Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Chi NSNN theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.36 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THỊ THỦY

CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TRÀ BỒNG,
TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THỊ THỦY

CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TRÀ BỒNG,
TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC MINH

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ
nguồn gốc./.
Đà Nẵng, ngày …..tháng
Tác giả luận văn

Đinh Thị Thủy

năm 2019


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP
LUẬT CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ....................................................... 9
1.1. Khái quát chi ngân sách nhà nước ............................................................. 9
1.2. Khái quát pháp luật chi ngân sách nhà nước............................................ 13
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC QUA THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở HUYỆN TRÀ BỒNG, ........ 24
TỈNH QUẢNG NGÃI ................................................................................... 24
2.1. Thực trạng pháp luật chi ngân sách nhà nước.......................................... 24
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật chi ngân sách nhà nước ở huyện Trà Bồng,
tỉnh Quảng Ngãi .............................................................................................. 31
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHI
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC .......................................................................... 43

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật chi ngân sách nhà nước ...................... 43
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật chi ngân sách nhà nước và nâng cao
hiệu quả chi ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng
Ngãi ................................................................................................................. 47
KẾT LUẬN .................................................................................................... 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC VIẾT TẮT

NSNN

Ngân sách nhà nước

NSTW

Ngân sách trung ương

NSĐP

Ngân sách địa phương

UBND

Ủy ban nhân dân

HĐND

Hội đồng nhân dân


KT-XH

Kinh tế- xã hội

KBNN

Kho bạc nhà nước

GDP

Tổng sản phẩm quốc dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
cũng như trong việc đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi quốc gia, địa
phương vì NSNN giúp Nhà nước thực hiện những chức năng nhiệm vụ của
mình trong việc điều tiết nền kinh tế và xã hội. Do đó vai trò của việc thu
NSNN và chi NSNN cũng quan trọng không kém. Vì nếu bội thu NSNN thì
dẫn đến tình trạng thừa tiền gây lạm phát, còn bội chi thì trong một mức độ
nào đó cũng không tốt cho nền kinh tế. Hầu hết các quốc gia từ cường quốc
cho đến quốc gia phát triển đều xảy ra tình trạng bội chi NSNN tùy theo mức
độ khác nhau. Việc chi NSNN đóng vai trò quyết định cho việc cung cấp
những phương tiện duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, ảnh hưởng đến
sản xuất, nguồn nhân lực, hay đảm bảo đời sống xã hội cho mọi người… Vì
thế, xu hướng chung của nhiều nước, nhiều địa phương là cần nghiên cứu, cải
cách tổ chức, quản lý để chi NSNN hiệu quả. Việt Nam nói chung, Quảng
Ngãi nói riêng, không nằm ngoài xu hướng chung đó.
Trong giai đoạn từ năm 2013 - 2018, mặc dù nền kinh tế đã có dấu hiệu

tích cực, nhưng chưa khởi sắc, chứa đựng nhiều rủi ro: kinh tế vĩ mô chưa
thực sự vững chắc, tăng trưởng kinh tế còn thấp; hoạt động của các doanh
nghiệp vẫn gặp khó khăn, trở ngại do chi phí đầu vào cao, tiêu thụ chậm, khả
năng tiếp cận và hấp thụ vốn tín dụng còn khó khăn; sức mua của nền kinh tế
còn yếu do việc làm và thu nhập của người lao động giảm sút;... tạo sức ép
lớn đến việc thực hiện mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đứng
trước những khó khăn đó Chính phủ đã đưa ra một số giải pháp điều hành của
Chính phủ như “Nghị quyết số 11/NQ- CP ngày 24/02/2011 về những giải
pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội”, tiếp sau đó các Nghị quyết 01/NQ-CP (ngày 3/1/2012), Nghị

1


quyết 01/NQ-CP (ngày 7/1/2013), Nghị quyết 01/NQ-CP (ngày 2/1/2014) lần
lượt ra đời với mục tiêu tổng quát là: giảm đầu tư công, tiết kiệm chi tiêu, hạn
chế mua sắm công và đầu tư xây dựng cơ bản, nhằm kiềm chế lạm phát nhằm
từng bước đưa nền kinh tế nước ta ổn định và phát triển.
Trước sự ảnh hưởng chung của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế trong
nước thì việc đảm bảo chi ngân sách cho phát triển kinh tế - xã hội của các địa
phương cũng có những vấn đề cần điều chỉnh, đồng thời đi cùng với đó là
hàng loạt các vấn đề được đặt ra trong công tác quản lý chi NSNN đã bộc lộ
những hạn chế nhất định, như: áp dụng pháp luật trong việc xây dựng dự toán
chưa sát thực tế, chưa căn cứ nhu cầu thực tiễn, điều hành chấp hành dự toán
còn nhiều bất cập (biểu hiện đó là: Công tác xây dựng dự toán chi NS chưa
đồng bộ với công tác xây dựng các kế hoạch, dự án, đề tài khác như kế hoạch
đào tạo, kế hoạch dạy nghề, dự án, đề án nghiên cứu khoa học công nghệ, dự
án bảo vệ môi trường; công tác xây dựng dự toán chi thường xuyên không
tích cực, thậm chí là đối phó.…); việc kiểm soát chi chưa hiệu quả, việc tổ
chức thanh tra, kiểm tra còn mang tính hình thức, chưa tạo tính chủ động cho

đơn vị sử dụng; công tác điều chỉnh dự toán trình tự thủ tục còn rườm rà, việc
bổ sung dự toán chưa đáp ứng được yêu cầu, đầu tư phân bổ dự toán chưa
trọng tâm, trọng điểm; nhiều nhiệm vụ chi không đảm bảo được kịp thời trong
khi đó chính sách, chế độ thay đổi và bổ sung nhiều; năng lực, trình độ cán bộ
quản lý, tham mưu chi ngân sách còn hạn chế, nhất là chi NSNN chưa đúng
pháp luật, tiết kiệm và hiệu quả sẽ chứa đựng những yếu tố đặc thù, riêng có
cần giải quyết để theo kịp quy hoạch phát triển kinh tế bền vững của huyện
nói riêng và tỉnh Quảng Ngãi nói chung. Nếu thực hiện chi đúng Luật ngân
sách, mang lại hiệu quả cao thì tất yếu nguồn thu sẽ được tăng dần qua các
năm sau, tiến đến địa phương sẽ tự cân đối được giữa nguồn thu và nhiệm vụ
chi mà Trung ương giao cho địa phương đảm nhận. Nếu hiệu quả mang lại

2


thấp thì có phải do khiếm khuyết từ Luật ngân sách hay từ các nguyên nhân
khác.
Từ những nội dung nêu trên, cho ta thấy tầm quan trọng của việc chi
NSNN, qua đó nhận diện thế mạnh cần phát huy và đề xuất kiến nghị nhằm
hoàn thiện quá trình thực hiện chi NSNN để hướng đến mục tiêu chất lượng
sử dụng NSNN hiệu quả đem lại lợi ích cho nhân dân và phát triển kinh tế xã
hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn huyện Trà Bồng. Trong thời gian được
học tập, nghiên cứu cũng như quá trình làm việc thực tế tại đơn vị, tôi lựa
chọn đề tài: “Chi NSNN theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Trà
Bồng, tỉnh Quảng Ngãi” để nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm khác
phục những “lỗ hổng”, “độ chênh” giữa quy định và thực tiễn áp dụng pháp
luật về chi ngân sách.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài nghiên cứu pháp luật về chi NSNN đã có nhiều
công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ, mức độ rộng, hẹp khác nhau. Từ khi

Luật NSNN năm 2002, Luật NSNN năm 2015 và một số văn bản hướng dẫn
thi hành luật có hiệu lực thi hành và áp dụng vào thực tế, một số nhà khoa học
cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến NSNN như:
Luận án tiến sỹ kinh tế “Hoàn thiện chi NSNN nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” năm 2009, của tác giả Trần
Văn Lâm, đã hệ thống hoá và làm rõ thêm được các vấn đề lý luận về NSNN
và chi NSNN trong nền kinh tế thị trường với những nội dung cụ thể: mục
tiêu, nguyên tắc và phương thức của chi NSNN [12]; quản lý chi NSNN với
việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Luận án cũng đã trình bày một cách
khái quát thực trạng áp dụng pháp luật chi ngân sách địa phương trên các mặt:
cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội; công bằng xã hội. Từ đó, rút ra những
kết quả đạt được và những hạn chế cùng với những nguyên nhân của việc áp

3


dụng pháp luật trong chi NSNN trong những năm vừa qua. Nghiên cứu về
kinh nghiệm áp dụng chi NSNN tác giả đã đưa ra một số vấn đề về chi NSNN
ở các nước về cải cách pháp luật và áp dụng chi NSNN; quản lý hiệu quả chi
NSNN theo kết quả đầu ra và khuôn khổ NSNN…, từ đó rút ra bài học có thể
nghiên cứu vận dụng nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật chi
NSNN trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ninh
nói riêng. Mục tiêu hoàn thiện pháp luật chi ngân sách thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh với những quan điểm hoàn thiện
pháp luật và áp dụng pháp luật chi ngân sách địa phương, tác giả luận án đã
nghiên cứu đề xuất một hệ thống gồm 6 nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật chi ngân sách địa phương. Trong đó, giải pháp áp dụng quy trình lập
dự toán và phân bổ ngân sách trên cơ sở khuôn khổ chi tiêu trung hạn hướng
theo kết quả đầu ra; hoàn thiện pháp luật chi NSNN. Tuy nhiên, luận án chưa
làm rõ được đặc thù riêng của tỉnh khi áp dụng pháp luật theo phương thức

mới, các phương thức, quy trình chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội ở các tỉnh khác nhau thì có gì khác nhau.
- Luận án tiến sỹ kinh tế: “Đổi mới quản lý chi NSNN trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Minh [14]. Trong công trình
này, tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý chi NSNN phù hợp với
kinh tế thị trường, các vấn đề về phân cấp quản lý kinh tế và phân cấp quản lý
NSNN, cơ chế quản lý chi NSNN, sự cần thiết phải đổi mới quản lý chi
NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh vai trò
của chi NSNN không chỉ như phương tiện tài chính bảo đảm cho hoạt động
của bộ máy nhà nước, mà còn là công cụ điều tiết vĩ mô. Tác giả cũng trình
bày khái quát thực trạng quản lý chi NS của Việt Nam theo yếu tố đầu vào kết
hợp với quản lý chi theo chương trình mục tiêu, dự án, một phần theo kết quả
đầu ra (cơ chế khoán chi hành chính) trong khuôn khổ chi tiêu ngắn hạn. Trong

4


luận án này đề xuất 5 nhóm giải pháp đổi mới quản lý chi NSNN, nhấn mạnh
giải pháp đẩy mạnh triển khai thực hiện quản lý NSNN theo kết quả đầu ra.
- Luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài: “Hoàn thiện cơ chế phân cấp ngân
sách của các cấp chính quyền địa phương” của tác giả Phạm Đức Hồng,
Trường Đại học tài chính Kế toán Hà Nội, năm 2002 [8];
- Luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài: “Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý
NSNN” của tác giả Nguyễn Việt Cường, Trường Đại học Tài chính Kế toán
Hà Nội, năm 2001[6];
- Luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài: “Biện pháp tăng cường thu ngân sách
địa phương trên địa bàn huyện Tiên Lãng, Thành phố Hải Phòng” của tác giả
Đoàn Thị Hương, Trường Đại học Hàng hải Hải Phòng, năm 2015 [9];
Các công trình nghiên cứu khoa học và các bài viết nêu trên, phần lớn
các giả đề cập đến một số vấn đề liên quan đến quản lý chi NSNN và các giải

pháp nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN. Riêng đối với chủ đề liên quan đến
pháp luật về thu, chi NSNN từ thực tiễn tại một địa bàn cụ thể là huyện Trà
Bồng thì đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này. Điều đó
cho thấy việc nghiên cứu đề tài này là vấn đề mới đang đặt ra,vừa khó khăn,
đòi hòi phải nghiên cứu những điều kiện đặc thù của huyện để quản lý chi
ngân sách có hiệu quả hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích: Luận văn nghiên cứu về pháp luật chi NSNN nhằm nhận
diện thực trạng pháp luật về chi NSNN và tìm kiếm các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh về chi NSNN
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn trình bày cơ sở lý luận của chi NSNN và pháp luật về chi
NSNN.

5


Luận văn phản ánh thực trạng pháp luật, tình hình thực thi pháp luật về
chi NSNN qua thực tiễn của huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. NSNN. Đánh
giá tác động tích cực và tiêu cực của chi NSNN trên địa bàn huyện Trà Bồng,
tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua theo quy định tại Luật NSNN năm 2015.
Luận văn đề xuất các giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật NSNN
để thực hiện chi NSNN có hiệu quả hơn nhằm giúp cho lãnh đạo huyện Trà
Bồng, tỉnh Quảng Ngãi tham khảo trong quá trình thực hiện, góp phần tích
cực vào việc phát triển KT-XH của địa phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các văn bản quy phạm pháp luật về chi NSNN và thực tiễn áp dụng
pháp luật về chi ngân sách trên địa bàn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong
việc chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi khác… của ngân sách huyện
Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về chi NSNN trên địa
bàn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi.
Thời gian nghiên cứu: Thời gian 2015 - 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Những vấn đề được đề cập trong luận văn này được
nhìn nhận trên cơ sở vận dụng quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về
nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền tài
chính quốc gia, nhằm ổn định đảm bảo hoạt động của bộ máy hành chính
công và đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh quốc gia.
Để hoàn thành Luận văn này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cơ bản như phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp

6


phân tích luật học, phương pháp tổng hợp với các số liệu thống kê, báo cáo
trích dẫn từ các tài liệu của Ủy ban nhân dân huyện Trà Bồng, Phòng Tài
chính – Kế hoạch huyện Trà Bồng.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và khái quát hóa được sử dụng để
nghiên cứu các vấn đề lý luận về thu chi NSNN và pháp luật về thu chi
NSNN; Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, thống kê… được áp dụng
để nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về chi
NSNN trên địa bàn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi, trên cơ sở đó đề xuất
các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chi ngân sách nói chung và nâng
cao hiệu quả công tác quản lý chi NSNN nói riêng trên địa bàn huyện Trà
Bồng; Phương pháp tổng hợp nghiên cứu sách báo, tạp chí chuyên ngành, các

báo cáo về thực hiện pháp luật về chi NSNN để phân tích tìm ra những hạn
chế cần bổ sung hoàn thiện pháp luật về chi NSNN.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm rõ thêm hiệu quả quản lí nguồn thu và sử dụng
chi ngân sách địa phương và các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về
chi ngân sách.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn phản ánh thực trạng thực hiện pháp luật về chi NSNN trên địa
bàn huyện Trà Bồng nói riêng và tỉnh Quảng Ngãi nói chung.
Những giải pháp cụ thể, kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho các cá nhân có nhu cầu nghiên cứu các vấn
đề về thực hiện pháp luật về chi ngân sách ở địa phương; là tài liệu nghiên
cứu trong việc lãnh đạo, điều hành công tác chi NSNN.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung

7


của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát về chi NSNN và pháp luật về chi NSNN.
Chương 2: Thực trạng pháp luật chi NSNN qua thực tiển thực hiện của
huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả chi NSNN.

8



CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CHI
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái quát chi ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm chi ngân sách nhà nước
* Khái niệm ngân sách nhà nước
Ngân sách [29, tr211], theo nghĩa chung nhất, là một quỹ tiền tệ tập
trung mà chủ nhân của nó phải tính toán để thu và chi luôn cân đối với nhau
trong một thời hạn nhất định. Bất kỳ một chủ thể kinh tế nào hoạt động trong
kinh tế thị trường cũng đều phải có ngân sách tức có tiền và có kế hoạch thu,
chi để khỏi mắc nợ dẫn đến phá sản. Tính cân đối, thu chi có kế hoạch là
nguyên tắc vận hành then chốt của ngân sách.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam [30 tr458] NSNN là toàn bộ các
khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước. So với định nghĩa trên, định nghĩa này đã mở
rộng hơn, có đề cập đến mục đích tồn tại NSNN.
NSNN Khoản 14 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 giải
thích thuật ngữ NSNN như sau: “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà
nước trong dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước quyết định
và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước”[22]. Như vậy, với định nghĩa này, nhà làm luật đã đề cập
tới ba vấn đề cơ bản khi quan niệm về NSNN:
Thứ nhất, NSNN là toàn bộ các khoản thu và chi của Nhà nước nằm
trong dự toán đã được quyết định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
Thứ hai, các khoản thu, chi này chỉ được thực hiện trong thời hạn 1

9



năm, thông thường tính từ ngày 01 tháng 01 cho đến ngày 31 tháng 12 năm
dương lịch;
Thứ ba, các khoản thu, chi này được xây dựng và thực hiện nhằm mục
tiêu bảo đảm về mặt tài chính cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước.
Định nghĩa này, tuy đã rõ ràng và cụ thể hơn so với định nghĩa NSNN
về phương diện kinh tế nhưng vẫn chưa làm nổi bật được khía cạnh pháp lý
của thuật ngữ “NSNN”.
* Khái niệm chi ngân sách nhà nước
Cùng với thu ngân sách, chi ngân sách là nội dung không thể thiếu trong
cơ cấu ngân sách nói chung, NSNN nói riêng. Chi NSNN được hiểu là chi tiêu
công về cả lý thuyết lẫn thực tế, có quan hệ trực tiếp và không thể tách rời các
hoạt động của nhà nước nhằm hai mục đích chính: cải thiện phân phối thu nhập
trong xã hội, hoặc tạo điều kiện nâng cao hiệu quả của nền kinh tế.
Chi NSNN tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, xã hội. Chi
đúng, đủ, kịp thời là góp phần làm giàu nền kinh tế, ổn định đời sống, chính
trị xã hội. Chi sai gây lãng phí, làm nghèo đất nước, xã hội thiếu công bằng,
văn minh. Đặc biệt trong lĩnh vực chi thường xuyên, nếu như Nhà nước
không quan tâm và đáp ứng kịp thời nhu cầu thiết yếu của xã hội thì cuộc
sống của người dân sẽ không được đảm bảo, xã hội sẽ không phát triển.
Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo
thực hiện chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc nhất định [24].
Chi NSNN là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập
trung vào NSNN và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Do đó, chi NSNN là
những việc cụ thể không chỉ dừng lại trên các định hướng mà phải phân bổ
cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công việc thuộc chức năng của nhà
nước.

10



Chi NSNN của tỉnh là toàn bộ các khoản chi trong dự toán đã được Hội
đồng nhân dân tỉnh quyết nghị và được thực hiện trong một năm để đảm bảo
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền tỉnh.
Theo Luật NSNN hiện hành “Chi NSNN bao gồm các khoản chi phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của
bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác
theo quy định của pháp luật”.
* Đặc điểm chi ngân sách nhà nước: Trong chi NSNN thường có
những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, chi NSNN luôn gắn chặt với những nhiệm vụ phát triển
kinh tế, chính trị, v ă n h ó a , xã hội, an ninh, quốc phòng .v.v. của quốc
gia. Mức độ, phạm vi chi tiêu NSNN phụ thuộc vào nhiệm vụ của nhà nước
trong mỗi thời kỳ.
- Thứ hai, cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước là chủ thể duy nhất
quyết định nội dung, cơ cấu, quy mô và mức độ các khoản chi NSNN, chính
vì vậy các khoản chi NSNN mang tính pháp lý cao.
- Thứ ba, chi NSNN phản ánh sự phân phối lại thu nhập công và thu
nhập quốc dân. Chi NSNN luôn luôn gắn với thu NSNN. Hiệu quả của các
khoản chi NSNN được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang tính toàn diện cả về
hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt xã hội và chính trị, ngoại giao.
Chính vì vậy, trong công tác quản lý tài chính một yêu cầu đặt ra là: khi xem
xét, đánh giá về các khoản chi NSNN cần sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu định
tính và các chỉ tiêu định lượng, đồng thời phải có quan điểm toàn diện và
đánh giá tác dụng, ảnh hưởng của các khoản chi ở tầm vĩ mô.
- Thứ tư, xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi NSNN đều là các
khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Chính vì vậy
các nhà quản lý tài chính cần phải có sự phân tích, tính toán cẩn thận trên

11



nhiều khía cạnh trước khi đưa ra các quyết định chi tiêu để tránh được những
lãng phí không cần thiết và nâng cao hiệu quả chi tiêu NSNN.
1.1.2. Nội dung chi ngân sách nhà nước
Chi NSNN: Chi ngân sách bao gồm chi cho đầu tư phát triển, chi
thường xuyên (gọi là chi tiêu dùng xã hội).
Nội dung phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp
được quy định cụ thể tại Luật NSNN. Trong đó quy định nhiệm vụ chi của
ngân sách địa phương như sau [22]:
(1) Chi đầu tư phát triển
+ Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội do địa
phương quản lý;
+ Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ
chức tài chính của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
(2) Chi thường xuyên
Bao gồm các khoản chi cho tiêu dùng xã hội gắn liền với chức năng
quản lý xã hội, khoản chi này được phân thành hai bộ phận: một bộ phận vốn
được sử dụng để đáp ứng nhu cầu của dân cư về phát triển văn hóa, xã hội, nó
có mối quan hệ trực tiếp đến thu nhập và nâng cao mức sống của dân cư và
một bộ phận phục vụ cho nhu cầu quản lý kinh tế - xã hội của địa phương.
Chi thường xuyên gồm các khoản chi sau:
+ Các hoạt động sự nghiệp kinh tế; Sự nghiệp Giáo dục; Sự nghiệp đào
tạo và dạy nghệ, Sự nghiệp y tế, Sự nghiệp khoa học và công nghệ, Sự nghiệp
môi trường; Sự nghiệp văn hoá; Sự nghiệp thể dục thể thao, Sự nghiệp phát
thanh, truyền hình.
+ Chi đảm bảo xã hội: thực hiện các chính sách xã hội đối với đối
tượng do địa phương quản lý;


12


+ Chi quản lý hành chính gồm: Hoạt động của các cơ quan nhà nước,
cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa
phương; Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật;
+ Quốc phòng. (phần giao cho địa phương)
+ An ninh và trật tự, an toàn xã hội (phần giao cho địa phương);
+ Chương trình quốc gia do Chính phủ giao cho địa phương quản lý;
+ Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
+ Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư; (Đã vay
thực hiện đầu tư hạ tầng đến hạn phải trả lãi).
+ Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính;
+ Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới. (Tỉnh bổ sung cho ngân sách
cấp huyện, huyện bổ sung cho ngân sách cấp xã, nếu NSNN cấp trên giao
nguồn thu thấp hơn giao nhiệm vụ chi).
1.2. Khái quát pháp luật chi ngân sách nhà nước
1.2.1. Khái niệm pháp luật chi ngân sách nhà nước
Thu, chi NSNN là biểu hiện và nội dung của thực hiện quyền lực nhà
nước trong lĩnh vực tài chính công. Trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, tài
chính công là lĩnh vực rất quan trọng. Thu, chi NSNN tác động trực tiếp đến
lợi ích của nhà nước và các chủ thể pháp luật có liên quan. Vì vậy, các hoạt
động thu, chi NSNN cần được điều chỉnh bởi pháp luật. Trên thực tế, tài
chính công là lĩnh vực thường được chú ý bảo vệ trước các hành vi vi phạm,
bởi tài chính, tài sản là những thứ dễ kích thích lòng tham của con người.
Ngoài ra, giống như trong các lĩnh vực quản lý khác, quyền lực nhà nước cần
được ràng buộc, giới hạn, kiểm soát bởi pháp luật. Quản lý NSNN nói chung,
chi NSNN nói riêng cần được điều chỉnh bởi pháp luật. Tổng hợp các quy


13


phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh hoạt động chi NSNN giữa
các chủ thể tạo thành pháp luật về chi NSNN. Như vậy, pháp luật về chi
NSNN là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình nhà nước phân phối và sử dụng quỹ NSNN.
Pháp luật NSNN bao gồm hai mảng lớn là pháp luật thu NSNN và pháp
luật chi NSNN. Như vậy, pháp luật chi NSNN là nội dung không thể thiếu
của pháp luật NSNN.
Khác với một số chế định pháp luật khác, ở đó pháp luật bao gồm
không chỉ các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành mà còn có các quy
phạm do nhà nước thừa nhận, chẳng hạn trong lĩnh vực kinh doanh, chế định
pháp luật chi NSNN chỉ chứa đựng các quy phạm pháp luật do các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành. Pháp luật chi NSNN của các nước thường
đòi hỏi các chủ thể sử dụng NSNN phải thực hiện đúng và đầy đủ yêu cầu về
dự toán chi, kế hoạch chi, tạm ứng, mục đích chi, tiêu chuẩn chi, điều kiện
chi, định mức chi, nguyên tắc, thủ tục chi .v.v. Vì vậy, Pháp luật chi NSNN
không chỉ bao gồm các quy phạm về nội dung mà cả các quy phạm về thủ tục.
Các nội dung chi thường thực hiện theo quy trình, thủ tục chặt chẽ và theo các
mẫu chứng từ, văn bản. Điều này cho thấy tính chất quan trọng của lĩnh vực
pháp luật này và qua đó thể hiện tính chất quyền lực rất cao. Tùy theo mô
hình phân cấp quản lý NSNN là tập trung hay phân cấp, pháp luật chi NSNN
có thể bao gồm các quy phạm do các cơ quan nhà nước ở trung ương và các
quy phạm do các cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành. Ngoài đặc điểm
nói trên, trong quan hệ pháp luật chi NSNN nhà nước (thông qua các cơ quan
đại diện là các cấp chính quyền và các đơn vị sử dụng ngân sách) luôn luôn là
một bên chủ thể. Còn các chủ thể khác có thể là pháp nhân hoặc thể nhân thụ
hưởng vốn NSNN [8].


14


1.2.2. Nội dung pháp luật chi ngân sách nhà nước
Căn cứ vào nội dung điều chỉnh, pháp luật về chi NSNN bao gồm các
nhóm quy phạm sau đây:
+ Các quy phạm pháp luật quy định những vấn đề chung của chi NSNN
như các nguyên tắc, điều kiện, phương thức chi ngân sách nhà nước.
+ Các quy phạm pháp luật quy định về chủ thể quan hệ pháp luật chi
NSNN.
+ Các quy phạm pháp luật quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan nhà nước và trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong chi
NSNN.
+ Các quy phạm pháp luật quy định về lập dự toán chi NSNN địa
phương.
+ Các quy phạm pháp luật quy định về chấp hành chi NSNN địa
phương.
+ Các quy phạm pháp luật quy định về kế toán, kiểm toán và quyết toán
chi NSNN địa phương.
+ Các quy phạm pháp luật quy định nội dung các khoản chi NSNN
như: chi đầu tư, chi thường xuyên; chi dự trữ quốc gia, chi khác; căn cứ chi
NSNN; tiêu chuẩn, định mức chi NSNN Nhóm quy phạm pháp luật này
thường được gọi là chế độ pháp lý các khoản chi NSNN.
+ Các quy phạm pháp luật quy định về tổ chức quản lý, phân phối các
khoản chi NSNN.
+ Các quy phạm pháp luật quy định về phân cấp quản lý NSNN.
1.2.3. Chủ thể quan hệ pháp luật chi ngân sách nhà nước
Nhà nước là chủ thể quan hệ pháp luật NSNN. Nhà nước tham gia vào
quan hệ chi NSNN với hai tư cách, nhà nước là chủ thể quyền lực công và

nhà nước là người thụ hưởng, trong đó vai trò thứ nhất của nhà nước là chủ

15


yếu và quan trọng.
Chủ thể quan hệ chi NSNN bao gồm các nhóm: các cấp NSNN, các
đơn vị dự toán ngân sách và các đơn vị sử dụng ngân sách. Các cấp NSNN
bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Đơn vị dự toán ngân
sách là cơ quan, tổ chức, đơn vị được cấp có thẩm quyền giao dự toán ngân
sách. Đơn vị sử dụng ngân sách là đơn vị dự toán ngân sách được giao trực
tiếp quản lý, sử dụng ngân sách.
Theo quy định tại Điều 2 Luật NSNN năm 2015: Đối tượng áp dụng chi
NSNN: Các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị xã hội. Các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp được NSNN hỗ trợ theo nhiệm vụ nhà nước giao. Các đơn
vị sự nghiệp công lập, các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến NSNN.
1.2.4. Nguyên tắc chi ngân sách nhà nước
Chi NSNN là một mặt hoạt động của NSNN. Chính vì vậy chi NSNN
phải tuân thủ nguyên tắc chung của quản lý NSNN. Luật NSNN quy định:
NSNN được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai,
có phân công trách nhiệm gắn với quyền hạn, phân cấp quản lý giữa các
ngành, các cấp. Trên cơ sở nguyên tắc chung đó, các quy phạm pháp luật
trong các văn bản pháp luật quy định về chi NSNN còn thể hiện những tư
tưởng mang tính chất chỉ đạo của Nhà nước đặt ra phương châm và mục đích
của hoạt động chi NSNN. Các nguyên tắc đó bao gồm:
- Nguyên tắc cân bằng thu, chi: Mối tương quan giữa hoạt động thu, chi
NSNN tác động trực tiếp tới tình trạng NSNN và toàn xã hội. Bởi vậy, trong
quản lý NSNN, cân bằng giữa thu và chi NSNN là một trong những nguyên
tắc quan trọng trong chi NSNN. Nguyên tắc này cần phải được quán triệt
trong toàn bộ quá trình ngân sách, đặc biệt là khâu chấp hành ngân sách. Theo

nguyên tắc này, các khoản thu, chi thể hiện trong dự toán NSNN phải đảm

16


bảo tính cân đối. Các khoản chi chỉ được xây dựng trên cơ sở nguồn thu đã
được xác định. Ngược lại, các nguồn thu cho NSNN sẽ nhằm đáp ứng cho
nhu cầu chi tiêu đã được hoạch định. NSNN sẽ được cân bằng theo cách xác
định tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên
của ngân sách và góp phần tích lũy ngày càng cao để phục vụ cho nhu cầu chi
đầu tư phát triển. Trường hợp NSNN bội chi, số bội chi phải nhỏ hơn số chi
đầu tư phát triển, tạo điều kiện tiến đến cân bằng NSNN. Trên thực tế, đôi khi
khả năng nguồn thu bị hạn chế và tăng chậm trong khi các khoản chi lại tăng
nhanh hơn nên tình trạng bội chi ngân sách luôn có thể xảy ra. Để xử lý bội
chi NSNN, một trong những giải pháp là đi vay trong hoặc ngoài nước. Trong
trường hợp này, việc sử dụng nguồn vay để bù đắp bội chi chỉ nhằm mục đích
đầu tư phát triển nhằm đảm bảo khả năng chi trả nợ của nhà nước, mà tuyệt
đối không được sử dụng các khoản vay để thực hiện những khoản chi mang
tính chất tiêu dùng.
- Nguyên tắc chi theo kế hoạch và đúng mục đích: Tính kế hoạch của
NSNN đòi hỏi hoạt động thu, chi NSNN đều phải dựa trên cơ sở kế hoạch. Sự
thiếu ăn khớp giữa thu, chi NSNN đều tạo ra những khó khăn cho hoạt động
quản lý NSNN và hạn chế hiệu quả trong thực tế. Do đó, để bảo đảm sự ăn
khớp giữa thu và chi NSNN đòi hỏi chúng phải được thực hiện theo kế hoạch.
Nguyên tắc này đòi hỏi các khoản chi NSNN chỉ được thực hiện với điều kiện
khoản chi đó đã được ghi trong dự toán ngân sách được duyệt, trừ các trường
hợp đặc biệt do pháp luật quy định. Mặc khác việc cấp phát và sử dụng vón
NSNN phải đúng với đối tượng thụ hưởng, và đúng nội dung, mục đích của
khoảng chi được xác định trong dự toán ngân sách được duyệt.
- Nguyên tắc tiết kiệm chi và tăng cường thu: Trong cơ chế thị trường,

việc nhà nước cắt bỏ một vài khoản chi tiêu không đồng nghĩa với việc gánh
nặng chi tiêu của NSNN sẽ được giảm bớt. Trong điều kiện nền kinh tế của

17


nước ta nguồn thu NSNN hạn hẹp, nhu cầu chi tiêu rất lớn, chỉ có tiết kiệm
chi thì mới có thể đủ nguồn tài chính trang trải được các nhu cầu cấp bách.
Quá trình hoạch định chính sách, hình thành và thực hiện NSNN cũng không
thể dự liệu trước được từ đầu năm. Thêm vào đó, các thông tin để xây dựng
kế hoạch ngân sách không đủ mức chính xác cần thiết, nên mặc dù trong các
dự toán NSNN hàng năm, người ta đã luôn bố trí một khoản dự phòng khoảng
2– 5% tổng số dự toán chi NSNN, nhưng số dự phòng trên cũng không thể
bảo đảm cho quá trình điều hành NSNN. Vì vậy, tiết kiệm chi và đẩy mạnh
thu là một trong 3 nguyên tắc phải được quán triệt ngay từ đầu khi bắt đầu
một chu trình ngân sách.
Tiết kiệm chi không phải là đơn thuần cắt bỏ các khoản chi NSNN một
cách tùy tiện, mà là chi tiêu đúng theo các định mức, đúng tiêu chuẩn và đúng
chế độ mà Nhà nước đã quy định cho từ đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan có
lập dự toán thu chi. Tăng cường thu không chỉ đơn thuần tìm các giải pháp để
thu ngay vào quỹ ngân sách càng nhiều càng tốt, chống thất thu, mà ngay cả
trong bố trí chi NSNN cũng phải thể hiện được việc nuôi dưỡng chăm sóc
nguồn thu.
1.2.5. Điều kiện chi ngân sách nhà nước
Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật NSNN 2015 quy định: Chi
NSNN chỉ được thực hiện khi đã có trong dự toán ngân sách được giao, trừ
trường hợp quy định tại Điều 51 của Luật này; đã được thủ trưởng đơn vị sử
dụng ngân sách, chủ đầu tư hoặc người được ủy quyền quyết định chi và đáp
ứng các điều kiện trong từng trường hợp sau đây: Đối với chi đầu tư xây dựng
cơ bản phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công

và xây dựng; Đối với chi thường xuyên phải bảo đảm đúng chế độ, tiêu
chuẩn, định mức chi ngân sách do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
trường hợp các cơ quan, đơn vị đã được cấp có thẩm quyền cho phép thực

18


hiện theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí
thì thực hiện theo quy chế chi tiêu nội bộ và phù hợp với dự toán được giao tự
chủ; Đối với chi dự trữ quốc gia phải bảo đảm các điều kiện theo quy định
của pháp luật về dự trữ quốc gia; Đối với những gói thầu thuộc các nhiệm vụ,
chương trình, dự án cần phải đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ
tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của
pháp luật về đấu thầu; Đối với những khoản chi cho công việc thực hiện theo
phương thức Nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch phải theo quy định về giá
hoặc phí và lệ phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành [9].
1.2.6. Phương thức chi ngân sách nhà nước
Phương thức cấp phát tài chính từ NSNN là cách thức thực hiện phân
phối vốn NSNN cho các đơn vị thụ hưởng theo quy định của pháp luật. Trên
cơ sở nguồn kinh phí đã được phân bổ, kế hoạch sử dụng ngân sách đã được
xây dựng và thông qua theo trình tự, thủ tục luật định, đơn vị sử dụng NSNN
ra quyết định chi, yêu cầu cơ quan kho bạc nhà nước chuyển giao kinh phí.
Hiện nay, ở nước ta việc cấp phát ngân sách từ NSNN được thực hiện
theo hai phương thức chủ yếu là phương thức cấp phát theo dự toán kinh phí
và phương thức cấp phát theo lệnh chi tiền. Ngoài ra, các chủ thể có liên quan
đến NSNN còn có thể được cấp phát theo phương thức cấp phát trực tiếp,
phương thức cấp phát kinh phí ủy quyền và cấp phát gán thu bù chi, cấp phát
ghi thu, ghi chi.
Để thực hiện cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN theo các
phương thức thanh toán trên đây, pháp luật quy định hai hình thức thanh toán

là hình thức cấp tạm ứng và hình thức cấp phát thanh toán là chủ yếu. Cấp
tạm ứng là việc NSNN sẽ ứng trước một số tiền cho đối tượng có nhu cầu sử
dụng ngân sách khi đối tượng này chưa có đủ điều kiện để nhận chính xác số
tiền phục vụ cho hoạt động xin tạm ứng. Trong trường hợp đơn vị sử dụng

19


ngân sách có nhu cầu thực tế, đơn vị này sẽ phát hành “Giấy đề nghị rút kinh
phí (tạm ứng)” cùng với bộ chứng từ có liên quan đến khoản xin tạm ứng gửi
đến kho bạc nhà nước. Mức tạm ứng tuỳ thuộc vào tính chất, tiến độ thực hiện
từng khoản chi nhưng không quá tổng số kinh phí đã được phân bổ theo lệnh
chi tiền. Kho bạc nhà nước sau khi kiểm tra hồ sơ hợp lệ sẽ tiến hành tạm
ứng. Đối với cấp phát kinh phí dưới hình thức thanh toán, khi đảm bảo đủ
điều kiện để được thanh toán từ NSNN, đơn vị sử dụng ngân sách lập giấy đề
nghị rút kinh phí cùng với các chứng từ phù hợp gửi kho bạc đề nghị thanh
toán. Các hình thức cấp phát đều phải thực hiện thông qua hệ thống kho bạc
nhà nước [9].
Trong các phương thức cấp phát, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách
chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định sử dụng NSNN của mình. Đồng thời,
kho bạc nhà nước cũng có trách nhiệm trong việc quản lý thanh toán các
khoản NSNN được cấp phát.
Phương thức cấp phát theo dự toán kinh phí: Đây là phương thức để
cấp phát kinh phí thường xuyên cho các đơn vị dự toán NSNN-vốn là những
đối tượng thường xuyên sử dụng kinh phí từ NSNN để thực hiện nhiệm vụ
được giao. Các đối tượng này bao gồm: các cơ quan hành chính nhà nước, các
đơn vị sự nghiệp hoạt động dưới hình thức thu đủ, chi đủ hoặc gán thu bù chi,
các cơ quan Đảng, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp được nhà
nước đảm bảo kinh phí. Như vậy, cấp phát theo dự toán kinh phí là phương
thức áp dụng đối với các khoản chi mà cơ quan tài chính không trực tiếp cấp

phát. Trong đó, dự toán kinh phí được hiểu là khả năng tối đa mà đơn vị thụ
hưởng có thể nhận từ NSNN để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên của
mình. Kinh phí sử dụng thực tế của những đối tượng thụ hưởng không được
phép vượt quá giới hạn đã được phân bổ chi tiết theo từng hạng, mục, tháng,
quý được gọi là hạn mức cấp phát. Theo phương thức này, định kỳ hàng

20


×