguyễn
đã chú tâm đến kiến trúc cung đình bằng nghệ thuật tạo hình độc đáo trong
các chất liệu như khảm sành sứ, tranh gương, đúc đồng, đặc biệt chất liệu sơn
truyền thống mà nổi trội hình chạm khắc cầu kỳ, chúng tôn vinh vẻ đẹp tạo
hình lẫn nhau. Ở đây mảng sơn truyền thống có mặt hầu hết ở nội và ngoại
thất cung điện, xử lý thành thạo các thao tác, công đoạn trong phần kỹ thuật
một cách có tính chủ động trong bộ tứ linh, tứ thời độc tôn. Nghệ thuật trang
trí với những kiểu thức được biểu hiện bằng sắc đỏ, vàng lộng lẫy, chúng sắc
sảo, sinh động về đường nét; phải công nhận sự tìm tòi, sáng tạo tài hoa của
các nghệ nhân thời bấy giờ. Những kiểu thức ấy có sự tác động trở lại với đời
sống mỹ thuật trong sự tiếp nhận thuộc tính tạo hình ở cung đình mỹ thuật
triều Nguyễn. Tác giả Gia Bảo trong bài viết Những ý tưởng sáng tạo trong
hội họa đã trình bày “Hiếm thấy một chất liệu tạo hình khác có sự giao hòa
giữa cung đình mang đặc trưng như vậy” [6]. Chính yếu tố về các dấu tích của
sơn truyền thống trong ở các đình, chùa, làng xã có tính tương đồng. Điều đó
phản ánh sự giao thoa giữa nghệ thuật dân gian và cung đình tạo ra một mạch
thống nhất mạnh mẽ trong chất liệu sơn truyền thống.


22

Mỹ thuật thời Nguyễn, chú trọng đến sơn truyền thống với các họa tiết
khắc chạm đã để lại những báu vật có giá trị thẩm mỹ của những tác phẩm
nghệ thuật mang phong cách truyền thống, như hình tượng rồng, phượng, bát
bửu, chữ viết trên các ô hộc... Nghệ thuật cung đình hòa quyện cùng nhau tồn
tại và phát triển, là điểm nhấn làm tôn lên các họa tiết trang trí. Giai đoạn đầu
phát triển trên cơ sở kế thừa mỹ thuật thời Lê, hình tượng rồng với họa tiết
uốn lượn quen thuộc. Thời Minh Mạng là giai đoạn hưng thịnh, nhà vua tiến
hành cải cách hành chính, xác lập vương quyền, cải cách phong tục, phát triển
kinh tế. Trong quá trình phát triển ấy nhà Nguyễn đã biết tiếp thu có chọn lọc

nền nghệ thuật Trung Quốc và phương Tây điển hình như kiến trúc lăng Khải
Định.
Họa tiết trang trí trên nền gỗ có sơn truyền thống ở di tích cố đô Huế,
đòi hỏi có nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu đó. Thời Nguyễn, hình thức
tuyển dụng nhân công theo quy chế bắt buộc và có tính thường xuyên còn gọi
là thợ giản, thợ kén, thợ chọn mà tác giả Nguyễn Sĩ Giác nhận định “Phàm
các thợ, hàng năm cứ tháng 12, liệu số lượng người cần dùng là bao nhiêu, dự
định trước tâu xin gọi vào kinh; đến tháng giêng năm sau đòi vào kinh làm
việc. Nhưng trước đó phải tự cho các tỉnh có thợ, chiếu số thợ mà gọi, rồi tâu
lên… đến tháng 7 trở về sau, sẽ liệu theo công việc nhiều hay ít, châm chước
giảm bớt số thợ cho về nguyên quán” [42, tr.569]. Và trong Bộ sử Đại Nam
thập lục chính biên, Quốc sử quán thời Nguyễn tập VII có trình bày về thợ thủ
công của nhiều nghề và ghi nhận chính sách trưng tập của triều đình “Ai được
triệu về Kinh công tác thì do Bộ Công lập danh sách tâu lên để miễn trừ thuế
thân”.
Trong Nội các triều Nguyễn, tập sách Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ (KĐĐNHĐSL) tập XV, có đoạn viết Lệ làm đồ sơn cho biết:


23

Minh Mạng năm thứ 13 (1832), chuẩn y lời tâu rằng: Sơn son phủ
ngoài, cứ mỗi lạng ngân châu pha với sơn sống, dầu đồng mỗi thứ 4
đồng cân 8 phân và sơn mặt dầu 2 đồng cân 4 phân; phủ ngoài mà
bằng sơn sống trộn với phấn châu quét hai lượt xong, thì pha bằng 3
lạng 2 đồng cân sơn sống. Sơn đỏ phủ ngoài, cứ 4 lạng ngân châu
thì 3 lạng sơn sống, 8 lạng sơn mặt dầu và 2 lạng dầu thông; lót
trong mà bằng sơn sống trộn với thổ phấn châu quét 2 lượt xong, thì
pha bằng 2 cân 4 lạng 8 đồng cân sơn sống. Sơn then phủ ngoài, cứ
mỗi 2 lạng sơn sống thì 8 lạng sơn mặt dầu, 2 lạng dầu thông. Còn

như những chỗ hà hố, tuỳ theo sâu nông, liệu số sơn sống pha với
mạt cưa mà trét, thì không ở lệ này [79, tr.94].
Những tư liệu quý hiếm trên đã chứng minh sơn truyền thống dưới thời
Nguyễn có quy trình pha trộn rõ ràng. Để hiểu rõ hơn về những thuật ngữ
trong đoạn trích trên NCS giải thích về ngân châu, phấn châu, thổ phấn châu
như sau ngân châu và phấn châu hiểu là một loại son đỏ (ngân châu = sắc đỏ,
phấn châu = bột mịn màu đỏ) trộn với sơn sống có nghĩa là sơn cánh gián
(sơn chín), nên tác giả Đào Duy Anh trong sách Hán - Việt từ điển có dịch
nghĩa “Châu” chất thuốc màu đỏ, lấy lưu hoàng và thủy ngân chế thành [4,
tr.498]. Thổ phấn châu có nghĩa là một loại bột đất đỏ mịn trộn với sơn sống
để hom, lót....
Qua quá trình tìm hiểu, sưu tập những tư liệu trong bộ KĐĐNHĐSL
còn được lưu giữ ở thư viện tỉnh Thừa Thiên Huế quả thật khá mong manh về
sơn truyền thống và kỹ thuật chạm khắc, vẽ nét họa tiết. Tài liệu được trình
bày ngắn gọn và tập trung ghi chép về số lượng và trọng lượng sơn... Không
thấy tài liệu ghi rõ kỹ thuật khuấy sơn, làm đồ sơn, sơn phủ ngoài và kỹ thuật
khắc chạm nông sâu họa tiết. Điều này rất hạn chế đối với những tác giả
nghiên cứu và đối với NCS trong việc minh chứng tài liệu của đề tài luận án.


24

Nghệ thuật cung đình thời Nguyễn là tinh hoa, sáng tạo của thời đại,
đại diện của dòng văn hóa phong kiến thời bấy giờ. Dù có ảnh hưởng văn hóa
phương Bắc, Nho giáo đậm nét, ảnh hưởng Chămpa, nhưng những ảnh hưởng
đó đã được Việt hóa bằng các họa tiết trang trí mang yếu tố văn hóa dân gian
và tạo nên vẻ đẹp bình dị, mộc mạc và sâu sắc của nền Mỹ thuật dân tộc.
Chính yếu tố đó QTDTCĐH đã được Uỷ ban Di sản Văn hóa thế
giới (UNESCO) công nhận vào danh sách Di sản thế giới vào ngày 11 tháng
12 năm 1993. Kể từ đây, DTCĐH nâng tầm văn hóa lịch sử và trở thành

những giá trị mới, thắm đượm màu sắc cổ kính của sơn son thếp vàng rực rỡ
trong nghệ thuật trang trí cùng với chất liệu khác giàu tính biểu cảm trang trí.
Trang trí Mỹ thuật của thời Lê - Trịnh hưng thịnh đã làm cơ sở cho chất
liệu sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí cung đình thời Nguyễn phát
triển mạnh mẽ trong các đề tài hoa lá, chim thú. Mỗi đơn nguyên họa tiết
trang trí được người thợ chắt lọc và đơn giản chủ đề, nhưng khúc chiết từng
chi tiết của mỗi họa tiết, ưu điểm của họ chuyển tải những thảo mộc, chim thú
ở thiên nhiên thành chủ đề có sức thuyết phục trong nghệ thuật tạo hình trang
trí. Mỹ thuật cung đình thời Nguyễn phát triển từ cuối thế kỷ XIX cho đến
ngày nay, trải qua những thăng trầm của lịch sử nhưng chất liệu sơn trong
nghệ thuật trang trí vẫn tồn tại bởi sắc màu vàng, son rực rỡ. Chúng tạo nên
những dấu ấn theo thời gian của bao đời nay, trong chất liệu pháp lam, thêu
thùa, đúc đồng, khảm sành sứ có giá trị văn hóa tâm linh trong đời sống cung
đình và chúng đã trở thành chất liệu không thể thiếu trong QTDTCĐH với
việc bảo tồn di sản văn hóa vật thể của mỹ thuật cung đình thời Nguyễn.
Vua Gia Long chọn Huế làm kinh đô đã chú trọng đến trang trí nội và
ngoại thất cung điện trên nền gỗ bằng kỹ thuật sơn truyền thống, cùng với
công việc đục đẽo, chạm trổ tỉ mỉ các họa tiết long - lân - quy - phượng, mai lan - cúc - trúc, chữ viết và bát bửu sắc sảo, biểu hiện sự điêu luyện và công


×