Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật việt nam từ thực tiễn huyện đức hòa, tỉnh long an (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.24 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HOÀNG VŨ

TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hữu Nghị

Phản biện 1: TS. Đặng Vũ Huân

Phản biện 2: PGS.TS Dương Anh Sơn

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội 15 giờ 00 ngày 04 tháng 05
năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” thì việc thu hồi đất để chuyển một phần quỹ đất ở, đất
nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích khác là việc làm không thể
tránh khỏi. Tuy nhiên, sự việc này tác động rất lớn đến người bị thu
hồi đất. Mặc dù Nhà nước chỉ thu hồi đất nhưng các thiệt hại không
chỉ là thửa đất mà còn là nhà ở, vật kiến trúc, cây trồng mà quan
trọng hơn cả là các mối quan hệ bị phá vỡ. Đây là những ảnh hưởng
không nhỏ làm thay đổi cả tập quán sống, thói quen sinh hoạt, làm
việc, học tập của người có đất bị thu hồi và tác động trực tiếp đến các
mối quan hệ xã hội, cá nhân, gia đình, cộng đồng. Nhận thức sâu sắc
các hậu quả do việc Nhà nước thu hồi đất gây ra cho người sử dụng
đất, pháp luật đất đai đã có những quy định về việc giải quyết công
ăn, việc làm cho người bị mất đất sản xuất; giải quyết vấn đề tái định
cư cho người bị thu hồi đất phải di chuyển chổ ở. Thực tế áp dụng
các quy định này cho thấy đây là vấn đề nhạy cảm, khó khăn, phức
tạp và thường phát sinh tranh chấp, khiếu kiện gay gắt, kéo dài.
Xuất phát từ tầm ảnh hưởng của vấn đề tái định cư đối với
người bị thu hồi đất, trong những năm qua chính sách và pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ tái định cư luôn được Nhà nước quan tâm. Tuy
nhiên, trên thực tế, chính sách về tái định cư cũng như quá trình thực
hiện pháp luật về tái định cư cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất
ở cũng còn nhiều bất cập, vướng mắc. Trong nhiều dự án THĐ ở
người dân bị rơi vào cảnh bị chủ đầu tư "đem con bỏ chợ", nghĩa là
khi đất ở, nhà ở đã bị thu hồi nhưng vẫn chưa được TĐC, công tác tái
định cư cũng chưa được chuẩn bị chu đáo, thiếu các điều kiện đảm
1



bảo cho người dân có điều kiện sinh hoạt bình thường tại nơi ở mới,
nhiều dự án người dân được cơ quan có thẩm quyền hoặc chủ đầu tư
bố trí nơi ở tạm thiếu những điều kiện sống tối thiểu như điện, nước
sạch, trường học, bệnh viện… Tình trạng trên có thể bị kéo dài nhiều
năm, thậm chí kéo dài hàng chục năm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
lợi ích, đời sống của người dân và gây nên những bất bình, bức xúc,
thậm chí mất lòng tin của người dân đối với chính quyền. Nhiều dự
án người dân không đồng thuận, chống đối ngay từ giai đoạn đầu làm
cho cơ quan có thẩm quyền và chủ đầu tư không thể GPMB để thực
hiện dự án, tác động xấu đến môi trường đầu tư của nước ta.
Huyện Đức Hòa nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh
Long An, trong những năm gần đây đã có nhiều thay đổi, nhiều dự
án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, khu công nghiệp, khu đô thị,
thương mai, dịch vụ, đường giao thông đã và đang được triển khai
thực hiện nên việc thu hồi đất để thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế- xã hội là tất yếu khách quan. Chính bởi lẽ đó, công tác bồi
thường GPMB nói chung, cũng như công tác TĐC nói riêng luôn là
điểm nóng và là một trong những công tác luôn được sự chỉ đạo
trọng tâm của các cấp chính quyền. Việc nghiên cứu các qui định
pháp luật về tái định cư khi nhà nước THĐ là vô cùng thiết thực
nhằm góp phần tìm ra giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót
trên và nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nói
riêng và các địa phương khác trong cả nước nói chung. Với ý nghĩa
đó, tôi lựa chọn đề tài “Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo
pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An”
làm đề tài nghiên cứu luận văn.


2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có khá nhiều các bài viết, các công
trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi
Nhà nước thu hồi đất. Tiêu biểu có các công trình nghiên cứu như:
Nông Đức Mạnh (2003), đổi mới chính sách đất đai bảo đảm hài hòa
lợi ích Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất, bài phát biểu tại
phiên bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ 7 khóa XI, Báo Tiền Phong; Nguyễn Vĩnh Diện
(2006), Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất,
Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trần
Quang Huy (2010), Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp
chí Luật học (12), tr.14-20; Trần Quang Huy (2010), Pháp luật về đất
đai Việt Nam hiện hành nhìn từ góc độ bảo đảm quyền của người sử
dụng đất, Tạp chí Luật học (8), tr.37-45; Nguyễn Thị Nga (2010),
Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt
bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng, Tạp chí
Luật học (11), tr27-36; Phạm Thu Thủy (2014), Pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, Luận án
tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu, các bài viết đã phản
ánh đa dạng và sâu sắc ở nhiều khía cạnh khác nhau về bồi thường
khi Nhà nước THĐ nói chung và TĐC khi Nhà nước THĐ nói riêng.
Thành quả của những công trình nghiên cứu đó đã cung cấp những
luận cứ khoa học, thực tiễn cho việc xây dựng, triển khai công tác
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tiếp thu
các quan điểm, các nhận định về bồi thường, TĐC khi Nhà nước
THĐ của các nhà khoa học đi trước, Luận văn tập trung nghiên cứu

sâu hơn về thực trạng pháp luật qua thực tiễn triển khai thi hành trên
3


địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An để làm sâu sắc hơn vấn đề
nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với mong muốn làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản về TĐC khi
Nhà nước THĐ ở, đối chiếu giữa thực tế của hoạt động TĐC và các
quy phạm pháp luật hiện hành chỉ ra được những vướng mắc, bất
cập, hạn chế, yếu kém trong công tác thực hiện tái định cư. Qua đó,
đề xuất những giải pháp tháo gỡ vướng mắc, bất cập, khắc phục hạn
chế, yếu kém nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lý luận về TĐC và pháp luật về TĐC
khi nhà nước THĐ; Nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật về tái
định cư từ thực tiễn thi hành trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An; Đề xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về TĐC khi Nhà nước THĐ phù hợp với thực
tiễn đặt ra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu quan điểm, chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về TĐC khi
Nhà nước THĐ; nghiên cứu các quy định hiện hành về TĐC khi Nhà
nước THĐ; nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về TĐC khi
Nhà nước THĐ trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn thạc sĩ luật học
đề tài tập trung nghiên cứu các hệ thống pháp luật thực định, các

nguyên tắc pháp lý cũng như các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành trong lĩnh vực tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
4


Luận văn tiếp cận và phân tích, bình luận các quy định về tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất được ban hành từ năm 2003 đến
nay. Qua việc nghiên cứu những quy định của pháp luật, tác giả
mong muốn làm rõ, cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất để rút ra những kết quả đạt được trong công
tác thực thi pháp luật về tái định cư và những khó khăn, hạn chế về
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Đức Hòa,
tỉnh Long An. Đồng thời, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hơn nữa trong công tác tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên
quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa MácLênin, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách, pháp
luật đất đai trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xu thế hội
nhập quốc tế của Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thu thập số liệu,
phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích, đánh giá; phương
pháp hệ thống; phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp thống kê;
phương pháp so sánh… để đảm bảo cho những lập luận đưa ra có
tính chặt chẽ và lôgic.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Qua phân tích, đánh giá thực hiện pháp luật về tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, tìm
ra những nguyên nhân sâu xa của những hạn chế, yếu kém trong
công tác bồi thường, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Đề xuất

phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trong thời gian tới.
5


7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tái định cư và pháp luật
về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện pháp
luật về tái định cư khi nhà nước thu hồi đất tại huyện Đức Hòa, tỉnh
Long An.
Chương 3: Yêu cầu, định hướng, giải pháp bảo đảm và nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI ĐỊNH CƯ VÀ PHÁP
LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Lý luận chung về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Tái định cư: Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa
Khái niệm: Tái định cư là việc người sử dụng đất được bố trí
nơi ở mới bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở mới
hoặc bồi thường bằng giao đất ở hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo
chỗ ở mới khi Nhà nước thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở.
Đặc điểm: Tái định cư là một phương thức bồi thường thiệt hại

về tài sản khi Nhà nước THĐ; là biện pháp nhằm giảm nhẹ các tác
động xấu về kinh tế- văn hóa- xã hội đối với một bộ phận dân cư
phải di chuyển nơi ở vì sự phát triển chung của đất nước.
Ý nghĩa: Chính sách TĐC có ý nghĩa quan trọng đối với cả
Nhà nước, người được TĐC và nhà đầu tư. Nếu chính sách TĐC đề
ra hợp lý, đảm bảo được lợi ích của các chủthể liên quan thì sẽ góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tếvà ổn định xã hội.
1.1.2. Bản chất, lý do của tái định cư
Bản chất của việc tái định cư là nhà nước bố trí đất cho người
sử dụng đất khi nhà nước tiến hành thu hồi đất ở của người sử dụng
đất. Tái định cư là biện pháp nhằm giảm nhẹ các tác động xấu về
kinh tế, văn hóa, xã hội đối với một bộ phận dân cư phải di chuyển
nơi ở vì sự phát triển chung của đất nước. Tái định cư không chỉ giúp
người bị thu hồi đất sớm ổn định đời sống, sinh hoạt và sản xuất mà
còn tạo ra sự đồng thuận của cộng đồng xã hội đối với việc thu hồi
đất của Nhà nước, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta.
1.2. Lý luận pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất
7


1.2.1. Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật về tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức tạp và
nhạy cảm, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất. Pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích
kinh tế giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và chủ đầu tư. Điều này
đặt ra yêu cầu cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật về tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất để góp phần làm giảm các vụ việc tranh

chấp, khiếu kiện đông người, đảm bảo quyền, lợi ích cho người có
đất bị thu hồi.
1.2.2. Các nguyên tắc của pháp luật về tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
Khi Nhà nước ra quyết định THĐ sẽ làm phát sinh quan hệ bồi
thường, hỗ trợ, TĐC giữa Nhà nước với người sử dụng đất. Vì vậy,
nhà nước đã đề ra những nguyên tắc nhất định, bắt buộc các chủ thể
liên quan phải tuân thủ: Thứ nhất, người sử dụng đất chỉ được hưởng
chính sách TĐC khi có đủ điều kiện luật định; Thứ hai, chính sách
TĐC được thực hiện khi Nhà nước THĐ ở hoặc đất ở có nhà ở; Thứ
ba, việc Nhà nước tiến hành THĐ ở nói chung và thực hiện chính
sách TĐC nói riêng phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng,
công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.
1.2.3. Nội dung của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
Pháp luật về TĐC khi Nhà nước THĐ bao gồm tổng thể các
quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề liên quan đến TĐC khi
Nhà nước THĐ. Theo quy định của pháp luật hiện hành về TĐC khi
Nhà nước THĐ bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật cơ bản sau:
8


Thứ nhất, nhóm quy phạm quy định về nguyên tắc TĐC; Thứ
hai, nhóm quy phạm quy định về điều kiện được hưởng chính sách
TĐC; Thứ ba, nhóm quy phạm quy định về các hình thức TĐC; Thứ
tư, nhóm quy phạm quy định về trình tự, thủ tục TĐC đối với người
bị THĐ; Thứ năm, nhóm quy phạm quy định về giải quyết khiếu nại,
tố cáo liên quan đến TĐC khi Nhà nước THĐ.
1.3. Các yếu tố tác động đến tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất

- Yếu tố chính trị: Quan điểm, đường lối của Đảng về xây
dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai nói chung và chính
sách, pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
nói riêng. Xét về phương diện lý luận, pháp luật là sự thể chế hoá,
quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng. Hay nói cách khác,
quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng là sự định hướng về mặt
chính trị cho hoạt động lập pháp, lập quy ở nước ta. Trên cơ sở đó,
Nhà nước thể chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng bằng các
quy định của pháp luật để quản lý xã hội. Vì vậy, pháp luật về bồi
thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thể chế hoá quan điểm,
đường lối, chủ trương của Đảng về vấn đề này.
- Yếu tố kinh tế: Cơ chế quản lý kinh tế cũng có những tác
động nhất định đến pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất. Trước đây, trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung
quan liêu, bao cấp, kế hoạch hoá cao độ, đất đai không được thừa
nhận là tài sản và không được phép trao đổi trên thị trường… pháp
luật nghiêm cấm việc mua bán, chuyển nhượng đất đai. Do đó, đất
đai có giá trị thấp. Vấn đề thu hồi đất dường như ít gặp phải những
khó khăn, phức tạp. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trong thời kỳ này chưa phát triển. Tuy nhiên,
9


kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường,
Trong điều kiện kinh tế thị trường cơ chế quản lý đất đai có sự thay
đổi: Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất là loại hàng hoá đặc biệt
(là một loại quyền về tài sản) và được trao đổi trên thị trường; thừa
nhận khung giá đất… đất đai ngày càng trở nên có giá. Việc thu hồi
đất gặp nhiều khó khăn do người bị thu hồi đất không đồng thuận với
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,

phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện vượt cấp, phức tạp, kéo dài, tiềm
ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị. Đây là vấn đề mang tính thời
sự và phức tạp, vì vậy, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất thường xuyên được rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhằm
đáp ứng yêu cầu của quản lý đất đai trong điều kiện kinh tế thị
trường.
- Yếu tố xã hội: Pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất phải đảm bảo ổn định xã hội. Hoạt động bồi thường, hỗ trợ, TĐC
nói chung cũng như hoạt động TĐC nói riêng là hoạt động khó khăn
và gây ra nhiều bức xúc trong dư luận nhiều năm trở lại đây, đặc biệt
đối với người dân phải di chuyển chỗ ở-những người phải chịu nhiều
thiệt thòi. Nếu như quyền lợi của họ không được quan tâm đúng
mức, không được giải quyết thỏa đáng thì việc họ phản đối, gây cản
trở cho quá trình Nhà nước thu hồi đất là một điều hoàn toàn dễ hiểu,
thậm chí họ có thể bị các phần tử xấu lợi dụng gây mất trật tự an toàn
xã hội. Bởi vậy, yêu cầu đặt ra đối với công tác TĐC là phải đảm bảo
lợi ích tối đa của người được TĐC, giảm thiểu đến mức thấp nhất
mâu thuẫn phát sinh giữa Nhà nước, nhà đầu tư với người dân trong
quá trình thực hiện TĐC.
1.4. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất
10


- Giai đoạn trước khi ban hành Luật Đất đai năm 1993
- Giai đoạn từ khi có Luật Đất đai năm 1993 đến trước khi ban
hành Luật Đất đai năm 2003
- Giai đoạn từ khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay
Kết luận chương 1
Trong chương 1, nội dung được làm rõ là các vấn đề lí luận về

TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm: lí luận về tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất và lí luận về pháp luật tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất. Triển khai nội dung lí luận chung về tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất qua việc phân tích khái niệm về thu hồi đất và khái
niệm về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tiếp đó khái quát ý
nghĩa của việc tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đối với người
dân thuộc đối tượng TĐC, nhà đầu tư và Nhà nước.
Triển khai nội dung lí luận về pháp luật tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất qua việc phân tích khái niệm pháp luật về tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất, các nguyên tắc của pháp luật về tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất, nội dung của pháp luật tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất. Các yếu tố tác động đến tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất và lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất qua các giai đoạn.
Chính sách pháp luật về TĐC tốt sẽ góp phần làm cho môi
trường đầu tư hấp dẫn hơn, thu hút được nguồn đầu tư, đặc biệt là
vốn đầu tư nước ngoài nhiều hơn, tạo được sự đồng thuận của xã hội,
ổn định cuộc sống của người dân, qua đó phát triển kinh tế nước nhà.

11


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT TẠI HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
2.1. Thực trạng pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
2.1.1. Thực trạng các quy định về điều kiện được hưởng
chính sách tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Điều kiện bồi thường: Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất. Tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho
thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; nhận thừa kế
quyền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tiền
sử dụng đất đã nộp, tiền nhận chuyển nhượng đã trả không có nguồn
gốc từ ngân sách nhà nước, như đã phân tích ở trên, chính sách TĐC
là chính sách bồi thường đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất ở.
Điều kiện để được hưởng chính sách TĐC chính là điều kiện để được
hưởng chính sách bồi thường khi Nhà nước THĐ ở.
2.1.2. Thực trạng quy định về các hình thức tái định cư:
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì có 3 phương thức
sau đây để thực hiện TĐC khi Nhà nước THĐ: Một là, bồi thường
bằng nhà ở; Hai là, bồi thường bằng giao đất ở mới; Ba là, bồi
thường bằng tiền để tự lo nơi ở mới.
2.1.3. Thực trạng các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
12


Bồi thường, hỗ trợ, TĐC nói chung và công tác TĐC nói riêng
là khâu then chốt, quyết định trong quá trình Nhà nước THĐ để phục
vụ mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng,
mục đích phát triển kinh tế. Chỉ khi các công tác này được thực hiện
tốt, đảm bảo lợi ích của các bên đặc biệt là lợi ích của của người dân
bị THĐ thì việc THĐ mới được tiến hành một cách thuận lợi. Xuất
phát từ tầm quan trọng đó mà Nhà nước quy định một cách đầy đủ,

chặt chẽ về trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ TĐC. Xét
một cách tổng quát, trình tự, thủ tục thực hiện TĐC bao gồm các
bước sau: (i) Lập thẩm định và phê duyệt phương án TĐC; (ii) Công
khai phương án TĐC; (iii) Chi trả bồi thường, hỗ trợ và TĐC
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Huyện Đức Hòa nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Long An, có
dân số 221.609 người (năm 2014), đứng hàng thứ ba của tỉnh về diện
tích tự nhiên (42.775,65ha), có 20 đơn vị hành chính trực thuộc (17
xã và 03 thị trấn). Tính đến nay, trên địa bàn huyện diện tích đất
công nghiệp được phê duyệt quy hoạch là 6.343,03ha, gồm có 10
khu công nghiệp trên 5.163,03ha và 10 cụm công nghiệp có diện tích
1.180ha. Đồng thời, có 02 cụm công nghiệp Lý Khương- xã Đức
Hòa Hạ và Trung Thành Phát- xã Đức Hòa Đông với diện tích 242ha
và một số dự án đầu tư khu dân cư, tái định cư - thương mại dịch vụ
có diện tích 1.516 ha.
2.2.1. Khái quát chính sách tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất do tỉnh Long An ban hành để cụ thể hóa và tổ chức thực
hiện chính sách tái định cư của Nhà nước
Long An là một tỉnh thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long và
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích tự nhiên 449.194,49
13


ha, dân số 1.542.606 người (2014). Tỉnh Long An đang trong quá
trình đô thị hóa, công nghiệp hóa với tốc độ nhanh, do vậy, trong sử
dụng đất có nhiều thay đổi lớn về mục đích sử dụng, trong đó có việc
thu hồi đất. Trên cơ sở các quy định của trung ương về chính sách
bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, UBND tỉnh Long
An đã cụ thể hóa thành các quy định phù hợp với điều kiện cụ thể

của địa phương, ngày 01/3/2010 UBND tỉnh Long An ban hành
quyết định số 07/2010/QĐ-UBND về việc ban hành quy định về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh
Long An. Nội dung của quyết định đã quy định cụ thể về chính sách
bồi thường, tái định cư trên địa bàn tỉnh như: việc lập và thực hiện
các dự án tái định cư; chính sách và nguyên tắc bố trí tái định cư nhà
ở, đất ở cho hộ gia đình cá nhân. Thực hiện Luật Đất đai năm 2013
và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, UBND tỉnh Long An đã ban hành
Quyết định số 56/2014/QĐ-UBND ngày 13/11/2014 về việc ban
hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn tỉnh Long An. Nội dung của quyết định đã quy
định cụ thể về chính sách bồi thường, tái định cư trên địa bàn tỉnh
như: hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia
đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di
chuyển chỗ ở; Suất tái định cư tối thiểu.
2.2.2. Thực tiễn thi hành các quy định về tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Đến tháng 12 năm 2015, toàn huyện có 10 KCN (6.343,03 ha)
và 10 CCN (5.163,03 ha) với tổng diện tích bồi thường, thu hồi
10.909,06 ha; đạt 91,02 % số hộ, tổ chức; đạt 95 % diện tích; đạt
96,3 % số tiền chi trả.
Đến nay, huyện có 08 khu TĐC cho KCN (7 khu), CCN (1
14


khu), trong đó: 2 khu chưa triển khai xây dựng hạ tầng; 6 khu đã
triển khai xây dựng. Tổng số hộ bố trí tái định cư: 3.384; tổng số nền
tái định cư: 7.275 nền.
Thực tế hiện nay ở tỉnh Long An nói chung và đặc biệt là
huyện Đức Hòa nói riêng việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

chủ yếu là bồi thường bằng tiền mặt và tái định cư bằng tiền hoặc
bằng nền tái định cư. Số tiền được chi trả và nền tái định cư trên thực
tế vẫn chưa làm cho cuộc sống của người dân tốt hơn, dẫn tới việc
người dân bị thu hồi đất gặp nhiều khó khăn sau khi bị thu hồi đất.
2.3. Đánh giá về công tác tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
2.3.1. Những kết quả đạt được
Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực tế cho thấy, công tác bồi
thường GPMB khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất luôn là vấn đề
phức tạp mang tính tổng hợp các mặt đời sống, kinh tế, xã hội; đòi
hỏi cần có sự quan tâm của nhiều cấp, ngành, tổ chức và cá nhân.
Xác định được tầm quan trọng đó, Huyện Ủy, HĐND, UBND huyện
thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể đối với từng ngành,
từng địa phương và từng chủ đầu tư thực hiện dự án nhanh chóng
hoàn thành công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để chủ đầu tư có
mặt bằng thực hiện dự án đúng tiến độ đề ra.
UBND huyện đã kịp thời giải quyết những vướng mắc, kiến
nghị về bồi thường, giải phóng mặt bằng, song song với việc tháo gỡ
giải quyết các nội dung vướng mắc, công tác định giá đất bồi thường,
giá đất tái định cư cũng được thực hiện một cách nhanh chóng và kịp
thời, góp phần đẩy nhanh tiến độ bồi thường GPMB các dự án, đặc
biệt là các dự án trọng điểm như: Dự án Khu dân cư Tân Đức, Khu
dân cư Trần Anh, Khu Công nghiệp Đức Hòa 1…
15


Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo có
nhiều chuyển biến tích cực, nhận thức và hành động của cả hệ thống
chính trị về vai trò, trách nhiệm và sự phối hợp trong hoạt động tiếp
công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được nâng lên, các kiến

nghị, đề nghị của công dân được đối thoại, xem xét ngay tại cơ sở,
nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài đã được chấm dứt giải quyết,
những vụ việc mới phát sinh được xem xét giải quyết kịp thời.
2.3.2. Những hạn chế, thiếu sót, bất cập
Công tác bồi thường GPMB nói chung, cũng như công tác tái
định cư nói riêng là một công việc hết sức phức tạp, mang tính nhạy
cảm cao, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân. Do đó,
trong thời gian qua mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo cũng như việc tổ chức cải tiến phương pháp làm việc
song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, bất cập.
Cơ chế chính sách về đất đai, quy hoạch, bồi thường GPMB
không ổn định, thường xuyên thay đổi, nhiều nội dung quy định còn
bất cập, khó áp dụng vào thực tế. Việc tuyên truyền phổ biến Luật
đất đai và chế độ chính sách giải phóng mặt bằng chưa được thường
xuyên, nhận thức của một số hộ dân còn hạn chế.
Đa số các hộ dân đều có ý thức chấp hành pháp luật tốt, song
bên cạnh đó một bộ phận ý thức chưa tốt, cố tình không bàn giao mặt
bằng, tái lấn chiếm đất đai, dựng lều trại cản trở quá trình thi công,
gây áp lực với chính quyền địa phương và chủ đầu tư để đòi thêm
tiền đền bù ngoài chính sách và còn có sự tiếp tay, kích động của một
số phần tử xấu gây nhiều khó khăn cho việc bồi thường GPMB;
Công tác quản lý nhà nước về đất đai, xây dựng tại các địa phương
còn nhiều bất cập gây ảnh hưởng lớn đến việc xác định nguồn gốc sử
dụng đất, quá trình tạo lập, xây dựng nhà cửa, kiến trúc để làm cơ sở
16


cho việc lập phương án bồi thường; Công tác kiểm tra, giám sát, lãnh
chỉ đạo có lúc chưa thường xuyên. Công tác báo cáo và phối kết hợp
với các ngành chức năng của tỉnh để tháo gỡ khó khăn vướng mắc

chưa kịp thời; Công tác quản lý đất đai, đô thị còn nhiều hạn chế;
phương tiện quản lý, cán bộ và lực lượng tham gia công tác GPMB
có lúc chưa đáp ứng được yêu cầu; lực lượng cán bộ địa chính xã ở
các địa phương hầu hết vừa thiếu lại vừa yếu, chưa đáp ứng được yêu
cầu công tác quản lý đất đai ở cơ sở và xác minh nguồn gốc đất đai
làm cơ sở tính bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư còn chậm. Quỹ
đất bố trí tái định cư ở đô thị khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu
bố trí tái định cư các dự án. Nhiều dự án khi thực hiện GPMB chưa
có đất tái định cư ngay cho dân, chưa công bố giá đất tái định cư
trước khi các hộ dân phải di chuyển nên hộ dân không yên tâm, chưa
bàn giao mặt bằng cũng ảnh hưởng lớn đến tiến độ GPMB các dự án.
Các dự án TĐC thường được triển khai chậm so với dự án
chính, thời gian chờ bố trí TĐC thường kéo dài trên 2 năm gây khó
khăn cho việc ổn định đời sống, sinh hoạt của người dân. Phương án
bồi thường, chính sách hỗ trợ TĐC ở từng địa bàn dự án, từng thời
gian có thay đổi tạo nên sự so bì thắc mắc của người dân;chưa xây
dựng các khu nghĩa trang nhân dân hoàn chỉnh để người dân có chỗ
cải táng mồ mả.
Phong tục tập quán người dân khu vực nông thôn có cuộc
sống nhà ở gắn liền đất canh tác vườn ao, cây trồng vật nuôi, do đó,
khi vào khu TĐC thì quy mô diện tích đất có hạn, người dân chưa
theo kịp được sự thay đổi đột ngột nhu cầu cuộc sống nên gặp nhiều
khó khăn để ổn định cuộc sống.

17


Hiện nay nhiều khu tái định cư chất lượng kém, không đáp
ứng được chất lượng công trình, mới đi vào sử dụng đã xuống cấp,

hư hỏng; nhà tái định cư hẹp, không có sân chơi cho trẻ em; quỹ đất
để thực hiện dự án, xây dựng nhà tái định cư không có. Khi thu hồi
đất của người dân rồi vẫn chưa có nhà để ở; Công tác giải quyết
khiếu nại về bồi thường, tái định cư còn chậm, kéo dài làm ảnh
hưởng đến đời sống của người dân.
Kết luận chương 2
Trong chương 2, đã tập trung làm rõ các quy định của pháp
luật về TĐC đối với người bị THĐ ở, cụ thể là về: Điều kiện được
hưởng chính sách TĐC; Hình thức TĐC; Trình tự, thủ tục TĐC và
giải quyết khiếu nại, tố cáo khi thực hiện chính sách TĐC. Đồng
thời, trong chương 2, cũng dựa trên cơ sở báo cáo công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng nói chung trên địa bàn huyện Đức Hòa,
để qua đó đánh giá về thực tiễn thi hành công tác bồi thường giải
phóng mặt bằng nói chung, cũng như công tác TĐC nói riêng.
Trong thời gian qua, công tác bồi thường, tái định cư trên địa
bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã đạt được những kết quả tích
cực, kịp thời GPMB để chủ đầu tư có mặt bằng thực hiện dự án đúng
tiến độ đề ra, góp phần thu hút vốn đầu tư, ổn định cuộc sống của
nhân dân và phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Tuy nhiên, công tác bồi thường, tái định cư trên địa bàn huyện
vẫn gặp một số khó khăn, hạn chế như công tác tái định cư chưa kịp
thời, nhà ở tái định cư, hạ tầng khu tái định cư chất lượng còn thấp,
đời sống người dân khi vào khu tái định cư còn nhiều khó khăn, làm
cho người dân còn nhiều bức xúc chưa đồng thuận cao trong thu hồi
đất, bồi thường và tái định cư.

18


Chương 3

YÊU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÁI
ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
3.1. Yêu cầu, định hướng bảo đảm và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ
thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
3.1.1. Yêu cầu bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn
huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Tái định cư là quan hệ được đặt ra giữa Nhà nước và người có
đất bị thu hồi phải di chuyển chỗ ở. Tuy nhiên, “sức nóng” của vấn
đề này không chỉ ảnh hưởng tới các bên chủ thể liên quan mà được
cả xã hội quan tâm. Chính bởi vấn đề này có tác dụng lớn tới quyền
lợi của nhiều chủ thể, đặc biệt là quyền lợi thiết thân của người có
đất bị thu hồi; đồng thời nó cũng là vấn đề thời sự thu hút được sự
quan tâm của dư luận hiện nay nên quá trình thực hiện công tác TĐC
trên thực tế phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
3.1.1.1. Về mặt chính trị-xã hội
Trong quá trình thực hiện công tác TĐC, phải chú ý tới các
yêu cầu cơ bản về mặt chính trị-xã hội: Một là, công tác TĐC phải
được tiến hành theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước; Hai là, việc thực hiện công tác TĐC phải đảm
bảo ổn định xã hội.
3.1.1.2. Về mặt kinh tế
Đối với bất kỳ hoạt động nào, lợi ích kinh tế chính là một
trong những vấn đề mà những chủ thể liên quan quan tâm nhất; và
19



công tác TĐC không phải là ngoại lệ. Bởi vậy, công tác TĐC phải
đáp ứng được yêu cầu cơ bản là nhằm thoả mãn kinh tế của các chủ
thể.
3.1.2. Định hướng bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về TĐC khi Nhà nước THĐ ở
dựa trên quan điểm đường lối chính sách của Đảng về đất đai nói
chung và TĐC khi Nhà nước THĐ ở nói riêng; Thứ hai, hoàn thiện
pháp luật về TĐC khi Nhà nước THĐ cần phải dựa trên cơ sở đảm
bảo quyền tài sản của công dân mà Hiến pháp và Bộ luật Dân sự đã
ghi nhận; Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về TĐC khi Nhà nước THĐ ở
phải hướng vào việc đổi mới cơ chế thực hiện bồi thường cho phù
hợp với điều kiện kinh tế thị trường, từng bước thực hiện “xã hội
hoá” công tác TĐC.
3.2. Giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn
huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Hiệu quả của việc thực thi pháp luật về TĐC khi Nhà nước
THĐ không chỉ cần có định hướng đúng, tuân thủ các yêu cầu đặt ra,
mà cần phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất và phù
hợp; một cơ chế tổ chức thực thi có hiệu quả. Theo đó, trong thời
gian tới, để công tác TĐC được triển khai có hiệu quả, sự cần thiết
phải có những giải pháp sau đây:
3.2.1. Nhóm giải pháp về công tác quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất
Hạn chế quy hoạch các KCN, CCN ở những vùng dân cư tập
trung, nơi có lợi thế sinh lời cao; nên quy hoạch các KCN, CCN ở
những nơi có đời sống kinh tế thấp, ít dân cư. Để khi hình thành các
20



KCN vừa nâng cao giá trị sinh lời cho vùng đất, vừa tạo thế tác động
nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần cho dân cư vùng quy hoạch
và vùng phụ cận, hạn chế những tác động xấu đến môi trường và sức
khỏe của người dân đồng thời góp phần tạo sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế một cách hiệu quả.
3.2.2. Nhóm giải pháp về hoàn thiện khung khổ pháp lý và
các chính sách liên quan tới công tác tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về giá đất
cho phù hợp và sát với thực tế quản lí nhà nước về giá đất là một
biện pháp quan trọng trong quản lí nhà nước về đất đai giúp cho thị
trường vận động lành mạnh chứ không phải làm thay đổi quy luật
kinh tế thị trường khách quan. Việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà
nước thu hồi đất cho các mục đích của Nhà nước được dựa trên cơ sở
khung giá đất của Nhà nước quy định và từng bước thực hiện “xã hội
hoá” công tác TĐC.
3.2.3. Nhóm giải pháp tăng hiệu quả của triển khai thực tế
3.2.3.1. Nâng cao năng lực của bộ máy quản lý đất đai và
nâng cao nhận thức cộng đồng về pháp luật đất đai
Tổ chức tập huấn các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cho đội ngũ cán bộ làm
công tác hỗ trợ, tái định cư. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc tuân
thủ các quy định về trình tự thủ tục hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm.
3.2.3.2. Biện pháp tạo cơ chế để cộng đồng dân cư và người bị
thu hồi đất tham gia trực tiếp vào quá trình thu hồi đất, bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư
Cần có phân tích cụ thể các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa,
21



tập quán, v.v. của cộng đồng dân cư tại khu vực đất bị thu hồi, nhất
là cần phân tích kỹ đói nghèo và các ảnh hưởng xã hội để đưa ra
phương án thực hiện cụ thể. Thực hiện nguyên tắc chia sẻ lợi ích,
trong đó không chỉ đề cập tới lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư,
người bị thu hồi đất mà còn phải đề cập tới lợi ích của cộng đồng nơi
có đất.
3.2.4 Nhóm giải pháp ổn định cuộc sống của người dân
trong vùng giải tỏa
Gắn việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC với thực hiện các chính
sách xã hội; xây dựng và thực hiện các phương án sinh kế của người
dân khi bồi thường, TĐC trong thu hồi đất; quy hoạch phát triển các
KCN một cách hợp lý hơn, tránh ảnh hưởng đến sản xuất nông
nghiệp, đời sống người dân; xây dựng và ban hành cụ thể chuyển
dịch cơ cấu lao động để đáp ứng được mục tiêu phát triển của tỉnh;
cơ chế liên kết giữa người sử dụng lao động và cơ sở đào tạo, đào tạo
tại chỗ phù hợp và tổ chức nhân rộng.
Kết luận chương 3
Xuất phát từ lí luận và thực tiễn đã đề cập ở hai chương trước,
nội dung của chương 3 chủ yếu nêu ra những định hướng và yêu cầu
cùng các giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy
định của pháp luật về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Các giải pháp
được đề xuất ở chương này nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi hợp
pháp của Nhà nước, chủ đầu tư và đối tượng có đất bị thu hồi. Trên
cơ sở đảm bảo được các lợi ích đó thì mục đích phát triển xã hội,
phát triển kinh tế của Nhà nước, mục đích thu lợi nhuận của các nhà
đầu tư mới có thể tiến hành được thuận lợi. Đồng thời, các quyền
hợp pháp của người sử dụng đất cũng được bảo vệ và tránh được tình
trạng các khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến bồi thường giải phóng

mặt bằng nói chung, cũng như công tác TĐC nói riêng.
22


KẾT LUẬN
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói
chung và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng là vấn đề
phức tạp và mang tính thời sự nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của
toàn xã hội; có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, tâm lý của người
dân và tác động không nhỏ đến sự ổn định chính trị. Với mục tiêu
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020,
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng
hiện đại thì chúng ta không thể không thực hiện công nghiệp hóahiện đại hóa đất nước. Để giải quyết bài toán đất đai đáp ứng yêu cầu
CNH - HĐH đất nước thì việc thu hồi đất là việc làm khó tránh khỏi.
Tuy nhiên, việc làm này gây ra nhiều hậu quả mà nếu không giải
quyết dứt điểm, kịp thời sẽ phát sinh tranh chấp, khiếu nại kéo dài và
tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị. Pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nói chung và pháp luật về tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất nói riêng ra đời nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc
thực hiện thu hồi đất và giải quyết hài hoà lợi ích của các bên liên
quan: Lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người bị thu hồi đất và lợi
ích của nhà đầu tư.
Huyện Đức Hòa có vị trí địa lý thuận lợi, tiếp giáp với thành
phố Hồ Chí Minh, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Việc phát triển các KCN, CCN và các phát triển khác là khâu then
chốt để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của huyện.
Muốn thực hiện điều này công tác bồi thường GPMB phải đi tiên
phong. Các hoạt động phát triển này luôn gắn liền với việc chuyển
đổi mục đích sử dụng đất, thu hồi đất và đi liền với đó là các chính
sách bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.


23


×