Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

CƠ sở lý LUẬN và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.5 KB, 65 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CÔNG
NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ


Tổng quan về các công trình nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu thực tế ứng dụng CNTT tại Việt
Nam, Ngành Dầu khí và một số doanh nghiệp, cơ quan nhà
nước đã cho thấy nhiều đề tài, dự án triển khai ứng dụng
CNTT cụ thể như sau :
Các chương trình dự án ứng dụng CNTT
+ Đề án 112 hay còn gọi là Đề án Tin học hóa hành chính nhà
nước của Chính phủ Việt Nam nhằm mục đích xây dựng
chính phủ điện tử ở Việt Nam. Đây là một chương trình hiện
đại hóa hành chính của chính quyền Việt Nam giai đoạn 2001
- 2010 về cải cách thủ tục hành chính nhà nước (Quốc hội
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2013).
+Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam cũng đã thực hiện nhiều
chương trình dự án quy mô đầu tư lớn về ứng dụng CNTT trong
những năm qua:
Dự án ứng dụng CNTT Văn phòng, Email và Internet đã phổ cập
đến CBCNV làm công tác nghiên cứu; quản lý và điều hành
trong Tập đoàn và tại các đơn vị ;
Tập đoàn và tất cả các đơn vị, Tổng công ty đã xây dựng


Website riêng thực hiện truyền thông, giới thiệu dịch vụ và
quảng bá hình ảnh của Tập đoàn và các đơn vị.
Dự án các hệ thống ứng dụng quản lý sản xuất kinh doanh
(Hệ thống Kế toán - Tài chính, hệ thống báo cáo hợp nhất, Hệ
thống quản lý nhân sự, Hệ thống quản lý khách hàng,…).


Dự án xây dựng một số phân hệ quản lý tác nghiệp các hoạt
động (Hệ thống quản lý đấu thầu, quản lý an toàn - sức khỏe môi trường, quản lý đầu tư,…)
Dự án triển khai ứng dụng hệ thống quản lý công văn tài liệu;
Dự án Trung tâm xử lý số liệu dầu khí giai đoạn 1984 – 1990;
Dự án xây dựng cơ sở dữ liệu dầu khí giai đoạn 1 tại trung
tâm thông tin;
Trang bị các hệ thống chuyên dụng Workstation;
Hệ thống giám sát an ninh bảo vệ, hệ thống quản lý vào ra,
chấm công, phòng chống đột nhập, cảnh báo an ninh an toàn,
các hệ thống SCADA (Supervisory Control And Data
Aquisition),… để đáp ứng tốt yêu cầu về sản xuất kinh doanh
riêng của đơn vị.


Đây là những dự án ứng dụng CNTT hiện đại, xứng tầm và
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong quản lý của Tập đoàn Dầu
khí Quốc Gia Việt Nam; Những ứng dụng này đã góp phần
cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nói chung và Tổng Công ty
Thăm dò Khai thác Dầu khí nói riêng có những bước phát
triển nhanh chóng về cả quy mô và hiệu quả sản xuất kinh
doanh, góp phần lớn vào sự phát triển chung của cả nước,
đồng thời khẳng định vị trí của mình trong khu vực thế giới.
Các công trình nghiên cứu
+ Đặng Quốc Bình (2010), Nghiên cứu công nghệ sharepoint
cho các ứng dụng cộng tác và quản lý nguồn thông tin. Tác
giả Đặng Quốc Bình đã nghiên cứu luận văn về ứng dụng
CNTT cho phép người dùng trong cùng hệ thống có thể tương
tác với nhau như: Hội thảo trực tuyến, chia sẻ tài liệu, cùng
xây dựng tài liệu chung, sử dụng chung lịch công tác, cùng
chia sẻ tài nguyên hệ thống. Ngoài ra ứng dụng cũng cho phép

quản lý các luồng thông tin theo các luồng công việc
(Workflow). Việc ứng dụng sharepoint đã giúp tiết kiệm thời
gian, tiền bạc và nhân lực trong hoạt động của doanh nghiệp.
+ Tập thể tác giả Ban Công Nghệ Thông Tin và Hệ Thống -


Tổng Công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí (2016), Nghiên
cứu xây dựng ứng dụng hỗ trợ người dùng trực tuyến. Trong
nghiên cứu khoa học cấp Tổng công ty này nhóm tác giả đưa
ra các nội dung phân tích, đánh giá được thực trạng quản lý
các dịch vụ hỗ trợ CNTT trong Tổng công ty, từ đó, đưa ra
một giải pháp xây dựng một hệ thống hỗ trợ người dùng trực
tuyến thống nhất từ văn phòng Tổng công ty tới các chi nhánh
và đơn vị con; Bao gồm cải tiến mô hình tổ chức bộ phận hỗ
trợ kỹ thuật, nghiên cứu xây dựng dựng 06 quy trình quản lý
vận hành dịch vụ CNTT và triển khai cấu hình, chạy thử
nghiệm với 02 quy trình quản lý vận hành trên ứng dụng
Service Desk Plus 9.1 (SDP). Kết quả thử nghiệm cho thấy
với mô hình hỗ trợ kỹ thuật mới này, với ứng dụng SDP, các
quy trình đã xây dựng thì đã giải quyết được các yêu cầu cải
tiến đặt ra trong đề tài và đáp ứng được nhu cầu của Ban
Công nghệ thông tin và Hệ thống và Tổng công ty.
+ TS.Trần Châu Giang (2013), Phân tích rủi ro trong đánh giá
hệ thống dầu khí; Trong nghiên cứu này Tác giả đã đưa ra
được một hệ thống thông tin giúp trợ giúp việc ra quyết định
tìm kiếm thăm dò dầu khí dựa trên các quy tắc xác suất trong
phân tích rủi ro đó là đánh giá một hệ thống dầu khí cần phân


tích các yếu tố cơ bản cấu thành nên hệ thống này đó là: đá

mẹ, đá chứa, đá chắn, cùng với ba quá trình kết hợp các yếu tố
trên là: sự thành tạo của bẫy chứa dầu khí, sự sinh thành
hydrocarbon → di cư → tích tụ và khả năng bảo tồn dầu khí
của các bẫy; Việc xác định khả năng có được một phát hiện
dầu khí thực chất là việc phân tích rủi ro trong tìm kiếm, thăm
dò dầu khí (như rủi ro về địa chất, thương mại, kỹ thuật, tài
chính, chính trị, thiên tai, thời tiết…) dựa trên nguyên lý đó hệ
thống tính ra được xác suất càng gần 1 thì khả năng xác suất
thành công trong tìm kiếm thăm dò dầu khí càng cao.
Các tài liệu lý thuyết về công nghệ nói chung và CNTT nói
riêng
+ Hoàng Đình Phi (2012), Giáo trình Quản trị công nghệ: Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Giáo trình đề cập rất nhiều
vấn đề liên quan tới công nghệ, quản trị công nghệ, quản trị
kinh doanh, phát triển doanh nghiệp và phát triển kinh tế.
+ Trần Thị Song Minh (2012), Giáo trình hệ thống thông tin
quản lý: Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc Dân, quyển sách
này đã đề cập được những khái niệm cơ sở về thông tin, phân
tích thiết kế cài đặt hệ thống thông tin và các hệ thống thông


tin trong quản lý doanh nghiệp.
+ Trương Vũ Bằng Giang (2013), Tài liệu bài giảng Chuyển
giao công nghệ quốc tế. Tài liệu đã đưa ra chi tiết các khái
niệm, các công cụ, kỹ thuật về hoạt động chuyển giao công
nghệ.
+ Bộ thông tin và truyền thông (2014), Sách trắng Công nghệ
thông tin và truyền thông Việt Nam: Nhà xuất bản thông tin
và truyền thông. Quyển sách đã cho thấy được Tổng quan
hiện trạng CNTT của Việt Nam năm 2013; bao gồm các kiến

thức và thông tin về hệ thống các cơ quan chỉ đạo, quản lý về
CNTT; Ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước; Công
nghiệp CNTT; An toàn thông tin và Viễn thông Internet.
Như vậy có thể khẳng định chưa có một công trình nghiên cứu
nào về ứng dụng CNTT trong quản lý doanh nghiệp mà cụ thể
là Tổng Công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí – PVEP. Do
vậy việc lựa chọn đề tài nghiên cứu luận văn là cần thiết từ đó
đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin trong Quản lý tại Tổng Công ty Thăm dò và Khai thác Dầu
khí - PVEP
Cơ sở lý luận về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt


động của doanh nghiệp nhà nước
Một số khái niệm:
Định nghĩa công nghệ
Xã hội loài người phát triển như ngày nay là do con người
luôn luôn sáng tạo, áp dụng những thành tựu công nghệ vào
đời sống xã hội. Công nghệ đã trở thành một trong những
nguồn lực quan trọng trong rất nhiều lĩnh vực và có ảnh
hưởng to lớn tới cá nhân, doanh nghiệp và cộng đồng.
Định nghĩa do Ủy ban kinh tế và xã hội khu vực châu Á Thái Bình Dương (ESCAP): “Công nghệ là kiến thức có hệ
thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và
thông tin. Nó bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, phương
pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hóa và cung
cấp dịch vụ”.
Công nghệ = Máy móc, công cụ + Tri thức + Kỹ năng +
Phương pháp
Trong đó:
+ Tri thức: Sách vở giáo trình, các tài liệu công nghệ



+ Kỹ năng: Bàn tay vàng của người thợ, không tự nhiên sinh
ra mà phải trải qua quá trình làm nhiều và rèn luyện.
+ Phương pháp: Tự rút ra được từ tri thức, cải tiến rút kinh
nghiệm qua nhiều lần sẽ hình thành phương pháp mới tối ưu
hơn.
Định nghĩa chuyển giao công nghệ
Việc triển khai thành công các ứng dụng công nghệ đặc biệt là
công nghệ thông tin phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động
chuyển giao công nghệ :
Khái niệm về chuyển giao công nghệ :
+ Theo luật chuyển giao công nghệ thì chuyển giao công nghệ
là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần
hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công
nghệ sang bên nhận công nghệ.
+ Theo quan điểm quản trị thì chuyển giao công nghệ là tập
hợp các hoạt động thương mại và pháp lý nhằm làm cho bên
nhận công nghệ có được năng lực công nghệ như bên giao
công nghệ trong khi sử dụng công nghệ đó vào một mục đích
đã định.


Công nghệ nội sinh
Công nghệ nội sinh là công nghệ được tạo ra thông qua quá
trình nghiên cứu và triển khai ở trong nước. Đối với mỗi công
nghệ nội sinh thường được thực hiện các bước :
Công nghệ nội sinh hình thành từ việc chuyển giao công nghệ
giữa các đơn vị, tổ chức trong nước, do có đặc điểm khoảng
cách xa nhau về địa lý, về trình độ công nghệ, nhân sự,

nguyên liệu đầu vào hay nói chung là các yếu tố đầu vào từ
môi trường nghiên cứu, phát triển sang môi trường sản xuất
có sự tương đồng. Công nghệ nội sinh cũng có những ưu
nhược điểm sau:
+ Các ưu điểm: Công nghệ tạo ra phù hợp với mục đích sử dụng
của bên nhận; Bên nhận dễ dàng làm chủ được công nghệ;
không phụ thuộc nhiều vào nước ngoài, đặc biệt về kỹ thuật; Tận
dụng các nguồn lực, yếu tố đầu vào sẵn có ở địa phương. Ngoài
ra, công nghệ khi xuất khẩu còn mang lại nhiều lợi ích cho Bên
giao và nước giao như việc phát triển, mở rộng thêm tính năng
của công nghệ, không những tiết kiệm ngoại tệ mà còn thu được
ngoại tệ.
+ Các nhược điểm: Để có được một công nghệ cần nhiều thời


gian, tiền của và nhân lực, do đó nếu chỉ dựa hoàn toàn vào
công nghệ nội sinh thời gian công nghệ hóa sẽ kéo dài. Có
khả năng mất cơ hội, khả năng cạnh tranh trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Nếu trình độ nghiên cứu và triển khai không
cao, công nghệ tạo ra sẽ ít giá trị, công nghệ lạc hậu tạo ra sản
phẩm không thể cạnh tranh thị trường ngay ở trong nước.
Công nghệ ngoại sinh
Công nghệ ngoại sinh là một công nghệ thông qua việc mua
công nghệ do nước ngoài sản xuất. Đối với công nghệ ngoại
sinh thường có các bước :
Thực tế hiện nay việc nhập công nghệ kết hợp ba yếu tố là
mua thiết bị, liên doanh và mua bản quyền.
+ Các ưu điểm: Tiết kiệm thời gian, tiền của và nhân lực, tận
dụng được cơ hội, giảm được thời gian công nghệ hóa qua đó
sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Các nhược điểm: Việc áp dụng công nghệ ngoại sinh sẽ gây
tốn kém chi phí, không tận dụng được các nguồn lực địa
phương, không có khả năng thu được những lợi nhuận từ việc


xuất khẩu công nghệ, về lâu dài sẽ dẫn đến bị phụ thuộc công
nghệ, việc phụ thuộc vào công nghệ ngoại sinh không phải là
một giải pháp phát triển bền vững.
Các mức độ chuyển giao công nghệ:
Để đánh giá chiều sâu của hoạt động chuyển giao công nghệ
giữa bên giao và bên nhận, người ta chia làm 4 mức độ sâu
dần: Mức độ 1 - Trao đổi kiến thức; Mức độ 2 - Chìa khóa
trao tay; Mức độ 3 - Trao sản phẩm và Mức độ 4 - Trao thị
trường.
Mức độ 1- Trao đổi kiến thức: việc chuyển giao công nghệ
chỉ dừng lại ở việc truyền đạt kiến thức bằng cách đưa công
thức, bí quyết, hướng dẫn, tư vấn kỹ thuật… Đối với trong
lĩnh vực CNTT có các dịch vụ tư vấn thiết kế, lập dự án, lập
kế hoạch, lập thiết kế thi công và tổng dự toán…
Mức độ 2 - Chìa khóa trao tay: Bên giao phải thực hiện các
công việc như: lắp đặt máy móc, hướng dẫn quy trình, hoàn
tất toàn bộ quá trình sản xuất. Bên nhận chỉ việc tiếp nhận
công trình và đưa vào sản xuất. Trong lĩnh vực CNTT mức độ
này hay gặp trong việc đầu tư trang thiết bị phần cứng, phần
mềm hệ thống…


Mức độ 3 - Trao sản phẩm: Ở mức độ này bên giao không
chỉ có trách nhiệm giúp bên nhận hoàn tất việc lắp đặt toàn bộ

dây chuyền sản xuất mà còn giúp họ sản xuất thành công sản
phẩm sử dụng công nghệ được giao. Mức độ 3 hay được sử
dụng trong việc đầu tư phát triển phần mềm ứng dụng nội bộ,
sau khi phát triển và đưa vào sử dụng thì bên bán phải hỗ trợ,
tối ưu quy trình, tối ưu sản phẩm trong khoảng từ 1 đến 2
năm. Hay gặp trong trường hợp đào tạo chuyên sâu cho cán
bộ kỹ thuật chịu trách nhiệm quản trị hệ thống phức tạp sau
một thời gian triển khai.
Mức độ 4 - Trao thị trường: Được đánh giá là mức độ
chuyển giao công nghệ sâu nhất. Ngoài trách nhiệm chuyển
giao công nghệ cho bên nhận, bên giao còn phải bàn giao một
phần thị trường của mình, nơi họ đã xâm nhập thành công cho
bên nhận và hình thức này được thể hiện trong hình thức liên
doanh. Đối với mức độ này đang là một xu hướng trong
chuyển giao ứng dụng CNTT liên quan đến hệ thống dịch vụ
công trong cơ quan nhà nước. Các hệ thống này đòi hỏi sự am
hiểu công nghệ của các công ty công nghệ kết hợp với trình
độ chuyên môn, quản lý của các cán bộ chuyên môn. Hình
thức đầu tư hợp tác Công - Tư cũng được đạt mức độ “Trao


thị trường...
Công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin chính là một loại công nghệ. Thuật ngữ
“công nghệ thông tin” xuất hiện lần đầu vào năm 1958 trong bài
viết xuất bản tại tạp chí Havard Business Review. Hai tác giả
của bài viết, Levitt và Whisler đã bình luận: “Công nghệ mới
chưa thiết lập một tên riêng. Chúng ta sẽ gọi là công nghệ thông
tin”. Theo thời gian CNTT đã có nhiều định nghĩa đưa ra, hoàn
thiện hơn.

Theo wikipedia.org, công nghệ thông tin (tiếng Anh:
Information Technology) là một nhánh kỹ thuật sử dụng máy
tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử
lý, truyền tải và thu thập thông tin.
Tại Việt Nam, Nghị quyết Chính phủ 49/CP ngày 04/08/1993
đã định nghĩa: “Công nghệ thông tin là tập hợp các phương
pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông
tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động
của con người và xã hội”.


Công nghệ thông tin là một ngành ứng dụng công nghệ vào
quản lý xã hội, xử lý thông tin. Có thể hiểu CNTT là ngành sử
dụng máy tính và các phương tiện truyền thông. Hiện nay, có
nhiều cách hiểu về CNTT.
Gần đây nhất, khái niệm CNTT được định nghĩa tại Luật
Công nghệ thông tin, số 67/2006/QH11 ngày 29/6/2006, như
sau: “Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa
học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất,
truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số”.
Đây có thể được coi là một khái niệm hoàn chỉnh về CNTT, vì
nó đã khái quát được toàn bộ nội dung, vai trò và ý nghĩa của
CNTT.
Khái niệm về doanh nghiệp
Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích kinh doanh (Hướng dẫn luật doanh nghiệp
2014).
Ứng dụng công nghệ thông tin

Là việc sử dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động thuộc lĩnh


vực kinh tế - xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và các hoạt
động khác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của các
hoạt động này (Điểm 5, Điều 4, Luật CNTT 2006).
An toàn thông tin
Bao gồm các hoạt động áp dụng công nghệ đối với hệ thống
thông tin nhằm bảo vệ, khôi phục các hệ thống, các dịch vụ và
thông tin đối với nguy cơ do tự nhiên hoặc con người gây ra.
Việc bảo vệ thông tin, tài sản và con người trong hệ thống
thông tin nhằm đảm bảo cho hệ thống vận hành chính xác an
toàn và tin cậy. An toàn thông tin bao gồm các nội dung về
bảo mật thông tin, an toàn dữ liệu, an toàn máy tính và an
toàn mạng (Điểm 3, Điều 3, Nghị định 64/2007/NĐ-CP).
Hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin
Là tập hợp thiết bị tính toán (Máy chủ, máy trạm), thiết bị
ngoại vi, thiết bị kết nối mạng, thiết bị phụ trợ, mạng nội bộ,
mạng diện rộng (Điểm 7, Điều 3, Nghị định 64/2007/NĐ-CP).
Văn bản điện tử
Là văn bản được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu (Điểm
6, Điều 3, Nghị định 64/2007/NĐ-CP).


Một số khái niệm liên quan được định nghĩa tại Luật CNTT
(Điều 4)
+ Môi trường mạng là môi trường trong đó thông tin được cung
cấp, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua cơ
sở hạ tầng thông tin.
+ Thiết bị số là thiết bị điện tử, máy tính, viễn thông, truyền

dẫn, thu phát sóng vô tuyến điện và thiết bị tích hợp khác
được sử dụng để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ
và trao đổi thông tin số.
+ Vi rút máy tính là chương trình máy tính có khả năng lây
lan, gây ra hoạt động không bình thường cho thiết bị số hoặc
sao chép, sửa đổi, xóa bỏ thông tin lưu trữ trong thiết bị số.
+ Trang thông tin điện tử (Website) là trang thông tin hoặc một tập
hợp trang thông tin trên môi trường mạng phục vụ cho việc cung
cấp, trao đổi thông tin.
Vai trò và cơ sở ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp
Vai trò ứng dụng công nghệ thông tin trong kinh tế xã hội
Từ những năm 50 của thế kỷ 20, các nhà kinh tế học đã phát
hiện ra những hiện tượng mới trong nền kinh tế mà các lý


thuyết kinh tế cũ không thể giải thích được. Nền kinh tế, thay
vì dựa trên việc sử dụng và phân phối các yếu tố vật chất như
trước, chuyển sang dựa ngày càng nhiều trên các yếu tố phi
vật chất là thông tin, tri thức và sự sáng tạo. Năm 1969, lần
đầu tiên khái niệm nền kinh tế tri thức đã trợ thành xu hướng
không thể phủ nhận. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế của
cấu trúc kinh tế mới, các quan hệ kinh tế mới phát sinh dựa
trên đầu vào cốt lõi mới là thông tin, tri thức. Nền kinh tế tri
thức tạo cơ hội cũng như thách thức đối với mọi quốc gia.
Tại Việt Nam Năm 2000, hội thảo đầu tiên về kinh tế tri thức
tại Việt Nam có tên Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra
cho Việt Nam được Ban Khoa giáo của Đảng, Bộ Khoa học
Công nghệ và Bộ Ngoại giao phối hợp tổ chức tại Hà Nội.
Trong văn kiện Đại hội lần thứ 9 của Đảng Cộng sản Việt
Nam năm 2001, lần đầu tiên thuật ngữ “kinh tế tri thức” xuất

hiện. Cuối năm 2000, Bộ Chính trị cũng chính thức ban hành
Chỉ thị 58 (58-CT/TW) về đẩy mạnh phát triển và ứng dụng
CNTT. Từ thời điểm này, có thể nói kinh tế tri thức và CNTT
đã trở thành một phần trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của Việt Nam. Việc Việt Nam tiếp cận kinh tế tri thức và
phát triển CNTT hoàn toàn phù hợp với vị thế của mình và


phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Chỉ thị 58 của Bộ
chính trị về CNTT chỉ rõ “CNTT là một trong các động lực
quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công
nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, vǎn
hoá, xã hội của thế giới hiện đại”. “Ứng dụng và phát triển
CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật
chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc
đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh
tế…” Việc nhấn mạnh về ứng dụng CNTT trong Chỉ thị 58
chứng tỏ quan điểm vĩ mô về CNTT khá rõ ràng: CNTT vượt
qua khỏi giới hạn của một công nghệ và một ngành công
nghiệp và trở thành một bộ phận không tách rời của nền kinh
tế tri thức mà chúng ta hướng tới, mặc dù vị trí của CNTT vẫn
chưa được nhấn mạnh đầy đủ. Chỉ thị 58 cũng chỉ rõ phương
hướng để phát triển CNTT cho Việt Nam gồm bốn hướng
đồng thời: Ứng dụng CNTT, Hạ tầng CNTT, Giáo dục đào tạo
về CNTT và Công nghiệp CNTT.
Vai trò ứng dụng công nghệ thông tin trong doanh nghiệp
Ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp
góp phần nâng cao năng lực quản lý tối ưu hóa các nguồn lực
của doanh nghiệp:



+ Tăng năng suất hiệu quả công việc của CBCNV: Ứng dụng
CNTT sẽ giúp CBCNV rút ngắn thời gian giải quyết công
việc, tăng số lượng công việc được giải quyết; sự phối hợp
trong công việc dễ dàng nhanh và rộng hơn.
+ CNTT cũng giúp tạo ra môi trường hoạt động chuyên
nghiệp, khoa học đầy năng động cho doanh nghiệp. Các ứng
dụng CNTT hiện nay đã giúp tự động thực hiện các quy trình,
các luồng công việc một cách tự động, giúp đẩy nhanh tốc độ
xử lý công việc theo chuẩn. Ngoài ra việc lưu trữ, sắp xếp
thông tin, tài liệu dễ dàng và khi cần thiết có thể tra cứu nhanh
chóng mọi nơi mọi lúc. Tốc độ trao đổi, hỏi đáp thông tin
nhanh hơn cũng đẩy mạnh tác phong của CBCNV đòi hỏi
CBCNV phải năng động hơn.
+ Việc ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp cũng giảm chi phí
hoạt động trong văn phòng, giảm chi phí văn bản giấy, chi phí
thư tín; bưu phẩm nhờ sử dụng hệ thống ứng dụng thư điện tử.
Việc sử dụng hệ thống quản lý văn bản điện tử sẽ giảm chi phí
hạ tầng phục vụ lưu trữ bản giấy. CNTT cũng giúp giảm các
chi phí về hội họp, hội nghị, chi phí đi lại và ăn ở thông qua
các ứng dụng hội họp trực tuyến.


+ Tự động hóa, thực hiện theo luồng công việc một cách tự
động, sẽ giúp nâng cao năng suất lao động, sẽ giúp doanh
nghiệp tiết kiệm chi phí thuê nhân công và lao động.
+ CNTT cũng áp dụng cho việc truyền thông, quảng bá
thương hiệu cho doanh nghiệp thông qua các cổng thông tin
điện tử; Các ứng dụng nâng cao tinh thần doanh nghiệp như
chúc mừng sinh nhật tự động từ lãnh đạo đến từng người lao

động…
+ CNTT hiện nay cũng càng ngày càng có vai trò trong việc
tham mưu trợ giúp ra quyết định cho các cấp quản lý doanh
nghiệp từ các hoạt động cơ bản như cung cấp, chia sẻ thông
tin, phân tích thông tin dưới góc độ đa chiều, đem lại tính
đúng đắn cao.
+ Xử lý công việc mọi lúc, mọi nơi: giúp cho CBCNV doanh
nghiệp có thể xử lý công việc, cung cấp thông tin, giao dịch
mọi lúc mọi nơi qua môi trường mạng khi có yêu cầu của
quản lý
+ Việc sống trong thời đại số, môi trường văn phòng số, trình
độ CBCNV không ngừng nâng cao, nhờ được đào tạo, bồi
dưỡng nhiều hơn. CNTT cũng giúp cho CBCNV dễ dàng tìm


hiểu, nghiên cứu luồng tài liệu trên mạng và có môi trường tốt
hơn trong việc tự học. CNTT cũng giúp cho một khóa đào tạo,
bồi dưỡng được tổ chức cho nhiều người tham dự hơn thông
qua hình thức đào tạo trực tuyến.
Có thể nói trong thời đại thế giới số, thời đại khoa học công
nghệ thì những thuận lợi từ CNTT là sẽ rất nhiều và phát triển
liên tục vượt ngoài sức tưởng tượng của nhân loại. Và CNTT
sẽ là một vũ khí chiến lược giúp cho doanh nghiệp phát triển
trong môi trường đầy biến động và cạnh tranh.
Cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin
Ứng dụng công nghệ thông tin trong doanh nghiệp chính là
việc sử dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của
doanh nghiệp nhằm tối ưu hóa hoạt đông kinh doanh của
doanh nghiệp. Để hiểu rõ được ứng dụng công nghệ thông tin
trong doanh nghiệp trước trước tiên chúng ta cần phải hiểu

được vai trò và cơ sở của ứng dụng công nghệ thông tin trong
doanh nghiệp:
Trong bối cảnh kinh doanh khốc liệt. Để tồn tại và phát triển
mỗi doanh nghiệp cần sử dụng hiệu quả các tài nguyên của
mình nhằm thu được lợi ích cao nhất. Michael Porter đã đưa


ra Mô hình chuỗi giá trị, mô hình đã chỉ ra mối quan hệ giữa
các hoạt động cho thấy cách thức tạo ra giá trị sản phẩm của
một doanh nghiệp. Qua mô hình, có thể thấy rằng các hoạt
động gián tiếp cũng tham gia vào quá trình tạo ra giá trị cho
sản phẩm bên cạnh các hoạt động trực tiếp. Ngoài ra, mô hình
còn là cơ sở để cho nhà quản trị đánh giá, xem xét để đưa ra
các quyết định cần tác động như thế nào vào các hoạt động để
đạt hiệu quả.

Các hoạt động cơ sở bao gồm:
+ Tổ chức đầu vào: Hàng hóa được thu mua từ các nhà cung
cấp và được sử dụng để sản xuất sản phẩm cuối cùng.
+ Vận hành: nguyên liệu, hàng hóa được sản xuất thành sản phẩm
cuối cùng.
+ Tổ chức đầu ra: Khi sản phẩm đã được sản xuất sẵn hàng


được phân phối cho các trung tâm phân phối, bán buôn, bán lẻ
hay khách hàng.
+ Marketing và bán hàng: Tiếp thị phải đảm bảo rằng sản
phẩm hướng tới khách hàng mục tiêu. Marketing hỗn hợp
được sử dụng để thiết lập một chiến lược hiệu quả, bất kỳ lợi
thế cạnh tranh được truyền đạt rõ ràng với các nhóm mục tiêu

thông qua việc kết hợp quảng cáo, …
+ Dịch vụ: Sau khi sản phẩm, dịch vụ đã được bán những dịch
vụ hỗ trợ nào cho khách hàng được tổ chức ?
Các hoạt động hỗ trợ: Hoạt động hỗ trợ giúp các hoạt động
chủ yếu trong việc giúp đỡ các tổ chức đạt được lợi thế cạnh
tranh. Hoạt động hỗ trợ bao gồm:
+ Mua sắm: Bộ phận này phải bảo đảm nguồn nguyên liệu
cho doanh nghiệp và phải có được mức giá tốt nhất. Thách
thức đối với mua sắm là để có được chất lượng tốt nhất có thể
có trên thị trường, phù hợp với ngân sách của doanh nghiệp.
+ Phát triển công nghệ: sử dụng công nghệ để có được một lợi
thế cạnh tranh là rất quan trọng trong môi trường theo định
hướng của công nghệ hiện nay. Công nghệ có thể được sử


dụng trong nhiều công việc, bao gồm cả trong các hoạt động
cơ sở và hoạt động bổ trợ.
+ Quản lý nguồn nhân lực: Tổ chức sẽ phải tuyển dụng, đào
tạo và phát triển những con người cho doanh nghiệp.
+ Cơ sở hạ tầng: các doanh nghiệp đều cần đảm bảo về mặt
tài chính, cơ cấu pháp lý và cơ cấu quản lý làm việc hiệu quả.
Theo mô hình trên mỗi hoạt động có tính tương đối độc lập,
ví dụ hoạt động Marketing và bán hàng có thể tổ chức là một
bộ phận độc lập. Tuy nhiên bộ phận này có mối liên hệ trực
tiếp với bộ phận dịch vụ và có mối liên hệ với các bộ phận
khác. Mối quan hệ giữa các hoạt động cơ sở, hoạt động bổ
trợ, và giữa các hoạt động được gọi là giao diện. Như vậy có
ba loại giao diện, giao diện giữa hoạt động cơ sở và hoạt động
hỗ trợ, giao diện giữa các hoạt động cơ sở, giao diện với
khách hàng và nhà cung ứng. Với sự phát triển của CNTT

hiện nay, tất cả các hoạt động đều có thể ứng dụng CNTT:
Hoàn thiện những hoạt động cụ thể, hoàn thiện kết nối (giao
diện) giữa các hoạt động hoàn thiện kết nối ngoài công ty. Các
nhà cung cấp dịch vụ phần mềm thường phân loại ứng dụng
theo cách sau:


×