Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.56 KB, 86 trang )

Viện khoa học xã hội Việt nam trường đại học khoa học xã hội và nhân văn

Viện triết học

Triệu Quang Minh

Sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con
người trong tư tưởng hồ chí minh

Luận văn thạc sĩ triết học

Hà Nội - 2006

1


Viện khoa học xã hội Việt nam trương đại học khoa học xã hội và nhân văn

Viện triết học

Triệu quang minh

Sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người
trong tư tưởng hồ chí minh

luận văn thạc sĩ triết học

Chuyên ngành : Triết học
Mã số


: 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Vũ Trọng Dung

2


Mục lục
Mở đầu

2

Chương 1: Các tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giải

8

phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người

1.1. Truyền thống dân tộc, tình hình cách mạng Việt Nam và cách mạng thế 8
giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1.1.1. Truyền thống yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng của nhân dân Việt Nam

8

1.1.2 Tình hình cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới cuối thế kỷ XIX 12
đầu thế kỷ XX
1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin - cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn 23
đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người
Chương 2:


mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai

35

cấp và giải phóng con người trong tư Tưởng hồ chí minh và ý
nghĩa của nó trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay

2.1 Mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải 35
phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1.1. Đặt vấn đề dân tộc giải phóng trên lập trường của giai cấp công nhân

35

2.1.2. Từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa

41

2.1.3. Độc lập cho dân tộc Việt Nam và cho tất cả các dân tộc bị áp bức

47

2.1.4. Giải phóng dân tộc gắn với mục tiêu phát triển toàn diện con người

52

2.2. ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giải phóng 59
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong sự nghiệp đổi
mới đất nước hiện nay
KếT LUậN


74

TàI LIệU THAM KHảO

79

3


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, mặc dù hầu hết các quốc gia trên thế giới đã giành được
độc lập, nhưng trên thực tế cuộc đấu tranh vì một nền độc lập theo đúng
nghĩa vẫn chưa kết thúc. Các nước đang phát triển và chậm phát triển đang
phải nỗ lực để thoát khỏi sự lệ thuộc về nhiều mặt vào các nước tư bản phát
triển. Vấn đề chủ quyền dân tộc vẫn là vấn đề nóng bỏng gây nhiều tranh
cãi và thường bị lợi dụng, xuyên tạc dưới những hình thức khác nhau. Điều
này góp phần cho thấy vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người tiếp tục có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp cách mạng của mỗi
nước. Sai lầm trong việc giải quyết mối quan hệ ba giải phóng này chính là
một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại và tổn thất cho cách mạng.
Riêng ở Việt Nam, trong lịch sử có những giai đoạn cách mạng nhờ
giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và giải phóng con người mà chúng ta đã đạt được thắng lợi. Đó là chiến
thắng của cách mạng Tháng Tám năm 1945 và hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ. Người đặt nền móng cho những thắng lợi đó là Hồ Chí
Minh với tư tưởng đặt cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người trong một thể thống nhất.
Sau kháng chiến, Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập và bước
vào công cuộc kiến thiết đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đi được chặng đường hơn
hai mươi năm và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Bộ mặt đất nước
đang thay đổi từng ngày với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, tác động
tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hoá
đang tạo ra một rào cản vô hình đối với sự phát triển chung của đất nước.
Biểu hiện rõ nét là tình trạng suy thoái đạo đức, mất lập trường, lối sống vị
kỷ, chạy theo lợi ích vật chất...Trong khi đó, các thế lực thù địch luôn lợi
dụng sự phân hoá giàu nghèo, sự dịch chuyển cơ cấu giai cấp - xã hội, sự
4


khác biệt về thành phần xuất thân, tôn giáo...để kích động và gây chia rẽ
trong nội bộ nhân dân ta, nhằm phá vỡ nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thực
trạng này đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải xử lý thật hài hoà mối quan hệ
giữa lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích cá nhân để một mặt có thể
củng cố và phát huy được sức mạnh đại đoàn kết, mặt khác khơi dậy và tận
dụng được sức mạnh tiềm năng của mỗi giai cấp, cá nhân. Bên cạnh đó,
trong quá trình nghiên cứu, vận dụng và hiện thực hoá tư tưởng Hồ Chí
Minh, có nhiều cá nhân, tổ chức do không nắm vững bản chất, nội dung tư
tưởng của Người đã tuyệt đối hoá quan điểm dân tộc của Hồ Chí Minh
thành chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Họ còn cho rằng, trong kháng chiến Hồ
Chí Minh bỏ quên vấn đề giai cấp, giờ đây phải trở lại giải quyết vấn đề giai
cấp một cách triệt để.
Tất cả những lý do trên đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ phải trở lại
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Từ đó, thêm một lần nữa khẳng định ý
nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này và tìm ra những chỉ dẫn thích
hợp với giai đoạn cách mạng mới. Vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề Sự thống
nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người

trong tư tưởng Hồ Chí Minh làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học của mình.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường và mang lại thắng lợi cho cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam. Trong những năm qua đề tài tư tưởng Hồ Chí
Minh được rất nhiều nhà nghiên cứu, các học giả trong và ngoài nước quan
tâm. Có thể liệt kê một số tác phẩm như: Hồ Chí Minh và con người Việt
Nam trên con đường dân giàu nước mạnh của Phạm Văn Đồng [16]. Tư
tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam của Võ Nguyên
Giáp [20]. Giải phóng dân tộc và đổi mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh của Bùi Đình Phong [63]. Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh Nguyễn
Đức Đạt [13]. Hồ Chí Minh với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
5


1945- 1954 của Nguyễn Minh Đức [17] Các tác phẩm này đều khẳng định
giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cập tới nhiều nội dung,
trong đó có nội dung giải phóng dân tộc, giai cấp, con người của Bác. Chẳng
hạn, Phạm Văn Đồng trong Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con
đường dân giàu nước mạnh đánh giá một trong những cống hiến quý báu vào
kho tàng tư tưởng cách mạng thời đại của Hồ Chí Minh là: Tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người 16,133. Còn Võ
Nguyên Giáp trong Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam cũng khẳng định Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Theo Người, đối với
Việt Nam không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề
dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương Tây. Mà ngược lại, chỉ có
giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao
hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp
20,91. Nguyễn Bá Linh trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân

tộc và chủ nghĩa xã hội cho rằng, Hồ Chí Minh là một trong những người
cộng sản đầu tiên của dân tộc thuộc địa đã sớm nêu ra luận điểm về sự thống
nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng cá
nhân con người trong điều kiện một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Tác
giả còn khẳng định, rằng Hồ Chí Minh đã kết hợp hài hoà yếu tố dân tộc và
yếu tố giai cấp, đánh giá đúng và đầy đủ ảnh hưởng tích cực của yếu tố dân
tộc trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam...
Ngoài ra còn một số các bài viết chuyên khảo đã đăng tải trên các tạp
chí như: Những cống hiến lý luận của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào
học thuyết Mácxít về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp của Lê
Ngọc, Tạp chí Thông tin lý luận, số 11/1993; Mối quan hệ biện chứng giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Nguyễn
6


Duy Quý, Tạp chí Triết học số 5/ 2004. Kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp
với vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Lê Duy Sơn, Tạp chí
Nghiên cứu lý luận số 10/1999. Vấn đề dân tộc và giai cấp, thống nhất và
đấu tranh trong con người và tư tưởng Hồ Chí Minh của Lê Sỹ Thắng, Tạp
chí Triết học, 2/1993.... Các bài viết của các tác giả đều phân tích và chỉ ra
sự gắn bó hữu cơ giữa vấn đề dân tộc, giai cấp, con người trong tư tưởng Hồ
Chí Minh: Nguyễn Duy Quý trong bài viết nêu trên đi theo tiến trình từ khi
Bác ra đi tìm đường cứu nước, đến lúc Người được tiếp cận với Sơ thảo lần
thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin, tới Chính
cương vắn tắt của Đảng do Nguyễn ái Quốc khởi thảo

để khẳng định,

với Hồ Chí Minh, cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc
được giải quyết trên lập trường giai cấp công nhân 65,14. Lê Sỹ Thắng

trong bài viết Vấn đề dân tộc và giai cấp, thống nhất và đấu tranh trong
con người và tư tưởng Hồ Chí Minh đã khái quát những luận giải của Hồ
Chí Minh về sự gắn bó hữu cơ giữa giải phóng dân tộc, giai cấp và con
người và cho rằng ở Hồ Chí Minh, lập trường dân tộc và lập trường giai
cấp thống nhất với nhau 68,55.
Ngoài ra cũng có một số luận án nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí
Minh như: Lương Văn Kham với đề tài Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đoàn Thị Minh Oanh với
đề tài Vấn đề giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh. Cũng đề cập tới tư tưởng về dân tộc, giai cấp của
Hồ Chí Minh nhưng trên bình diện lịch sử còn có luận án của Nguyễn Văn
Khang với đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam với sự kết hợp nhiệm vụ giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. 1930

1945....

Các công trình trên đã khai thác tư tưởng Hồ Chí Minh ở nhiều khía
cạnh một cách khá toàn diện và sâu sắc. Riêng vấn đề giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhìn chung đánh giá của các tác giả là thống nhất: đều coi đó là sự vận
7


dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam, là
một trong những nguyên nhân căn bản đưa cách mạng Việt Nam đến thành
công. Tuy nhiên, cho tới nay, chưa thật sự có một công trình chuyên biệt
nào nghiên cứu về sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định
những giá trị của tư tưởng này đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
Chúng tôi coi đây là hướng đề tài mở và mạnh dạn đi vào nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn phân tích sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở
đó, rút ra ý nghĩa của mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Một là, phân tích những tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Hai là, phân tích mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Ba là, rút ra ý nghĩa từ việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về mối
quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và những tư tưởng trong các Văn kiện của Đảng, trong các tác phẩm
viết về Hồ Chí Minh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong luận văn là: kết hợp lịch
sử và logic, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, trừu tượng và cụ
thể, đối chiếu, so sánh
8


5.Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở đi sâu nghiên cứu mối quan hệ và chỉ ra sự thống nhất
giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn rút ra một số ý nghĩa của tư tưởng này của

Người đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được chia thành hai chương, bốn tiết.

9


Chương 1

Các tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và giải phóng con người
1.1.Truyền thống dân tộc, tình hình cách mạng Việt Nam và cách
mạng thế giới cuối thế kỷ XIX đầu XX
1.1.1. Truyền thống yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng của nhân
dân Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia được hình thành từ rất sớm. Trải qua mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã xây dựng nên những truyền
thống văn hoá tốt đẹp, trong đó nổi bật lên truyền thống yêu nước, gắn bó
cộng đồng trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm và
xây dựng đất nước. Tư tưởng yêu nước từ thời Hùng Vương đã nẩy nở.
Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn một nghìn năm, tinh thần yêu nước
đó không những không bị tàn lụi vì sự đô hộ của ngoại bang mà còn tiếp tục
được củng cố và phát triển. Đến khi đất nước giành được độc lập, truyền
thống yêu nước tiếp tục được phát triển gắn liền với các đại biểu như: Ngô
Quyền, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi...Truyền thống yêu nước không chỉ là
một tình cảm, một phẩm chất tinh thần mà đã phát triển thành chủ nghĩa yêu
nước. Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm tinh thần cao quý của dân tộc ta, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam qua các thế

hệ. Chủ nghĩa yêu nước cũng chính là động lực to lớn giúp cho dân tộc ta vượt
qua những khó khăn thử thách và đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Đối với mỗi người dân Việt Nam, dân phải gắn liền với nước,
ngược lại chủ nghĩa yêu nước bao giờ cũng mang tính nhân dân sâu sắc.
Những bậc anh hùng lớn của dân tộc đều nhận thức được chân lý đó, khi coi
nước nhà chung sức, ý chí của dân chúng như một nguồn sức mạnh giữ
nước (Trần Quốc Tuấn) hay ví dân như nước nước có thể chở thuyền và
lật thuyền (Nguyễn Trãi). Đương nhiên, trong mỗi thời đại, chủ nghĩa yêu
10


nước còn bị chi phối bởi hệ tư tưởng thống trị của thời đại đó. Trong thời
đại phong kiến, chủ nghĩa yêu nước gắn với chủ nghĩa trung quân. Ban đầu,
sự gắn kết đó mang tính tích cực, nhưng dần dần chế độ phong kiến rơi vào
con đường suy thoái và bộc lộ những tiêu cực của nó, chủ nghĩa trung quân
trở nên bảo thủ và độc lập với chủ nghĩa yêu nước chân chính. Những bế tắc
và thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã
chứng tỏ sự phá sản của chủ nghĩa trung quân. Hồ Chí Minh xuất thân trong
một gia đình nhà Nho không bị ràng buộc bởi tư tưởng trung quân như một
số trí thức đương thời. Tư tưởng yêu nước của Người thấm nhuần những giá
trị dân tộc và nhân bản của đạo lý Việt Nam, gắn nước với dân và lấy đó
làm mục tiêu hàng đầu. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một nhân tố quan
trọng góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, tính cố kết cộng đồng là một chất keo
kết dính toàn thể dân tộc Việt Nam thành một khối thống nhất. Tính cố kết
cộng đồng đó xuất hiện từ trong cuộc đấu tranh sinh tồn với thiên tai và với
giặc ngoại xâm. Nói cách khác, chủ nghĩa yêu nước và tính cố kết cộng
đồng của dân tộc Việt Nam không nằm khu biệt mà chúng nằm trong mối
liên hệ hữu cơ, thống nhất với nhau. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử

chống giặc ngoại xâm và chống thiên tai để bảo vệ và xây dựng đất nước.
Vấn đề thiên tai, địch hoạ gắn liền với phương thức sản xuất truyền thống
của dân tộc Việt Nam. ở Việt Nam, sản xuất nông nghiệp từ lâu đã là
phương thức sinh tồn chính yếu nhất của cộng đồng người Việt. Việt Nam
có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp. Trước
hết và chủ yếu phải nói đến tiềm năng dồi dào của đất đai và độ phì nhiêu
của nó. Bên cạnh những thuận lợi, thiên nhiên Việt Nam cũng đã đặt ra cho
con người rất nhiều khó khăn thử thách như bão lụt, hạn hán... đòi hỏi con
người phải luôn đoàn kết mới có thể chống chọi và tồn tại được. Trong ý
thức của mỗi người dân Việt Nam, sự đoàn kết chặt chẽ trong gia đình,
cộng đồng, làng xã, quốc gia, dân tộc...đã trở thành tình cảm sâu sắc, thiêng
11


liêng. Nó chỉ rõ sự gắn kết bền chặt không tách rời nhau giữa con người với
làng xóm, dòng họ, quê hương, dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng này ngày càng được
củng cố, phát triển và trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Tinh thần ấy còn được thể hiện rõ hơn trong cuộc đấu tranh chống giặc
ngoại xâm của nhân nhân ta. Trong lịch sử, dân tộc ta thường phải chống lại
quân giặc với một lực lượng lớn, mạnh hơn lực lượng của ta rất nhiều lần.
Đứng trước thử thách đó, chúng ta càng phải đoàn kết gắn bó với nhau, tìm
kế sách để đánh giặc, giữ nước. Với sức mạnh đó chúng ta có thể đánh
thắng bất cứ kẻ thù xâm lược nào. Chẳng hạn, nhà Trần ở thế kỷ thứ XIII đã
ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông. Sở dĩ có chiến thắng đó là
do Vua tôi đồng tâm, anh em hoà thuận, cả nước góp sức (Trần Quốc
Tuấn). Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, Nguyễn
Trãi chỉ ra nguyên nhân thắng lợi là do tập hợp đoàn kết được lực lượng dân
chúng: nêu hiệu gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phương dân chúng. Để tạo nên
sức mạnh thì tướng sỹ phải đoàn kết một lòng, gắn bó với nhau, Nguyễn

Trãi đã nhìn thấy công lao và sức mạnh của dân, dân là số đông, là cơ sở
của xã hội, là lực lượng có vai trò quyết định tới sự tồn vong của triều đại...
Trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm, tinh
thần dân tộc, lòng tự tôn, tự hào về dân tộc được nảy nở và không ngừng phát
triển. Dân tộc Việt Nam không chỉ chiến đấu để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ mà
còn chiến đấu để khẳng định vị trí của dân tộc Việt Nam. Tinh thần dân tộc ở
đây không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc cực đoan, vị kỷ, vì lợi ích của dân
tộc mình mà xâm hại đến lợi ích của các dân tộc khác. Tinh thần dân tộc ở
đây cần được hiểu là lòng tự tôn, tự hào dân tộc, ý thức về cội nguồn và về
một lãnh thổ chung và lòng quyết tâm bảo vệ lãnh thổ, độc lập chủ quyền
của dân tộc: Nam quốc sơn hà nam đế cư. Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm. Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Lý
Thường Kiệt)...
12


Kinh nghiệm nghìn năm lịch sử của dân tộc ta cho thấy, mỗi lần tổ
quốc lâm nguy, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc lại làm bùng lên
trong mỗi người con Việt Nam ý thức sẵn sàng hy sinh vì lợi ích chung:
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Chính chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân
tộc đã làm nên sức mạnh đoàn kết. Có thể nói đoàn kết toàn dân tộc là nhân
tố quyết định sự thành công của sự nghiệp dựng nước và giữ nước; một dân
tộc nhỏ nhưng biết đoàn kết chặt chẽ thì sẽ tạo ra được sức mạnh to lớn, có
thể đập tan được mọi kẻ thù xâm lược. Không có sức mạnh đoàn kết thì dân
tộc Việt Nam không thể tồn tại và phát triển được. Hồ Chí Minh là người
rất am hiểu lịch sử dân tộc. Người nhận thức được, rằng để giải phóng dân
tộc, giai cấp và con người thì cần phải tập hợp, đoàn kết các lực lượng nhân
dân trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Mặt trận thống nhất là
nơi thể hiện đầy đủ nhất sức mạnh của quần chúng nhân dân và hoàn thành
sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc.

Truyền thống dân tộc đã nuôi dưỡng những người con của dân tộc
Việt Nam. Hồ Chí Minh là một trong những người con lĩnh hội đầy đủ nhất
tinh hoa đó của dân tộc. Người tìm ra mẫu số chung của cả dân tộc Việt
Nam là lòng yêu nước. Người biết hoà lòng yêu nước của bản thân vào lòng
yêu nước chung của nhân dân, khơi dậy từ đáy lòng mỗi người con Việt
Nam lòng tự tôn dân tộc. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cố
kết cộng đồng, lòng tự tôn tự hào dân tộc vừa là khởi nguồn vừa là động lực
cho mọi hành động cách mạng. Chính truyền thống quý báu đó của dân tộc
đã giúp hình thành những tư tưởng đầu tiên về dân tộc, giai cấp, con người
của Hồ Chí Minh và tiếp thêm sức mạnh cho Người trong suốt cuộc hành
trình tìm chân lý độc lập, tự do cho dân tộc. Có thể nói rằng, ngày hôm nay,
tinh thần nhân đạo, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang trở
thành một phần không thể thiếu của truyền thống yêu nước và cố kết cộng
đồng như một trong những minh chứng hùng hồn cho các thế hệ đi sau.
Khi bàn về truyền thống dân tộc với tư cách là một trong những tiền
đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
13


cấp và giải phóng con người, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc xem xét ảnh
hưởng của truyền thống dân tộc đến tư tưởng này của Người từ những điểm
căn bản: chủ nghĩa yêu nước, tính cố kết cộng đồng và tinh thần dân tộc, qua
đó hiểu thêm về lý do thôi thúc Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và việc
Người đặt giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người
trong một thể thống nhất khi tiến hành lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
1.1.2 Tình hình cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Cách mạng Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam khi chế độ
phong kiến nước ta đang ở trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Trong

khi nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra chống thực dân Pháp thì nhà
Nguyễn với sự yếu hèn, bạc nhược đã đầu hàng giặc, mặc dù có những ông
vua cũng rất yêu nước như : Hàm Nghi, Thành Thái Thôn tính được Việt
Nam, thực dân Pháp tiến hành các biện pháp bóc lột, vơ vét tài nguyên, cai
trị trực tiếp, nô dịch hóa nhân dân:
Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát
triển kinh tế độc lập của nước ta, áp dụng cả lối bóc lột kiểu phong kiến,
làm cho nhân dân ta, nhất là nông dân và công nhân bị bần cùng hoá, làm
cho kinh tế nước ta không thể phát triển.
Về văn hoá xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, tuyên truyền
văn hoá thực dân phản động, khuyến khích văn hoá nô dịch, tự ti, kìm hãm
dân ta trong vòng tối tăm để phục vụ sự cai trị của chúng.
Thực dân Pháp cũng cho xây dựng trường học, mở mang đường giao
thông và thành lập một số cơ sở kinh tế nhưng là để phục vụ mục đích cai
trị và bóc lột của mình. Nhìn chung, chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp làm cho Việt Nam rơi vào tình trạng què quặt về kinh tế,
nhiều tầng lớp nhân dân bị bần cùng hoá, cơ cấu xã hội giai cấp có
những biến đổi sâu sắc với sự xuất hiện của giai cấp công nhân, tầng lớp tư
14


sản, tiểu tư sản bên cạnh các tầng lớp, giai cấp cũ. Giai cấp nông dân Việt
Nam là một trong hai giai cấp cơ bản của xã hội phong kiến, giờ đây ngoài
bị bóc lột phong kiến, họ còn chịu thêm bóc lột thực dân. Thuế khoá nặng
nề, lao dịch chồng chất đã làm cho đời sống người nông dân Việt Nam rất
cơ cực. Bị mất ruộng và phá sản, nông dân phải cày thuê cho địa chủ, một
bộ phận phải bỏ làng ra các thành thị kiếm sống hoặc chạy vào các đồn
điền, hầm mỏ làm thuê trở thành đội quân vô sản: giai cấp công nhân Việt
Nam là đại biểu cho sản xuất công nghiệp ở Việt Nam, họ sống tập trung ở
thành thị và trung tâm kinh tế, họ bị tư bản thực dân bóc lột trực tiếp nhất;

giai cấp tư sản Việt Nam ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất, họ bị thực
dân chèn ép áp bức, là bộ phận nhỏ bé, yếu ớt, lệ thuộc nặng nề cả về kinh
tế và chính trị vào thực dân... Nhìn chung, cách mạng Việt Nam lúc này gặp
nhiều khó khăn, nhất là về mặt tổ chức lực lượng. Giai cấp nông dân tuy
chiếm trên 90% dân số nhưng vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực vì thiếu tổ chức,
thiếu người lãnh đạo; công nhân tập trung ở các xí nghiệp, hầm lò, có tinh
thần cách mạng triệt để nhất nhưng chưa có tổ chức tập hợp, chưa có tư
tưởng dẫn đường; giai cấp tư sản bị phân hoá thành hai bộ phận đối lập. Bộ
phận tư sản dân tộc đã tiến hành đấu tranh vì độc lập, tự do và dân chủ,
nhưng họ ít về số lượng, yếu về kinh tế, không vững về lập trường. Trong
khi đó chúng ta lại chưa có một đường lối cách mạng đúng đắn để liên kết,
tập hợp, hướng dẫn quần chúng.
Rất nhiều cuộc khởi nghĩa và phong trào yêu nước đã nổ ra nhưng
đều không đưa lại kết quả: năm 1885, phong trào Cần vương do vua Hàm
Nghi khởi xướng được sự hưởng ứng của cả ba miền đất nước, khắp nơi sỹ
phu nổi dậy giúp vua chống Pháp nhằm khôi phục lại nền độc lập. Trong
đó, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng. Cuộc khởi nghĩa này
kéo dài mười năm nhưng cũng đi đến thất bại. Đến năm 1896, thất bại của
khởi nghĩa Hương Khê đã đặt dấu chấm hết cho con đường cứu nước theo hệ
15


tư tưởng phong kiến. Lịch sử đã từ bỏ con đường phong kiến đúng vào lúc xuất
hiện một con đường mới, một trào lưu mới trào lưu dân chủ tư sản.
Hạt giống của trào lưu dân chủ tư sản ở nước ta nảy mầm là do chịu
ảnh hưởng của phong trào vận động cải cách Duy tân của thế giới và khu
vực. Trào lưu dân chủ tư sản đúng ra là do giai cấp tư sản lãnh đạo, nhưng
lúc này tư sản Việt Nam chưa ra đời, nên lãnh đạo phong trào là một bộ
phận tiểu tư sản yêu nước, trí thức tiến bộ. Tuy cùng một con đường nhưng
phương pháp cứu nước của Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu là không

giống nhau:
Phan Bội Châu chủ trương chống đế quốc, giành độc lập dân tộc mà
trước mắt chưa chống phong kiến. Ông mong muốn dựa vào Nhật, cầu viện
Nhật để chống thực dân Pháp. Phong trào Đông du do Phan Bội Châu khởi
xướng và lãnh đạo được đông đảo thanh niên yêu nước đương thời đi theo.
Nhưng, Nhật lại thoả hiệp với thực dân Pháp tiêu diệt cách mạng Đông
Dương, lưu học sinh Việt Nam đều bị trục xuất khỏi nước Nhật.
Ngược với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh chủ trương chống phong
kiến mà chưa chống đế quốc, giành tự do, dân chủ bằng phương pháp ôn
hoà, dựa vào Pháp để chống phong kiến. Phong trào Duy Tân do Phan Châu
Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp khởi xướng nhằm đổi mới chính
trị và văn hoá đất nước để đi tới độc lập tự chủ. Phong trào này ra sức phê
phán sự thối nát của vua quan nhà Nguyễn, mặt khác trông mong vào sự
giúp đỡ của đế quốc Pháp nhằm thực hiện dân quyền, dân chủ ở nước
ta. Nhưng tư tưởng ỷ Pháp, cầu tiến bộ đó không nhận được sự tin tưởng
và ủng hộ của Pháp. Vì thế nhiều người trong Duy tân hội bị bắt bớ tù đày,
bản thân Phan Châu Trinh cũng nhiều lần phải vào nhà tù đế quốc.
Sự khác nhau trong phương pháp tiến hành cách mạng của các phong
trào do Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh khởi xướng, lãnh đạo làm cho
phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản ở Việt Nam phân hoá thành
hai xu hướng: bạo động mang tính chất truyền thống và cải cách tư sản mới
mẻ. Những hoạt động của hai ông và những nhà yêu nước khác làm bùng
16


lên phong trào cứu nước mang sắc thái mới, nhiều hình thức hoạt động đa
dạng đã diễn ra chứ không đơn thuần là vũ trang truyền thống, tiêu biểu là
phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can và Nguyễn Quyền tổ
chức. Mục tiêu của phong trào này là truyền bá nền văn hoá mới để thực
hiện chủ nghĩa yêu nước mới. Lúc đầu thực dân Pháp tưởng rằng phong trào

này chỉ đòi hỏi thực hiện cải lương văn hoá nhưng sau đó chúng nhận thấy
tổ chức này có xu hướng chống Pháp nên đã đóng cửa cái lò phản loạn
ấy...Có thể thấy, rằng tuy các phong trào yêu nước có xu hướng tư sản đều
đã bộc lộ sự bế tắc, không phát triển được và thất bại nhưng chúng đã góp
phần cổ vũ, thức tỉnh tinh thần yêu nước trong nhân dân, nhất là thanh niên,
trí thức, học sinh.
Như vậy, có thể thấy cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đứng
trước sự khủng hoảng trầm trọng về đường lối cách mạng cứu nước, thiếu
giai cấp tiên tiến lãnh đạo, tập hợp, thiếu lý luận tiên tiến dẫn đường. Dân
tộc ta cần một lý luận mới, một bộ phận lãnh đạo có thể giải quyết đúng
đắn những nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giai cấp, con người cả trước mắt và
lâu dài trên con đường cách mạng. Nguyễn Tất Thành cũng không tìm ra
được ngay lời giải cho những vấn đề ấy mà chỉ nhận thấy sức mạnh của lòng
yêu nước trong nhân dân và ý thức được rằng phải ra đi tìm đường giải phóng
dân tộc. Nhận thức này của Nguyễn Tất Thành không phải ngẫu nhiên mà
có, nó là kết quả của sự kết hợp giữa một thanh niên được giáo dục nghiêm
túc, được sống trong một dân tộc có truyền thống yêu nước của và với một trí
tuệ hơn người.
Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền
thống yêu nước. Người chịu ảnh hưởng trực tiếp từ ý chí, nghị lực và lòng
yêu nước của người cha mẫu mực - cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc. Bản thân
cụ Nguyễn Sinh Sắc đã đưa con tắm mình vào thực tế chống xâm lược của
các bậc tiền bối, một thực tế vừa đau thương, vừa hào hùng. Cụ từng đưa
con lên thăm núi Thiên Nhãn, Thành Lục Niên, đại bản doanh của Lê Lợi
Nguyễn Trãi chống quân xâm lược nhà Minh để suy nghĩ về chiến thắng
17


Chi Lăng Xương Giang và một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Cụ
cũng đưa Nguyễn Tất Thành đến nhiều nơi khác, gặp nhiều sỹ phu yêu

nước, cho ngồi nghe các cụ đàm đạo việc nước...Tất cả những việc làm của
một người cha mẫu mực, một nhà Nho vươn khỏi tầm trung quân của Nho
giáo để đến với ái quốc đã ảnh hưởng trực tiếp tới tư tưởng của Người.
Cùng với sự giáo dục của gia đình, truyền thống quê hương anh hùng
cũng là một trong những nền tảng góp phần tạo nên một Nguyễn Tất Thành
với lòng yêu nước vô bờ bến. Nghệ An, quê hương Người cũng là quê
hương của nhiều nhà cách mạng lớn như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Công
Trứ, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu
Nguyễn Tất Thành được rèn luyện trong cuộc sống lao động và đấu
tranh của những người dân mất nước đang phải chịu kiếp nô lệ, được tiếp
xúc với những nhà Nho yêu nước, được tham gia và chứng kiến nhiều
phong trào yêu nước bị đàn áp và thất bại Với một tư chất thông minh,
Nguyễn Tất Thành sớm nhận ra sức mạnh của dân tộc Việt Nam là ở
truyền thống yêu nước thương nòi. Bản thân Người sau này cũng khẳng
định: Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng
sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III [55,128].
Như vậy, truyền thống dân tộc, quê hương, gia đình đã đặt nền móng
đầu tiên cho tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người của Hồ Chí Minh. Người thanh niên Nguyễn Tất Thành khi ấy
chưa hiểu gì về những lý tưởng cao xa, chỉ có một lòng nồng nàn yêu nước,
một ước muốn góp sức đưa dân tộc thoát khỏi lầm than. Nguyễn Tất Thành
hiểu rằng: Nước Việt Nam thành lập đã hơn 2000 năm, Việt Nam là một
dân tộc có chung một lịch sử, một thứ tiếng, một nền kinh tế và văn hoá. Dân
tộc Việt Nam đã cùng nhau đoàn kết, nhất trí trong lao động, xây dựng và
trong chiến đấu chống ngoại xâm [53,52]. Sở dĩ đạt được điều đó là vì:
Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của
ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy
18



hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước...Chúng ta
có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v..Chúng ta phải ghi nhớ công lao
của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh
hùng [51, 171-172].
Từ thực tiễn cách mạng trong nước, Nguyễn Tất Thành nhận ra, rằng
không thể đi theo vết xe của các vị tiền bối. Mặc dù rất khâm phục các cụ:
Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu...vì:
Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận
ra điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan
Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm chẳng
khác gì đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau. Cụ Hoàng Hoa Thám tuy
thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp nhưng cụ còn nặng cốt cách
phong kiến [72,11]. Bởi thế, thay vì chờ đợi sự quan tâm của chính phủ
để khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh theo quan điểm của Phan Chu
Trinh, hay Đông du theo Phan Bội Châu... Nguyễn Tất Thành hiểu rằng,
dân tộc ta chỉ có thể tự mình giải phóng cho mình, muốn vậy, phải tìm được
con đường đúng đắn, con đường khác với sự lựa chọn của các bậc tiền bối.
Nguyễn Tất Thành chọn nước Pháp để bắt đầu cuộc hành trình tìm
đường cứu nước. Người muốn đến Pháp trước tiên, bởi vì muốn tìm hiểu thực
chất của những từ: tự do, bình đẳng, bác ái như sau này Người tâm sự:
Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi đã được nghe những từ Pháp: Tự do, bình
đẳng, bác ái...Thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những
gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy [71,57]. Lòng yêu nước đã thôi thúc
Nguyễn Tất Thành tìm đến tận nơi xem cho được cái gốc rễ, cái bản chất của
kẻ đang cướp nước mình để tìm lời giải đáp cho vận mệnh dân tộc. Bản thân
Nguyễn Tất Thành trước khi xuất dương đã xác định rất rõ mục đích của
chuyến đi là: Tôi muốn ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi
đã xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta

[72,11]. Điều này cho thấy ngay từ đầu Nguyễn Tất Thành đã nhận thức
19


được, rằng cái quan trọng nhất đối với dân tộc mình lúc này là tìm ra cách
làm cách mạng rồi mới tính đến sự ủng hộ về vật chất và tinh thần.
Tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời tổ quốc sang Pháp để thực
hiện hoài bão tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Từ đây, Người chính
thức tham gia vào thực tiễn cách mạng thế giới.
Cách mạng thế giới
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tình hình cách mạng thế giới có
nhiều biến động. Chủ nghĩa tư bản thế giới đã chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Cục diện thế giới có những biến đổi sâu sắc với sự tranh
giành, phân chia thuộc địa của các nước đế quốc. Thế giới bị phân chia làm
hai khu vực: khu vực gồm các nước công nghiệp phát triển, thường được gọi
là phương Tây và khu vực gồm các nước thuộc địa, thường được gọi là
phương Đông. Vấn đề đặt ra đối với các nước phương Tây lúc này là khai
thác được từ các nước thuộc địa càng nhiều càng tốt để phát triển chính
quốc. Trong khi đó vấn đề đặt ra đối với các nước thuộc địa, trong đó có
Việt Nam là phải làm thế nào để được giải phóng.
Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất diễn ra làm gia tăng mâu
thuẫn giữa chính các nước đế quốc và hình thành rõ nét một mâu thuẫn mới
đó là: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, thực
dân. Bên cạnh đó, phương Đông đang thức tỉnh với một loạt phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc,
ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Inđônêxia

Thực tế đó đã đặt những tiền đề đầu tiên

cho phép hình thành liên minh các dân tộc bị áp bức trên thế giới.

Tình hình cách mạng thế giới càng trở nên sôi động khi Cách mạng
Tháng Mười Nga thành công, lập ra nhà nước công nông binh đầu tiên trên
thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đã làm nức lòng nhân dân thế giới và
làm sáng lên niềm tin vào một tương lai mới.
Những biến động của tình hình cách mạng thế giới đã tác động mạnh
đến Nguyễn Tất Thành trong suốt quá trình Người bôn ba tìm đường cứu
nước. Trong khoảng thời gian đầu tiên, khi ở Pháp, ấn tượng sâu sắc để lại
20


trong tâm trí người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành không phải là
một nước Pháp với nền công nghiệp, kỹ thuật tiên tiến mà là một nước Pháp
với sự phân hoá xã hội rõ nét, một nước Pháp có người giàu, người nghèo,
người tốt, người xấu. Người nhận ra rằng: ở Pháp cũng có người nghèo như
bên ta [72,16] và những người ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những người
Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo [72,23]. Căm phẫn trước sự hung ác
của thực dân bao nhiêu, Nguyễn Tất Thành càng đau xót cho tình cảnh của
những người bị bóc lột. Người khẳng định: trước lòng bác ái, máu người
Pháp cũng như máu người Việt, đều đỏ và có hai nước Pháp: một nước
Pháp của bọn thực dân đế quốc, của những kẻ thống trị, áp bức bóc lột và
một nước Pháp của những người vô sản, những người lao động nghèo khổ, bị
áp bức bóc lột.
Sau ít tháng dừng chân ở Pháp, cuối năm 1911, Nguyễn Tất Thành
tiếp tục cuộc hành trình đến nhiều nước châu Âu, châu Phi và châu Mỹ.
Trong số các nước đã đến, Người dừng chân khá lâu ở nước Anh và nước
Mỹ. Tại Mỹ, Nguyễn Tất Thành đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của
nước Mỹ, trong đó đề cập đến quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự
do, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người....Người khâm phục ý chí
giành độc lập, tự do của nhân dân Mỹ, khâm phục những tư tưởng vĩ đại của
Oasinhtơn, Lincôn, nhưng đồng thời cũng phát hiện ra những nghịch lý:

đằng sau những lời lẽ hoa mỹ về tự do, bình đẳng là sự bất bình đẳng và
nghèo đói của hàng triệu người lao động, là điều kiện sống khủng khiếp của
người da đen, nạn phân biệt chủng tộc...
Chính cuộc hành trình qua nhiều nước tư bản, đế quốc, thuộc địa và
phụ thuộc là những tài liệu sống giúp Nguyễn Tất Thành nâng cao nhận
thức của mình. Bằng sự quan sát thực tế, khả năng suy xét, tổng kết hết sức
sâu sắc, Nguyễn Tất Thành nhận ra cội nguồn của sự đau khổ của nhân loại
ở bản chất áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc đối
với người lao động. Từ đó, Người rút ra một kết luận quan trọng: ở đâu chủ
nghĩa tư bản cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu giai cấp công nhân và nhân
21


dân lao động cũng bị áp bức, bóc lột dã man, các dân tộc thuộc địa đều có
một kẻ thù không đội trời chung là bọn đế quốc, thực dân. Đây có thể coi là
gốc rễ đầu tiên đưa Nguyễn Tất Thành đến với chủ nghĩa quốc tế, hình
thành mầm mống đầu tiên cho ý định liên minh giữa những người bị áp bức
của các dân tộc thuộc điạ và phụ thuộc.
Bước ngoặt lớn trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
phóng dân tộc, giai cấp và con người là khi Người tiếp xúc với Sơ thảo lần
thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin.
Nếu bản Luận cương đã làm Nguyễn ái Quốc vui mừng đến phát khóc lên
khi tìm thấy ở đó chân lý giải phóng dân tộc thì với Cách mạng Tháng
Mười, Người khẳng định: Như ánh mặt trời rạng đông xua tan bóng tối,
cuộc Cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài
người [53,558]. Người nhấn mạnh: Giống như mặt trời chói lọi, Cách
mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng
triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất [57,300]. Nghiên cứu Cách
mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh nhận thấy, rằng đây là cuộc cách
mạng vượt xa và khác hẳn các cuộc cách mạng trước đây trong lịch sử. Mục

tiêu của cuộc cách mạng này không phải chỉ đem lại quyền lợi cho một số ít
người mà là giải phóng toàn thể xã hội. Từ đây, Nguyễn Tất Thành phát
hiện ra, rằng cách mạng Việt Nam cũng phải làm đến nơi như Cách mạng
Tháng Mười Nga mới thoát được áp bức dân tộc, áp bức giai cấp để giải
phóng con người nói chung.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng xã hội Pháp.
Tháng 6 năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp,
Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn ái Quốc gửi đến Hội nghị Vecxây
bản Yêu sách của nhân dân Việt Nam gồm tám điểm đòi chính phủ Pháp
thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt
Nam. Bản yêu sách không được chấp nhận. Qua kinh nghiệm thực tế,
Nguyễn ái Quốc nhận ra rằng: Những lời tuyên bố tự do, dân chủ của bọn
22


đế quốc chỉ là những lời đường mật cốt để lừa bịp các dân tộc bị áp bức.
Muốn được độc lập và tự do thật sự, các dân tộc bị áp bức phải trông cậy
trước hết vào lực lượng của bản thân mình; người Việt Nam phải tự giải
phóng lấy mình [8,21].
Năm 1920, Nguyễn ái Quốc tham gia Đại hội Tua, bỏ phiếu cho
Quốc tế III, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp
và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Như vậy, từ khi ra đi tìm đường cứu nước (1911) đến Đại hội Tua
(1920) tinh thần yêu nước của Nguyễn ái Quốc càng được củng cố và gắn
liền với quốc tế vô sản, giác ngộ dân tộc gắn với giác ngộ giai cấp. Là một
người dân mất nước, Nguyễn ái Quốc dành tình yêu trước hết cho dân tộc
mình. Khi hoà mình vào cuộc sống của những người cùng khổ khắp năm
châu, Nguyễn ái Quốc đã đồng cảm sâu sắc với họ. ý thức dân tộc dần gắn
với ý thức giai cấp vô sản. Đến đây, tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp của Người đã hình thành về căn bản với những điều Người

đúc rút được từ thực tiễn cách mạng. Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người tiếp tục được hoàn thiện trong thời
gian Người làm việc tại Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản tại
Matxcơva (1923). Năm 1924, Người về đến Quảng Châu, trực tiếp lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Từ đây về sau, tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người của Hồ Chí Minh được hiện thực
hoá và ngày càng hoàn thiện trong tiến trình cách mạng.
Có thể khẳng định, rằng tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở
thực tiễn cách mạng sôi động mà Người tham gia. Từ thực tiễn hoạt động
cách mạng, với một tư chất thông minh, một trí tuệ vượt bậc và một tình
yêu tha thiết đối với con người, Hồ Chí Minh đã đến được với chân lý của
thời đại và đem chân lý ấy về cho cách mạng Việt Nam. Kết quả này có sự
đóng góp rất lớn của nhân tố chủ quan vì tư tưởng lý luận hay đường lối
23


cách mạng bao giờ cũng phụ thuộc vào con người sinh ra và vận dụng tư
tưởng đó.
ở Hồ Chí Minh, nổi bật lên là những tư chất và phẩm chất sau: tư
chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo, tính ham học hỏi, tầm nhìn sâu
rộng, có khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát thực tiễn và nhạy bén với
cái mới... Hồ Chí Minh luôn mang theo mình những phẩm chất và tư chất
ấy. Điều này cắt nghĩa:
- Tại sao Nguyễn Tất Thành sang Pháp chứ không phải sang Nhật
theo cụ Phan Bội Châu mặc dù cụ Phan có ảnh hưởng rộng, lại rất thân với
cụ Nguyễn Sinh Sắc và yêu mến Nguyễn Tất Thành?
- Tại sao Nguyễn Tất Thành lại chọn nước Mỹ, nước Anh để ở lại
một thời gian trước khi trở về Pháp hoạt động?
- Tại sao đầu thế kỷ XX có rất nhiều người Việt Nam sang Pháp và

cũng không phải chỉ có Nguyễn Tất Thành đọc Luận cương của V.I.Lênin,
nhưng chỉ có duy nhất Nguyến Tất Thành trở thành người cộng sản?
- Tại sao Nguyễn Tất Thành không sang Trung Quốc trong khi
Quảng Châu được coi là cái nôi của cách mạng Việt Nam?
- Tại sao khi đến Pháp, mặc dù có nhiều người đỡ đầu như: Phan Văn
Trường, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh... nhưng Nguyễn Tất Thành
không ở lại Pari mà tiếp tục đi đến các nước khác?
Như vậy, có thể nói, rằng nhân tố chủ quan trong con người Hồ Chí
Minh đã kết hợp một cách tài tình với điều kiện khách quan để tạo ra cho dân
tộc Việt Nam một Nguyễn ái Quốc, một Hồ Chủ tịch, một vĩ lãnh tụ vĩ đại
sau này.
Mang theo lòng yêu nước, nhiệt tình cách mạng Hồ Chí Minh tham
gia vào thực tiễn cách mạng sôi động. Chính trong thực tiễn ấy, trong khi đi
qua nhiều nước và tận mắt chứng kiến cuộc sống của nhân dân ở các nước
thuộc địa cùng cảnh ngộ, tham gia các tổ chức vì hoà bình, đứng trong hàng
ngũ Quốc tế III mà hệ thống luận điểm về giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người của Hồ Chí Minh được hình thành. Đồng
24


thời, sống chung với bè bạn cùng cảnh ngộ trên thế giới trong quá trình tìm
đường cứu nước cũng giúp Người nâng cao nhận thức về giai cấp công
nhân, về quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản
và là cơ sở thực tiễn để Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác Lênin.
Như vậy, từ chủ nghĩa yêu nước, bức xúc giải phóng dân tộc, Hồ Chí
Minh đến với chủ nghĩa quốc tế, đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Người đã
tìm thấy ở đó chân lý mà Người mong đợi. Đó là chân lý giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin


cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí

Minh về vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người
Hồ Chí Minh từng khẳng định chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa
Người đến với V.I.Lênin và tin theo quốc tế III. Người tìm thấy trong Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của V.I.Lênin cái cần thiết cho chúng ta, con đường giải phóng chúng
ta. Lý luận của V.I.Lênin là sự vận dụng sáng tạo lý luận của C.Mác và
Ph.Ăngghen vào điều kiện cụ thể và nâng lý luận ấy lên một tầm cao mới.
Tính đúng đắn của chủ nghĩa MácLênin được minh chứng bằng kết quả
cách mạng - sự thành lập một nhà nước công nông binh đầu tiên trên thế giới.
Đối với C.Mác, quan niệm về con người được ông nhắc tới nhiều trong
hệ thống lý luận, nhất là khi tiến hành sự phê phán triệt để triết học duy tâm tư
biện của Hêghen và triết học nhân bản của Phoiơbắc về con người.
Với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác chỉ ra rằng, bằng việc sáng
tạo ra một cách thực tiễn thế giới đối tượng và cải tạo giới tự nhiên vô cơ
con người trở thành một thực thể mang tính tộc loại, có ý thức, một thực thể
đối xử với tộc loại như với bản chất của chính mình, hoặc đối xử với bản
thân mình như một thực thể có tính tộc loại. Khi so sánh con người và con
vật về phương thức hoạt động, C.Mác đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản
trong hoạt động sản xuất của con người: đó là hoạt động phổ biến, hoạt
động cả khi con người tự do thoát khỏi nhu cầu thể xác trực tiếp, là sự tái
25


×