Tải bản đầy đủ (.doc) (178 trang)

Luận án tiến sĩ lịch sử cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của việt nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.49 KB, 178 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với những cuộc đấu tranh giữ nước
vĩ đại, chống lại các thế lực xâm lược mạnh hơn nhiều lần, thắng lợi cuối
cùng vẫn thuộc về dân tộc Việt Nam. Để giành được thắng lợi là tổng hòa các
yếu tố làm nên sức mạnh của dân tộc của Việt Nam đó là lòng yêu nước, tinh
thần đấu tranh anh dũng của nhân dân và đường lối lãnh đạo đúng đắn, trong
đó có chính sách đối ngoại phù hợp. Trải qua hàng ngàn năm, chống lại các
thế lực phong kiến phương Bắc hùng mạnh hơn nhiều lần, tổ tiên người Việt
đã để lại những bài học đối ngoại hết sức quý báu như, dĩ bất biến ứng vạn biến,
ngoại giao tâm công, vừa đánh vừa đàm. Cái bất biến chính là quyền lợi của
quốc gia, dân tộc, cái vạn biến chính là phương pháp đấu tranh linh hoạt, biến
hóa để đạt được mục tiêu, ngoại giao tâm công là dùng nhân nghĩa đánh vào
lương tri để tập hợp lực lượng đồng thời thức tỉnh kẻ thù, vừa đánh vừa đàm,
kết hợp nhịp nhàng đấu tranh trên mặt trận quân sự và ngoại giao để giành thắng
lợi, đồng thời tạo cơ hội để có thể hàn gắn mối quan hệ giữa hai nước sau này.
Sau Cách mạng Tháng 8/1945, ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba
Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Với sự kiện trọng đại này, thật sự Việt Nam đã giành
được độc lập, Tuyên ngôn khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy" [69, tr. 9]. Để thể hiện quyết tâm đó, cả dân tộc
Việt Nam đã đồng lòng, chung sức đấu tranh để bảo vệ nền độc lập, giành
chiến thắng vang dội trong hai cuộc kháng chiến chống đế quốc. Đóng góp
vào thành công hiển hách đó, phải kể đến đường lối đối ngoại hết sức linh
hoạt, mềm dẻo trong thời đại Hồ Chí Minh.
Từ năm 1954 đến năm 1975 trong hoàn cảnh cả nước phải đương đầu
với đế quốc Mỹ với tiềm lực kinh tế, quốc phòng đứng đầu thế giới, trong khi




2
giữa các nước xã hội chủ nghĩa có những bất đồng sâu sắc, đặc biệt là Liên
Xô và Trung Quốc. Đối ngoại của Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong
việc tập hợp lực lượng, tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, tạo
thêm thế và lực cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Trong đối ngoại từ năm 1954
đến năm 1975, Việt Nam biết phân hóa, cô lập kẻ thù, tập hợp lực lượng, giúp
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc nhận được nhiều sự ủng hộ tích cực của
các lực lượng tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Trong đó,
ngay cả nhân dân Mỹ cũng thực hiện các phong trào phản chiến rầm rộ, góp
phần buộc Chính phủ Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam. Mặt khác, đối ngoại
đã phối hợp hiệu quả với đấu tranh chính trị và quân sự, đánh bại từng bước,
đánh đổ từng bộ phận âm mưu xâm lược của Mỹ, vạch trần các thủ đoạn lừa
bịp để tiến hành leo thang chiến tranh của Mỹ và Chính quyền Việt Nam
Cộng hòa. Qua đó, giúp nhân dân thế giới hiểu được tinh thần yêu chuộng hòa
bình, chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, nhận được sự động viên, ủng hộ,
giúp đỡ và tiếp thêm nghị lực cho dân tộc Việt Nam tiến lên giành thắng lợi
cuối cùng.
Hiện nay, Việt Nam đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn đề
đối ngoại trở nên hết sức quan trọng, góp phần quyết định nhiều vấn đề lớn
liên quan đến sự phát triển của đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của dân tộc. Việc cân bằng trong mối quan hệ với các nước lớn,
xây dựng lòng tin trong quan hệ với các nước đối tác chiến lược, các nước
láng giềng, các nước bạn bè truyền thống đang là một bài toán khó hiện nay.
Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh giao lưu, hợp tác với thế giới của Việt Nam với
phương châm "hòa nhập nhưng không hòa tan" đang đặt ra nhiều thách thức,
đòi hỏi Việt Nam phải xử lý khôn khéo các mối quan hệ. Đặc biệt, hiện nay
tình hình tranh chấp ở Biển Đông đang diễn ra hết sức phức tạp, có những

diễn biến khó lường, ảnh hưởng hoặc trực tiếp đe dọa đến độc lập, chủ quyền
của Việt Nam. Do đó, những kinh nghiệm quý báu trong đối ngoại để bảo vệ


3
độc lập dân tộc và thống nhất đất nước từ năm 1954 đến năm 1975 vẫn còn
nguyên giá trị thực tiễn và mang tính thời sự sâu sắc. Với lý do trên, tác giả
chọn đề tài "Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trên lĩnh
vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975" làm luận án Tiến sĩ lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng
dân tộc.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Luận án phân tích làm rõ cơ sở hoạch định, nội dung chính sách đối
ngoại và quá trình triển khai đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ
năm 1954 đến năm 1975 từ đó rút ra nhận xét và kinh nghiệm.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Phân tích cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam trong
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975;
- Phân tích nội dung chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt
Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975;
- Phân tích quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam
trong công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975;
- Nhận xét và rút ra kinh nghiệm về cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Luận án nghiên cứu quá trình bảo vệ độc lập dân tộc
trên lĩnh vực đối ngoại để tập hợp các lực lượng tiến bộ trên thế giới ủng hộ
Việt Nam tiến hành chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc trong bối
cảnh thế giới đang diễn ra Chiến tranh lạnh.


4
Về thời gian: Luận án nghiên cứu cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975: Mốc thời
gian năm 1954, là năm Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Pháp rút hết quân về
nước, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cũng là năm cả dân tộc Việt Nam bước
vào cuộc đấu tranh chống sự can thiệp của Mỹ để bảo vệ độc lập dân tộc. Năm
1975, Việt Nam kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất
nước, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, trong đó có sự đóng góp công sức rất
lớn của mặt trận đối ngoại.
Về phạm vi nội dung: Trọng tâm nghiên cứu của luận án là nội dung
chính sách đối ngoại của Đảng Lao động Việt Nam được đề ra từ Đại hội II
đến Đại hội III trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, từ năm 1954 đến năm 1975.
Đồng thời, luận án phân tích quá trình triển khai hoạt động đối ngoại của
Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trong đó, luận án chỉ tập trung nghiên cứu
việc triển khai chính sách đối ngoại trong quan hệ với các nước xã hội chủ
nghĩa; quan hệ với Lào và Campuchia; quan hệ với các nước dân chủ, các tổ
chức tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới; triển khai chiến lược
đánh - đàm để giành thắng lợi cuối cùng vào năm 1975.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận, luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và hệ thống
phương pháp luận sử học mácxít. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về

quan hệ quốc tế và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Đồng thời, luận án còn
dựa trên Cương lĩnh chính trị, đường lối đối ngoại của Đảng Lao động Việt
Nam nêu ra ở các văn kiện trong các đại hội, hội nghị của Đảng Lao động
Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.
- Phương pháp nghiên cứu của luận án là: Phương pháp lịch sử,
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp đối chiếu, thống
kê, khái quát, tổng hợp, lôgic, quy nạp, diễn dịch v.v...


5
5. Những đóng góp của luận án
- Luận án phân tích làm rõ quan niệm về bảo vệ độc lập dân tộc trên
lĩnh vực đối ngoại và cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam từ
năm 1954 đến năm 1975.
- Luận án phân tích nội dung chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước Việt Nam để bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975 bao
gồm: Mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc, phương châm, phương hướng
và nhiệm vụ đối ngoại mà Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đề ra. Trên cơ sở đó, luận án làm rõ quá trình triển khai
chính sách đối ngoại của Việt Nam để bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến
năm 1975. Đồng thời, luận án rút ra nhận xét về thuận lợi, khó khăn và kinh
nghiệm của quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc trên lĩnh vực đối ngoại
của Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy môn Lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải
phóng dân tộc, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc tế học và Quan hệ
quốc tế.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án gồm 4 chương:

Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở hoạch định và nội dung chính sách đối ngoại của
Việt Nam nhằm đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975.
Chương 3: Triển khai đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam
trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975.
Chương 4: Nhận xét và kinh nghiệm về cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975.


6
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Các nghiên cứu trong nước
1.1.1.1. Các công trình liên quan đến cơ sở hoạch định và nội dung
chính sách đối ngoại Việt Nam để đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc giai
đoạn 1954 - 1975
Thứ nhất, các công trình liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn
nhằm hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam, tiêu biểu có các công
trình như:
Phan Văn Rân, Nguyễn Hoàng Giáp (2010), Chủ quyền quốc gia
trong xu thế toàn cầu hóa và vấn đề đặt ra với Việt Nam [90]. Các tác giả nêu
ra khái niệm độc lập dân tộc của một quốc gia là sự tự chủ trong việc lựa chọn
đường lối phát triển, tự quyết mọi vấn đề thuộc về thẩm quyền quốc gia và
thực thi quyền lực thông qua các hoạt động lập pháp, tư pháp mà không có sự
can thiệp từ bên ngoài; Nguyễn Viết Thảo (2014), Bảo vệ chủ quyền quốc gia
và độc lập dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa [95], tác giả đã nêu ra khái niệm
độc lập dân tộc là chủ quyền về pháp lý trên tất cả các mặt lãnh thổ, chính trị,

kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh mà không bị phụ thuộc vào các thế
lực bên ngoài; Nguyễn Tất Giáp, Nguyễn Thị Quế, Mai Hoài Anh (2015), Mối
quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay [32],
giúp bổ sung rõ thêm khái niệm độc lập, tự chủ theo quan điểm trong hội
nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay, trong đó nhấn mạnh đến mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị tác động đến đối ngoại; Thái Văn Long (2006), Độc
lập dân tộc của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa [57], tác
giả đã phân tích về khái niệm độc lập dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa và nội
dung bảo vệ độc lập của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa;


7
Nguyễn Duy Quý (1996), Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội [88],
tác giả đưa ra quan điểm về độc lập dân tộc của quốc gia là không bị áp bức,
bóc lột, đói nghèo, lạc hậu, tụt hậu, có điều kiện để vươn lên phát triển và
bình đẳng với các quốc gia khác trên thế giới; Mai Hải Oanh (2016), Độc lập
dân tộc - Lợi ích cơ bản của đất nước [87], tác giả đã trình bày về khái niệm
độc lập dân tộc, trong đó khẳng định, độc lập dân tộc được thể hiện rõ nhất ở
hai nội dung là quyền tối cao quốc gia dân tộc trong phạm vi lãnh thổ và
quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế (đồng chủ biên - 2013), Chính
sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới [31] các tác giả đã trình bày về quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về quan
hệ quốc tế và nội dung quá trình triển khai chính sách đối ngoại Việt Nam từ
năm 1986 đến Nay; Nguyễn Dy Niên (2009), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh [84], tác giả đã hệ thống hóa, giúp làm rõ nguồn gốc, quá trình hình
thành, nội dung chủ yếu, phương pháp, phong cách, nghệ thuật trong tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh, nêu một số bài học kinh nghiệm của ngoại giao Việt
Nam và việc vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trở thành kim chỉ
nam trong hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng Lao động Việt Nam từ

năm 1954 đến năm 1975.
Nguyễn Anh Thái (1998), Lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 đến 1975 [94],
tác giả đã phân tích về lịch sử thế giới và quan hệ quốc tế từ năm 1954 đến
năm 1975, nêu rõ mục tiêu và việc triển khai đối ngoại của các nước trên thế
giới, đặc biệt là các nước lớn như Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc. Cuốn sách là cơ
sở để kiểm chứng một số sự kiện lịch sử đối ngoại liên quan, giúp làm sáng tỏ
thêm một số vấn đề quan hệ quốc tế trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại; Trương Hữu Quýnh (chủ biên 1998), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập I [87], các tác giả đã trình bày về
lịch sử Việt Nam từ thời nguyên thủy đến nửa đầu thế kỷ XIX; Đinh Xuân
Lâm (chủ biên - 1998), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập II [51], các tác giả


8
đã trình bày lịch sử Việt Nam từ 1858 - 1945; Lê Mậu Hãn (chủ biên - 1999),
Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập III [35], các tác giả trình bày khái quát lịch
sử Việt Nam từ 1945 - 1995. Các công trình này, đã khái quát về sự nghiệp
dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam và những bài học truyền
thống quý báu trong đấu tranh ngoại giao làm cơ sở, tiền đề cho những hoạch
định đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ,
cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc (1954 - 1975).
Nguyễn Trọng Hậu (2004), Hoạt động đối ngoại của Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa thời kỳ 1945 - 1950 [37], tác giả đã trình bày những hoạt
động đấu tranh ngoại giao của Việt Nam trong 5 năm (1945 - 1950), kết hợp
đấu tranh ngoại giao với đấu tranh chính trị và quân sự, giúp Việt Nam đứng
vững trong vòng vây kẻ thù, tạo cơ sở và tiền đề để hoạch định đường lối,
chính sách đối ngoại ở những giai đoạn sau; Nguyễn Phúc Luân (2004),
Ngoại giao Việt Nam từ Việt Bắc đến Hiệp định Giơnevơ [60], cuốn sách trình
bày chính sách đối ngoại thời chiến, ngoại giao trong giai đoạn đầu toàn quốc
kháng chiến, chủ trương và biện pháp đối ngoại trong bối cảnh cuộc kháng
chiến bị phong tỏa. Ngoại giao của Việt Nam đã tích cực phá thế bao vây, cải

thiện cục diện chiến tranh theo hướng có lợi cho Việt Nam, thêm bạn, bớt thù,
tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi, tranh thủ sự đồng tình, giúp đỡ của các
nước xã hội chủ nghĩa nhằm tạo thế và lực cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Những kinh nghiệm trong giai đoạn này, trở thành một trong những cơ sở
quan trọng để Đảng Lao động Việt Nam và Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975;
Lê Kim Hải (2005), Hồ Chí Minh với quan hệ ngoại giao Việt - Pháp thời kỳ
1945 - 1946 [34], tác giả đã tái hiện thời kỳ hết sức khó khăn của cách mạng
Việt Nam, nhưng dưới bàn tay chèo lái tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong đó có những sách lược ngoại giao linh hoạt, hiệu quả, đã đưa chính
quyền cách mạng và nhân dân Việt Nam vượt quan những khó khăn. Đồng
thời, tác giả còn phân tích đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chủ


9
tịch Hồ Chí Minh trong phân hóa, cô lập kẻ thù và các mối quan hệ trên các
lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao từ năm 1945 đến năm 1946.
Những bài học lớn trong ngoại giao của Việt Nam trong thời kỳ này, trở thành
cơ sở rất quan trọng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại để bảo vệ độc
lập dân tộc của Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước.
Thứ hai, các công trình liên quan đến nội dung chính sách đối ngoại
của Việt Nam:
Tiêu biểu là công trình của Trường Chinh (1963), Tiến lên dưới lá cờ
của Đảng [8], tập hợp các bài viết của cố Tổng Bí thư Trường Chinh, rút ra
những bài học qua 30 năm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó,
đề ra nhiệm vụ trước mắt cho toàn Đảng, toàn dân, khẳng định Đảng Lao
động Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể của cách mạng Việt Nam, động viên tất cả mọi người hăng hái thực hiện
nghị quyết Đại hội III của Đảng, thi đua yêu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước; Lê Duẩn (1976) Dưới lá cờ vẻ

vang của Đảng vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những
thắng lợi mới [13], tác giả đã khẳng định đường lối đúng đắn mà Đảng và
Nhà nước Việt Nam đề ra trong trong mặt trận đối ngoại để đoàn kết với các
nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là nhân tố
quan trọng dẫn đến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ; Phạm Văn Đồng
(1965), Toàn dân đoàn kết, chống Mỹ cứu nước [29], trong đó nêu ra chính
sách đối ngoại của Việt Nam là đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh
em, đoàn kết với nhân dân thế giới, thái độ kiên quyết chống Mỹ, cứu nước.
Đồng thời, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Lào, Campuchia và trình
bày những thành quả tích cực trong đối ngoại của Việt Nam; Phạm Văn Đồng
(1975), Thắng lợi vĩ đại, tương lai huy hoàng [30], tác giả đã hệ thống khá
toàn diện quá trình xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ và quá trình đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc của dân tộc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975,
trong đó có mặt trận đối ngoại, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt


10
Nam trước đế quốc Mỹ. Tác giả cũng khẳng định đường lối đối ngoại đúng
đắn, tranh thủ sự giúp đỡ các nước anh em, bạn bè năm châu, nhân dân yêu
chuộng hòa bình thế giới tạo thành mặt trận rộng rãi, mạnh mẽ, giúp Việt
Nam chiến thắng. Nội dung cuốn sách cũng lên án việc leo thang chiến tranh
của Mỹ, ủng hộ cách mạng Lào, Campuchia, khẳng định lập trường kiên định
đòi Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược đối với Việt Nam. Sự thống nhất
nước Việt Nam phải do nhân dân hai miền Việt Nam tự giải quyết bằng
phương pháp hòa bình, trên cơ sở dân chủ, không có sự can thiệp của nước
ngoài; Nguyễn Chương (1960), Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền
Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà [42], tác giả đã phân tích về
sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa là nhân tố quan trọng, đẩy mạnh đoàn kết
quốc tế là nhân tố đảm bảo xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất
nước nhà thắng lợi; Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (1971), Đoàn kết, tin

tưởng, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, cuốn sách tập hợp các bài
xã luận báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, đài Giải phóng. Trong đó khẳng
định, tinh thần đoàn kết trong nước, đoàn kết quốc tế, truyền thống đấu tranh
anh dũng và tin tưởng cuối cùng cuộc kháng chiến chống Mỹ sẽ thắng lợi;
Nguyễn Xuân Tú (2003), Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thời kỳ 1965 - 1975 [127], tác giả tập trung
phân tích sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, thể hiện trong việc ra sức đánh thắng
cuộc chiến tranh bằng lục quân của Mỹ ở miền Nam, kết hợp và giành thắng
lợi từng bước trên cả ba lĩnh vực chính trị, quân sự và ngoại giao; Nguyễn Mạnh
Hùng và Phạm Minh Sơn (đồng chủ biên - 2008), Đối ngoại Việt Nam truyền
thống và hiện đại [47], cuốn sách góp phần làm sáng tỏ những kinh nghiệm
quý báu hình thành nên truyền thống ngoại giao Việt Nam và những chặng
đường phát triển giúp ngoại giao trở thành vũ khí sắc bén trong cuộc đấu
tranh giành độc lập, bảo vệ độc lập của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt
Nam. Cuốn sách đã khái quát truyền thống đối ngoại Việt Nam từ thời dựng
nước đến Cách mạng Tháng Tám 1945, với các sự kiện lịch sử tiêu biểu về


11
ngoại qua các thời kỳ lịch sử. Đồng thời, phân tích khái quát đường lối, chính
sách đối ngoại của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, cứu nước, tập trung phân tích làm rõ sự phối hợp giữa ngoại giao với
chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa; Hoàng Đức Thịnh (2015), Đường lối
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế của Đảng giai đoạn 1965 - 1975 [96], tác giả tập
trung phân tích nguồn gốc, cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành quan điểm
của Đảng Lao động Việt Nam về tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, trong đó làm rõ
mục tiêu, phương hướng, nội dung, đối tượng mà hoạt động tranh thủ sự giúp
đỡ quốc tế hướng tới, chỉ ra phương châm và yêu cầu của hoạt động. Tác giả
đã phân tích làm nổi bật các biện pháp chỉ đạo của Đảng, phác họa khá đầy đủ

phong trào quốc tế ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, qua đó rút ra
những thành công, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá
trình Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; Vũ Dương Ninh (2016), Cách mạng Việt
Nam trên bàn cờ quốc tế, lịch sử và vấn đề [86], tác giả đã phân tích quá trình
đấu tranh anh dũng, gian khổ để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam kể từ khi tuyên bố độc lập năm 1945 đến năm
1975 với những cơ hội, thuận lợi, khó khăn và thách thức. Trong đó, Việt
Nam đã chịu sự tác động nhiều phía trong quan hệ quốc tế và ngược lại tình
hình Việt Nam tác động ngược trở lại đối với tình hình thế giới. Đồng thời, tác
giả cũng phân tích về đường lối đối ngoại của Việt Nam, mối quan hệ giữa
các mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, trước tác động của tình hình thế
giới để bảo vệ độc lập dân tộc giai đoạn 1945 đến năm 1975.
1.1.1.2. Các công trình liên quan đến quá trình triển khai đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam từ năm 1954
đến năm 1975
Nguyễn Vũ - Nguyễn Thái Anh (2008), Hồ Chí Minh về nghệ thuật
ngoại giao [130] cuốn sách tập hợp các thư, điện văn của Chủ tịch Hồ Chí


12
Minh gửi các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Pháp, gửi cá nhân lãnh
đạo và chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản một số nước,
nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Bên cạnh đó còn có nội dung các bài
phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các chuyến thăm, hội đàm ngoại
giao. Qua đó, giúp người đọc hiểu biết thêm nhiều vấn đề và khía cạnh trong
việc triển khai nội dung đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong
chống Mỹ, cứu nước từ năm 1954 đến năm 1975; Khu di tích Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại Phủ Chủ tịch (2010), Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí
Minh với các nước Châu Á (1954 - 1969) [50], cuốn sách là công trình sưu

tầm, tập hợp các bài viết, các hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
với các nước châu Á trong giai đoạn 1954 - 1969. Nội dung cuốn sách, góp
phần làm rõ thêm nhiều vấn đề về việc triển khai hoạt động đối ngoại của
Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua đó cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt chú trọng lĩnh vực đối ngoại, Người trực tiếp thực hiện các hoạt
động ngoại giao với việc thực hiện nhiều chuyến thăm, gửi nhiều thư từ, điện
văn đến các nước và chỉ đạo sát sao công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam để phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong đó, tư
tưởng chủ đạo là luôn đoàn kết với tất cả các nước anh em, chính phủ và nhân
dân yêu chuộng hòa bình ở châu Á.
Mai Văn Bộ (1985), Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật [5], đây là
hồi ký của nhà ngoại giao Mai Văn Bộ, ghi lại những điều mắt thấy, tai nghe,
giúp người đọc hiểu được những thủ đoạn của Mỹ, đồng thời hiểu rõ cuộc đấu
tranh kiên quyết, khôn khéo của Việt Nam trên mặt trận ngoại giao. Trong đó,
Việt Nam đã kết hợp hiệu quả đấu tranh ngoại giao với hoạt động quân sự trên
chiến trường, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế để buộc Mỹ phải tiếp xúc và đàm
phán theo điều kiện có lợi cho Việt Nam; Lưu Văn Lợi (1996), Năm mươi
năm ngoại giao Việt Nam, Tập 1 (Ngoại giao Việt Nam 1954 - 1975) [56], tác
giả đã khái quát ngắn gọn những bài học ngoại giao của Việt Nam trong lịch
sử, đặc biệt tập trung phân tích cuộc đấu tranh ngoại giao của Việt Nam từ


13
năm 1945 đến năm 1975 góp phần thực hiện hai nhiệm vụ kháng chiến và
kiến quốc, nhấn mạnh đến quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam;
Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh
cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 thắng lợi và bài học [2], các tác giả đã dựng
lại một cách khái quát, chân thực, phân tích về những sự kiện lịch sử chính
yếu, những đánh giá về sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc chiến tranh cách
mạng 30 năm (1945 - 1975). Từ đó, rút ra một số bài học lớn làm nên thắng

lợi của Việt Nam, bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, biết phân hóa, cô lập kẻ thù,
tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các lực lượng cách mạng và của cả loài người
tiến bộ. Đặc biệt, nội dung cuốn sách nhấn mạnh đến vai trò đối ngoại của
Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975, nêu ra nhiều số liệu về sự giúp đỡ của
Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ của Việt Nam. Qua đó khẳng định, sự thành công trong lĩnh vực
đối ngoại là một trong nhân tố quan trọng góp phần làm nên thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam; Nguyễn Phúc Luân chủ biên
(2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945 1975) [59], các tác giả đã tập trung trình bày đấu tranh ngoại giao thời kỳ giữ
vững chính quyền cách mạng vừa mới thành lập (8/1945 - 12/1946), ngoại
giao Việt Nam thời kỳ chống Pháp (1947 - 1954) và thời kỳ chống Mỹ (1954 1975); Nguyễn Phúc Luân (2005), Ngoại giao Việt Nam trong cuộc đụng đầu
lịch sử [61], tác giả đi sâu phân tích đường lối, chính sách, sự kết hợp giữa
đấu tranh ngoại giao với chính trị, quân sự và những thành tựu nổi bật của
ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cuốn sách góp phần trả lời câu hỏi: Tại
sao một nước nghèo, lạc hậu như Việt Nam lại có thể chiến thắng một nước
có tiềm lực hàng đầu về kinh tế, quốc phòng, khoa học công nghệ như Mỹ?
Bộ Quốc phòng Việt Nam, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1991), Lịch
sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) [128], nội dung cuốn sách


14
trình bày mối quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia trong phối hợp đánh Mỹ,
liên minh này là tất yếu khách quan, trở thành quy luật tồn tại, phát triển và làm
nên những thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ba nước
Đông Dương; Lê Đình Chỉnh (2007), Quan hệ đặc biệt hợp tác toàn diện Việt
Nam - Lào trong giai đoạn 1954 - 2000 [9], tác giả phân tích đến mối quan hệ
Việt Nam - Lào trong giai đoạn 1954 - 1975, mối quan hệ láng giềng anh em
đặc biệt của hai nước Việt Nam - Lào, đoàn kết của hai dân tộc cùng chiến đấu

để giành thắng lợi trước đế quốc Mỹ; Đảng Nhân dân Cách mạng Lào - Đảng
Cộng sản Việt Nam (2011), Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào Việt Nam (1930 - 2007), Biên niên sự kiện I (1930 - 1975) [28], nội dung cuốn
sách đã phản ánh khá đầy đủ quá trình hình thành và phát triển mối quan hệ
đoàn kết chiến đấu của hai nước Việt - Lào, Lào - Việt trong cuộc đấu tranh
chống Pháp, chống Mỹ, giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Đặc biệt, những sự
kiện lịch sử từ năm 1954 đến năm 1975 phản ánh tình đoàn kết, sự hợp đồng
chiến đấu hiệu quả giữa hai nước cùng chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ.
Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội Việt Nam nối tiếp nhau quán triệt sâu sắc
đường lối của Đảng Lao động Việt Nam thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ
cách mạng Lào. Đáp lại, Đảng Nhân dân cách mạng Lào và nhân dân Lào
trong điều kiện của mình đã hết lòng giúp đỡ Việt Nam, trong đó sự giúp đỡ
Việt Nam trong việc mở tuyến đường Trường Sơn Tây để chi viện cho miền
Nam là một minh chứng sống động về sự đoàn kết và giúp đỡ của Lào; Trần
Nam Tiến (2010) Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ thực trạng và triển vọng [123],
tác giả đã giành một phần nói về quan hệ Việt - Mỹ trong giai đoạn 1954 1975, trong đó Mỹ thực hiện Chiến lược toàn cầu can thiệp sâu vào tình
hình Việt Nam bằng cách dựng lên chính quyền Việt Nam Cộng hòa là giai
đoạn cực xấu trong quan hệ hai nước; Nguyễn Đình Thực (2001), Chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ đối ngoại với
ASEAN (1967 - 1995), tác giả có giành một phần phân tích về quan hệ Việt
Nam - ASEAN giai đoạn 1967 - 1975.


15
Nguyễn Duy Trinh (1979), Mặt trận ngoại giao thời kỳ chống Mỹ,
cứu nước (1965 - 1975) [124], tác giả đã phân tích tình hình ngoại giao và
khẳng định sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đấu tranh đòi
Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân về nước. Cuốn sách khẳng
định, mối quan hệ mật thiết giữa mặt trận ngoại giao với chính trị, quân sự,
xây dựng chiến lược, sách lược ngoại giao chủ động, tích cực, tăng cường
tập hợp lực lượng và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Tác giả khẳng định, sự ủng

hộ, tình đoàn kết chiến đấu của các nước anh em láng giềng, các nước xã hội
chủ nghĩa giúp Việt Nam tăng thêm sức mạnh trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, đặt cơ sở cho mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam,
vạch trần âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, góp phần đưa cuộc kháng chiến
chống Mỹ đi đến thắng lợi cuối cùng; Nguyễn Thị Mai Hoa (2013), Các
nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954 - 1975) [39], tác giả tập trung tìm hiểu, phục dựng toàn bộ bức tranh
về sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó Trung Quốc và Liên
Xô, đã có những sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần to lớn, tiếp thêm sức
mạnh cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tạo thêm thế và lực
cho Việt Nam để giành thắng lợi; Bộ Ngoại giao Việt Nam (1979), Sự thật
về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua [6], cuốn sách đánh giá
lại những mục tiêu, sách lược hai mặt ẩn chứa phía sau nhằm gia tăng phạm
vi ảnh hưởng, kiềm chế Việt Nam của Trung Quốc trong các vấn đề liên
quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam; Trần Mai Hùng (2011), Sự giúp đỡ của
Liên Xô đối với Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ [43], tập trung làm rõ những giúp đỡ của Liên Xô đối với
Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, rút ra bài
học kinh nghiệm và gợi mở một số vấn đề về quan hệ đối ngoại trong bối
cảnh hiện nay; Nguyễn Khắc Huỳnh (2011), Ngoại giao Việt Nam góc nhìn
và suy ngẫm [46], tác giả đã phân tích tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, vị
trí, vai trò, chức năng, bản lĩnh và trí tuệ của ngoại giao Việt Nam trong


16
kháng chiến chống Mỹ. Trong đó, tác giả tập trung phân tích vai trò ngoại
giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
trong tiến trình đàm phán Paris, phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ, sự
giúp đỡ của Liên Xô và mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống
Mỹ. Đặc biệt, tác giả đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm trong đấu

tranh ngoại giao của Việt Nam giai đoạn chống Mỹ, cứu nước. Thông tấn xã
Giải phóng, Bản tin hàng ngày (từ [97] đến [121]), là cơ quan ngôn luận của
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đưa thêm nhiều thông tin về việc
triển khai hoạt động đối ngoại của Việt Nam và những kết quả trong giai
đoạn từ 1964 đến 1975.
Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II
(2012), Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của Chính quyền
Sài Gòn [125], sách gồm 2 tập trong đó Tập I tập trung về nội dung đánh và
đàm, Tập II nội dung ký kết và thực thi. Cuốn sách tập hợp nguồn sử liệu gốc
của các cơ quan trung ương Chính quyền Sài Gòn, các cơ quan Mỹ ở miền
Nam Việt Nam trong giai đoạn diễn ra đàm phán Paris (1968 - 1973), giúp
người đọc biết được phần nào góc nhìn của phía bên kia để có cơ sở so sánh,
đối chiếu và đặc biệt thấy rõ hơn âm mưu của Hoa Kỳ và Chính quyền Sài
Gòn trong đàm phán tại Paris; Nguyễn Khắc Huỳnh (2012), Nghệ thuật ngoại
giao với cuộc đàm phán Paris [47], cuốn sách tập hợp những bài nghiên cứu,
tham luận chọn lọc của tác giả, trong đó tập trung làm rõ tư tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh. Sự ủng hộ nhân dân thế giới với Việt Nam, đường lối, chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ,
đặc biệt trong đàm phán tại Paris với những vấn đề gay cấn trong đàm phán và
bài học ngoại giao rút ra từ đàm phán; Bộ Ngoại giao chủ trì biên soạn (2015),
Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam [7], cuốn sách gồm
4 phần chính: Đánh - đàm và ký kết; Đấu tranh thi hành hiệp định; Mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam; Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa và bài


17
học. Trong đó, tập hợp những phát biểu chỉ đạo của các vị lãnh đạo cao cấp
Việt Nam, các bài viết, trả lời phỏng vấn, hồi ký, bình luận của những người
trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia đàm phán, tái hiện lại cuộc đấu tranh cam go

của Việt Nam để giành thắng lợi tại Hội nghị Paris 1973; Nguyễn Đình Bin
chủ biên (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000 [3], các tác giả đã phân
tích hoạt động ngoại giao của Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975, trong
đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ, góp phần đánh bại các loại hình chiến
tranh xâm lược thực dân kiểu mới, buộc Mỹ ký Hiệp định Paris, tạo thời cơ
thuận lợi để tiến lên giải phóng miền Nam; Nguyễn Khắc Huỳnh (2006),
Ngoại giao Việt Nam phương sách và nghệ thuật đàm phán [45], tác giả tập
trung nghiên cứu vận dụng truyền thống ngoại giao của dân tộc và tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh để xây dựng phương sách và nghệ thuật đàm phán
cho ngoại giao Việt Nam. Trong đó, tập trung những cuộc đàm phán lớn với
Pháp, Mỹ để góp phần giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc; Vũ Dương Ninh (2015), Quan hệ đối ngoại Việt Nam 1940 2010 [85], tác giả đã tập trung trình bày những nét cơ bản về đường lối đối
ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn, thông qua phân tích
bối cảnh quốc tế và trong nước liên quan đến các sự kiện, diễn biến trong
quan hệ đối ngoại, rút ra nhận định chung và bài học kinh nghiệm. Cuốn sách
trình bày giai đoạn 1954 - 1968 với nội dung chính đấu tranh đòi thi hành
Hiệp định Giơnevơ, chống "chiến tranh đặc biệt", "chiến tranh cục bộ" và
chống các thủ đoạn lừa bịp của chính quyền Johnson về cái gọi là "tìm kiếm
hòa bình". Trong giai đoạn 1968 - 1973, tác giả tập trung vào cuộc đàm phán
Việt - Mỹ, đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris giai đoạn 1973 - 1975 và
những hoạt động đối ngoại phục vụ cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975.
Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến một số nhân tố tác động, mối quan hệ ngoại
giao giữa Việt Nam với một số nước, đánh giá những thành tựu trong hoạt
động đối ngoại và rút ra những kinh nghiệm trong đấu tranh xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay v.v...


18
1.1.2. Các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Để nghiên cứu và nhận xét hiệu quả đối ngoại của Việt Nam từ năm

1954 đến năm 1975, góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, giải phóng dân tộc, không thể không tìm hiểu những đối sách
ngoại giao, những đánh giá của tác giả các nước có quan hệ, nhiều duyên nợ
với Việt Nam trong giai đoạn này, tiêu biểu là các công trình sau:
Richard Reeves (2004) Một nhiệm kỳ Tổng thống dở dang [92], tác giả
đã trình bày những hoạt động đối ngoại trong thời kỳ tổng thống John
F.Kennedy cầm quyền, phân tích mối quan hệ căng thẳng Mỹ - Xô trong việc
cạnh tranh vị trí lãnh đạo thế giới. Quyết định can thiệp vào Việt Nam, ủng
hộ, viện trợ chính quyền Ngô Đình Diệm của Mỹ để thực hiện âm mưu ngăn
chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á và sau đó thất vọng
về chính quyền Ngô Đình Diệm khi không thực hiện được những yêu cầu mà
Mỹ kỳ vọng nên đã loại bỏ ông ta.
Richard Nixon (2004), Hồi ký [91], tác giả đã trình bày những chiến
lược, sách lược của chính quyền mình đối với cuộc chiến tranh Việt Nam, trong
đó có việc đánh lừa dư luận Mỹ, xích lại gần Liên Xô và bắt tay Trung Quốc
để cô lập, làm Việt Nam suy yếu nhằm mục đích giành thắng lợi trong cuộc
chiến này.
Henrry Kissinger (2004), Hồi ký những năm bão táp và cuộc chạy đua
và nhà trắng [38], tác giả đã trình bày những quan điểm bất đồng giữa Chính
phủ Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc tìm giải pháp hòa bình cho
Việt Nam. Đồng thời, thuật lại những nước cờ ngoại giao của Mỹ trong việc
tiếp cận với Liên Xô, xích lại gần với Trung Quốc để cô lập Việt Nam và
những vấn đề tranh luận căng thẳng trong đàm phán tại Paris.
Micheal J.Hogan (1992), The End of the Cold War - Its Meaning and
Implications (Kết thúc chiến tranh lạnh - Nội dung và ý nghĩa) [155], nội
dung cuốn sách tập trung trình bày và phân tích quan điểm của các nhà sử
học, khoa học chính trị, các nhà phân tích chính sách và các nhà bình luận từ


19

Hoa Kỳ, Anh, Đức, Pháp, Na Uy và Liên Xô. Trong đó, nội dung xoay quanh
những vấn đề như: nguồn gốc của Chiến tranh lạnh, các nguồn tư tưởng địa
chính trị, chi phí của xung đột, ảnh hưởng của nó đối với đời sống và thể chế
của người Mỹ. Nội dung cuốn sách cũng phân tích quan điểm của Mỹ lo sợ
Việt Nam theo chủ nghĩa cộng sản và rơi vào tầm ảnh hưởng của Trung Quốc
nên nên quyết định can thiệp vào Việt Nam. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng tập
trung phân tích việc Mỹ lợi dụng mâu thuẫn Xô - Trung, bắt tay với Trung
Quốc nhằm tìm lối thoát danh dự trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ang Cheng Guan (2000), The Vietnam War 1962 - 1964: The
Vietnamese Communist Perspective (Chiến tranh Việt Nam 1962 - 1964 theo
quan điểm của cộng sản Việt Nam) [136], bài viết đã tập trung phân tích
những khó khăn tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ trong việc đi đến
thống nhất đất nước, bởi sự can thiệp của Mỹ và không hợp tác của chính
quyền Ngô Đình Diệm. Bài viết phân tích, việc đẩy mạnh đấu tranh quân sự
kết hợp với chính trị của Đảng Lao động Việt Nam kể từ khi Nghị quyết Hội
nghị trung ương 15 Khóa II (1959) Đảng Lao động Việt Nam ra đời. Tác giả
cũng tập trung phân tích sự chủ động, tích cực của Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa trong triển khai các bước đi ngoại giao để tranh thủ sự ủng hộ của
Liên Xô và Trung Quốc. Tuy nhiên theo tác giả, thực tế giai đoạn 1954 - 1964
Liên Xô chưa thật sự quan tâm lắm đến vấn đề Việt Nam và viện trợ cho Việt
Nam cũng rất hạn chế, ngược lại với Liên Xô, Trung Quốc đã giành cho Việt
Nam sự ủng hộ tích cực và những khoản viện trợ khá lớn. Tác giả cũng phân
tích sự khó khăn của Việt Nam trong triển khai đối ngoại đối với Liên Xô,
Trung Quốc khi hai nước lớn mâu thuẫn, bất đồng quan điểm và đều có ý
muốn Việt Nam tỏ rõ quan điểm phải đứng hẳn về phía mình trước khi tính
đến những khoản viện trợ cho Việt Nam.
Mari Olsen (2006), Soviet - Vietnam Relations and the Role of China,
1949 -1964 Changing alliances (Quan hệ Liên Xô - Việt Nam và vai trò của
Trung Quốc, sự thay đổi liên minh giai đoạn 1949 - 1964) [153]. Theo tác giả,



20
kể từ khi cách mạng Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung
Quốc thành công, lập ra Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có ảnh hưởng
mạnh đến tình hình Việt Nam, khi Trung Quốc ngay lập tức bắt đầu ủng hộ
người Việt Nam trong cuộc đấu tranh. Sự tích cực quan tâm đến Việt Nam của
Trung Quốc đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan điểm của Liên Xô về khu vực,
buộc lãnh đạo Liên Xô phải chú ý nhiều hơn đến lục địa châu Á. Có thể khẳng
định, chiến thắng của cộng sản ở Trung Quốc và vai trò chủ đạo của nhà nước
cộng sản mới ở châu Á đã ảnh hưởng sâu sắc đến định hướng tương lai chính
sách của Liên Xô đối với Việt Nam. Mục đích nghiên cứu của tác giả tập trung
hai nội dung chính, một mặt phân tích các chính sách của Liên Xô đối với Việt
Nam từ việc thành lập Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào 1 tháng 10
năm 1949 cho đến cuối mùa thu năm 1964. Phân tích các cuộc thảo luận của các
nhà cách lãnh đạo Liên Xô trong đánh giá sự phát triển trong quan hệ Xô Việt đặt trong thời gian này và những gì họ mong đợi để đạt được liên quan
đến mối quan hệ. Mặt khác, tác giả phân tích về quan điểm của các lãnh đạo
Xô viết từ Stalin tới Khrushchev trong đánh giá vai trò của Trung Quốc ở Việt
Nam liên quan đến vai trò của Liên Xô như thế nào, và những nhận thức này
ảnh hưởng như thế nào đến mối quan hệ hai nước Xô -Việt. Quan điểm của
Liên Xô mong muốn, vai trò của Trung Quốc ở Việt Nam chỉ là sự giúp đỡ
với trách nhiệm pháp lý chứ không phải là đặc quyền hay sự thiết lập phạm vi
ảnh hưởng của riêng Trung Quốc. Thông qua cuốn sách, giúp chúng ta hiểu
thêm sự cạnh tranh hết sức quyết liệt giữa Liên Xô và Trung Quốc để giữ vai
trò trung tâm, thiết lập vai trò ảnh hưởng của hai nước này lên Việt Nam.
Executive Sessions of the Senate Foreign Relations Committee
(2010), Volume XX, Ninetieth Congress, Second Session 1968 (Cuộc họp lần
thứ chín mươi của Quốc hội Mỹ, phiên họp thứ hai trong năm 1968) [149].
Nội dung cuốn sách cho thấy, Chính phủ Mỹ đã gặp phải rất nhiều khó khăn
khi điều trần trước Quốc hội Mỹ về những vấn đề liên quan trong chiến tranh
Việt Nam. Sự lừa dối của Chính phủ Mỹ, khi dựng nên "Sự kiện vịnh Bắc Bộ"



21
để can thiệp sâu và mở rộng chiến tranh xâm lược Việt Nam đã khiến các nghị
sĩ Mỹ thất vọng và tức giận. Nhiều nghị sĩ đã lên tiếng tố cáo tội ác của cuộc
chiến tranh phi nghĩa mà Chính phủ Mỹ tiến hành ở Việt Nam, điều đó không
những làm tổn hại nhân dân Việt Nam mà còn gây thiệt hại về con người và
kinh tế của nước Mỹ. Cuốn sách cũng cho chúng ta thấy, chính cuộc chiến
tranh Việt Nam đã làm cho nước Mỹ nói chung và nội bộ Chính phủ Mỹ nói
riêng chia rẽ nghiêm trọng. Đặc biệt là những bất đồng và tranh luận gay gắt
về đường lối đối ngoại để giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam, giữa Ủy ban
Đối ngoại Quốc hội Mỹ với Chính phủ Mỹ.
Woodrow Wilson International Center for Scholars (1998), 77
Conversations between Chinese and Foreign Leaders on the
Wars in Indochina, 1964 - 1977 (77 cuộc hội đàm giữa Trung Quốc với
các nhà lãnh đạo các nước về cuộc chiến tranh Đông Dương giai đoạn 1964
- 1977) [164]. Cuốn sách đã trình bày quan điểm hai mặt của Trung Quốc về
cuộc chiến tranh Việt Nam, sự lo lắng của Trung Quốc trước viễn cảnh không
kiểm soát được Việt Nam, thậm chí Chủ tịch Mao Trạch Đông còn cho rằng,
về lâu dài Việt Nam sẽ theo Liên Xô chống lại Trung Quốc. Mặt khác, Trung
Quốc tỏ ra không hài lòng khi Việt Nam tiến hành đàm phán với Mỹ (1968),
Trung Quốc muốn tiếp tục chiến tranh để làm Mỹ suy yếu. Qua các cuộc hội
đàm của lãnh đạo Trung Quốc với lãnh đạo các nước cho thấy, cạnh tranh ảnh
hưởng của Trung Quốc với Liên Xô ở Việt Nam là hết sức quyết liệt. Kể từ
1965 Liên Xô tăng cường viện trợ cho Việt Nam sau chuyến thăm của Chủ
tịch Hội đồng bộ trưởng A.N.Cosygin làm Trung Quốc không hài lòng, thậm
chí Chu Ân Lai còn lên tiếng phản đối Liên Xô. Quan hệ Trung - Việt chịu sự
ảnh hưởng rất lớn của tam giác quan hệ Mỹ - Xô - Trung từ chỗ không ủng hộ
Việt Nam đàm phán (1968), muốn Việt Nam đẩy mạnh chiến tranh, đến chỗ
ủng hộ Việt Nam thương lượng với Mỹ sau khi Trung Quốc ký Thông cáo

Thượng Hải với Mỹ (1972).


22
Yang Kuisong (2002), Changes in Mao Zedong’s attitude toward
the Indochina War 1949 - 1973 (Những thay đổi trong thái độ của Mao Trạch
Đông đối với cuộc Chiến tranh Đông Dương 1949 - 1973) [167], tác giả tập
trung phân tích sự thay đổi trong thái độ của Mao Trạch Đông đối với cuộc
chiến tranh Việt Nam, phục vụ cho mục đích mở rộng tầm ảnh hưởng của
Trung Quốc. Trong giai đoạn 1949 - 1965, việc Mỹ can thiệp rồi xâm lược
Việt Nam nhằm ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản lan xuống Đông Nam Á, điều
đó đồng nghĩa với việc bao vây và kiềm chế Trung Quốc. Thái độ Mao Trạch
Đông ủng hộ tích cực cuộc đấu tranh của Việt Nam, điều đó vừa phá thế bao
vây của Mỹ, vừa thể hiện Trung Quốc là một cường quốc, có tiếng nói, vai trò
lớn trong cuộc xung đột tại Việt Nam. Tuy nhiên từ 1965 trở đi, khi quan hệ
Xô - Trung ngày càng xấu đi, trong khi Việt Nam nhận được sự ủng hộ tích
cực của Liên Xô đã tác động đến thái độ ủng hộ của Mao Trạch Đông. Dưới
sự chỉ đạo của Mao Trạch Đông, Trung Quốc yêu cầu Liên Xô không nên
viện trợ cho Việt Nam, việc đó do Trung Quốc đảm nhận, yêu cầu Việt Nam
cân nhắc kỹ khi nhận viện trợ của Liên Xô. Sự tác động của mâu thuẫn Xô Trung, mục đích muốn kiểm soát và thuần phục Việt Nam hoàn toàn không thực
hiện được, đã tác động đến tư tưởng Mao Trạch Đông khi quyết định bắt tay
với Mỹ bằng Thông cáo Thượng Hải (1972) và bỏ rơi đồng minh Việt Nam.
Alan Dawson (1989), 55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ [1], tác giả ghi
lại những gì mắt thấy, tai nghe của tác giả về tình hình chính trị, quân sự,
ngoại giao ở Nam Việt Nam trước khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ.
Asean, Ministerial Meeting 1967 - 1975, www.aseansec.org/htm
(Thông cáo chung Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN trong giai đoạn
1967 - 1975) [135], nêu ra lập trường, quan điểm của các nước ASEAN về
cuộc chiến tranh Việt Nam, hầu hết các nước ASEAN đều chịu sự ảnh hưởng
và chi phối của Mỹ. Do vậy, mặc dù quan hệ giữa các nước ASEAN vẫn còn

nhiều quan điểm bất đồng, nhưng nhìn chung đa số đều đứng về phía lập
trường của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Điều đó được thể hiện rõ
trong tuyên bố chung tại Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN hàng năm,


23
cá biệt có nước còn gửi quân sang tham chiến ở Việt Nam bên cạnh quân đội
Mỹ như Thái Lan và Philippines.
W.Dean Howells, Dorothy Avery and Fred Greene, VIETNAM 1961 1968 as Interpreted in INR’ s Production [165]. Trong đó, các tác giả đã tổng
hợp và sắp xếp theo thứ tự các báo cáo mật của Bộ Ngoại giao Mỹ gửi cho
Tổng thống về tình hình liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam giai đoạn
1961 - 1968. Qua tài liệu cho thấy, sự đánh giá của phía Mỹ trong đối ngoại,
từ đó đối chiếu, so sánh với đường lối, chính sách của Việt Nam và đưa ra
được những kết luận có giá trị trong nghiên cứu.
Bogaturov Aleksey Demosfenovich và Averkov Viktor Viktorovich
(2016), Lịch sử quan hệ quốc tế [4], các tác giả đã tập trung phân tích về sự
hình thành thế giới hai cực, những mâu thuẫn của tình hình thế giới và các
mối quan hệ quốc tế chồng chéo, phức tạp. Trong Vấn đề số 41 đã trình bày
cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam và những hậu quả của nó, đồng thời giải
thích nguyên nhân vì sao Mỹ tham chiến tại Việt Nam, những luận điểm cơ
bản của học thuyết R.Nixon và việc giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam qua
Hiệp định Paris về Việt Nam v.v...
Kế thừa những kết quả nghiên cứu nêu trên, tác giả thực hiện đề tài
luận án Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại
từ năm 1954 đến năm 1975.
1.2. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU

1.2.1. Đánh giá tổng quát các công trình liên quan
Trong thời gian Việt Nam chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ độc lập dân

tộc từ năm 1954 đến năm 1975, có nhiều công trình nghiên cứu của các tác
giả trong nước và nước ngoài, đề cập đến một số nội dung liên quan đến đề tài
luận án nghiên cứu bao gồm các nội dung sau:
Một là, những công trình, bài viết nghiên cứu có liên quan đến cơ sở
lý luận, thực tiễn, trong vấn đề độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc của


24
Việt Nam. Các công trình đã phân tích sự tác động của bối cảnh quốc tế, khu
vực và tình hình trong nước đến cơ sở để hoạch định chính sách đối ngoại của
Đảng Lao động Việt Nam và Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chống
Mỹ, cứu nước, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc.
Hai là, các công trình, bài viết nghiên cứu liên quan đến nội dung
chính sách đối ngoại của Việt Nam nhằm góp phần bảo vệ độc lập dân tộc.
Trong đó, nghiên cứu mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc, phương châm,
phương hướng, nhiệm vụ của hoạt động đối ngoại để góp phần giành thắng
lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ba là, những công trình, bài viết nghiên cứu liên quan đến quá trình
triển khai chính sách đối ngoại của Đảng Lao động Việt Nam, Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong việc
tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các
nước láng giềng, các nước dân chủ, các tổ chức tiến bộ và nhân dân yêu
chuộng hòa bình thế giới, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam.
Tóm lại, các vấn đề mà những công trình nêu trên mới đề cập đến một
số vấn đề liên quan đến đối ngoại Việt Nam, chứ chưa phân tích tổng thể, luận
giải vị trí, vai trò của đối ngoại gắn liền với những thành quả trong công cuộc
xây dựng, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam để bảo vệ độc lập dân tộc
của Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975. Kế thừa và phát huy những kết quả

của các công trình đã công bố, luận án tập trung làm rõ cơ sở hoạch định, nội
dung chính sách đối ngoại, quá trình triển khai chính sách đối ngoại, với
những thuận lợi và khó khăn trong triển khai chính sách đối ngoại gắn liền với
sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Luận án tiếp thu, bổ sung và phát triển trên cơ sở những kết quả nghiên
cứu của các công trình trước đó để tập trung làm rõ một số nội dung sau:


25
Thứ nhất, phân tích cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Việt
Nam để đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975. Trên cơ sở
các nội dung có liên quan đến luận án ở một số tập trong C. Mác - Ph. Ăngghen
toàn tập, V.I. Lênin toàn tập, Hồ Chí Minh toàn tập, Văn kiện Đảng Cộng sản
Việt Nam toàn tập và các tài liệu liên quan, luận án tập trung phân tích làm rõ
những cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng và Nhà nước Việt Nam hoạch định
chính sách đối ngoại nhằm bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm
1975. Với truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước anh dũng, kiên cường
của dân tộc Việt Nam, kết hợp với cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
quan hệ quốc tế, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại để bảo vệ độc lập dân
tộc. Đồng thời, trên cơ sở đánh giá tác động của tình hình thế giới và trong
nước, Đảng Lao động Việt Nam và Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
hoạch định được chính sách đối ngoại và triển khai có hiệu quả, nhằm đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc trước sự xâm lược của đế quốc Mỹ từ năm 1954
đến năm 1975.
Thứ hai, phân tích nội dung chính sách đối ngoại Việt Nam trong công
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975 bao gồm:
Mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc, phương châm, phương hướng và
nhiệm vụ đối ngoại.
Thứ ba, phân tích việc triển khai hoạt động đối ngoại góp phần vào

công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ năm 1954 đến
năm 1975, trong đó tập trung làm rõ: Chủ động, tích cực trong đối ngoại với
các nước xã hội chủ nghĩa để đấu tranh chống Mỹ, cứu nước và bảo vệ độc
lập dân tộc; Đẩy mạnh xây dựng và phát triển mối quan hệ với hai nước láng
giềng Lào và Campuchia; Xây dựng và phát triển tình đoàn kết với các nước
dân chủ, các tổ chức tiến bộ và nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ,
cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc; Mặt trận ngoại giao Việt Nam và chiến lược
đánh - đàm trong đấu tranh chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc.


×