Tải bản đầy đủ (.doc) (213 trang)

20 NĂM ĐỔI MỚI CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM NHỮNG THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 213 trang )

BỘ THƯƠNG MẠI
TS Lê Danh Vĩnh
(Chủ biên)

20 NĂM ĐỔI MỚI
CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
NHỮNG THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
(Sách chuyên khảo)

NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ

Hà Nội, 2006

1


MỞ ĐẦU
Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng cộng sản Việt nam
khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng và toàn dân, công
cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử. Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đang
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; kinh tế tăng trưởng nhanh, nền
kinh tế đang phát triển theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, tình hình chính trị và
an ninh được ổn định và uy tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng
được nâng cao.
Cùng với công cuộc đổi mới đất nước, Ngành thương mại đã trải qua
một quá trình đổi mới toàn diện, kể cả đổi mới về nhận thức và phương
thức hoạt động. Với quá trình đổi mới chính sách, cơ chế thương mại đã
tạo ra những thay đổi căn bản trong hoạt động thương mại, tạo ra "hiệu
ứng" tích cực, góp phần quan trọng vào những thành tựu kinh tế - xã hội


của đất nước. Thành tựu nổi bật trong đổi mới cơ chế, chính sách thương
mại trong 20 năm qua đó là:
Thứ nhất, nhận thức về vai trò quan trọng của Thương mại đối với
tăng trưởng và phát triển kinh tế trong 20 năm qua đã được đổi mới căn
bản ở các cấp, các ngành: Thương mại ngày nay không chỉ giới hạn
trong lĩnh vực thương mại hàng hóa mà đã tiếp cận tới cả lĩnh vực
thương mại dịch vụ; Thương mại từ chỗ được hiểu là khâu trung gian nối
liền khu vực sản xuất với người tiêu dùng qua khâu lưu thông, ngày nay
đã có vai trò kích thích và tác động, hướng dẫn phát triển sản xuất và
xuất khẩu.
Thứ hai, trong 20 năm qua các chủ thể tham gia thương mại đã được
đa dạng hóa và ngày càng cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Từ chỗ
chỉ có hai thành phần (quốc doanh và hợp tác xã), đến nay các thành
phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại đã phong phú và đa dạng
hơn nhiều. Hiện nay, đã có tất cả các thành phần kinh tế hoạt động trong
lĩnh vực thương mại, đặc biệt là sự xuất hiện và phát triển ngày càng
nhanh của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và khu
vực ngoài quốc doanh.

2


Thứ ba, từ chỗ thị trường trong nước bị cắt khúc theo địa giới hành
chính và gần như cô lập với thị trường ngoài nước, chúng ta đã tạo được
một thị trường thống nhất trong cả nước và ngày càng có gắn bó với thị
trường ngoài nước. Hàng hóa của Việt nam hiện đã có mặt tại gần 200
nước và vùng lãnh thổ, nhiều mặt hàng của Việt nam hiện đứng ở một
trong những vị trí hàng đầu trên thị trường thế giới như gạo, cà phê, hạt
tiêu...
Thứ tư, kinh tế Việt nam nói chung và thương mại Việt nam nói riêng

đang từng bước hội nhập sâu, rộng với kinh tế và thương mại quốc tế.
Chúng ta đã chủ động gia nhập Cộng đồng các nước Đông Nam Á và
thực hiện Hiệp định CEPT/AFTA, tham gia APEC, ASEM, đã thiết lập
quan hệ kinh tế, thương mại với nhiều đối tác quan trọng như EU, Nhật
Bản, Hoa Kỳ và chuẩn bị gia nhập WTO…
Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được trong 20 năm qua,
Ngành Thương mại cũng còn những hạn chế không nhỏ cần phải tiếp tục
giải quyết. Hạn chế lớn nhất đó là thương mại còn chưa đáp ứng tốt nhất
cho yêu cầu phát triển với tốc độ cao và bền vững trong điều kiện đẩy
mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó được thể hiện ở sức cạnh tranh
của hàng hóa, doanh nghiệp, ngành và nền kinh tế còn thấp so với khu
vực và thế giới; chưa khai thác hiệu quả những thị trường xuất khẩu tiềm
năng, thị trường với sự tham gia hoạt động của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ là chủ yếu nên dễ bị tổn thương trước những biến động trên thị
trường thế giới, tính tự phát của thị trường còn cao… Những hạn chế
trong phát triển thương mại thời gian qua đặt ra yêu cầu phải tổng kết
quá trình đổi mới chính sách, cơ chế thương mại nhằm rút ra những bài
học cho công tác xây dựng, hoạch định chính sách thương mại thời gian
tới, nhất là trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương
mại thế giới
Nhằm góp phần vào việc làm sáng tỏ hơn một số cơ sở lý luận cho
việc phân tích, đánh giá cơ chế, chính sách thương mại Việt Nam từ khi
tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, cũng như đứng trên quan điểm của
các nhà nghiên cứu để đánh giá thực tiễn quá trình đổi mới cơ chế, chính
sách thương mại, qua đó đề xuất các kiến nghị để tiếp tục đổi mới một
cách mạnh mẽ hơn cơ chế, chính sách thương mại của nước ta trong thời
gian tới, chúng tôi tiến hành biên soạn và giới thiệu cùng bạn đọc cuốn
sách: 20 năm đổi mới cơ chế chính sách thương mại Việt nam- Những

3



thành tựu và bài học kinh nghiệm. Đây là cuốn sách chuyên khảo nên nó
sẽ giúp ích cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu kinh tế
và phục vụ cho công tác đào tạo chuyên ngành thương mại.
Tham gia biên soạn cuốn sách này bao gồm:
TS. Lê Danh Vĩnh, Thứ trưởng Bộ Thương mại, Chủ biên;
CN. Bạch Văn Mừng, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương
mại;
PGS. TS. Đinh Văn Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương
mại, Bộ Thương mại;
ThS. Nguyễn Xuân Chiến, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thị trường
trong nước, Bộ Thương mại;
ThS. Trịnh Minh Anh, Phó Văn phòng Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh
tế quốc tế;
ThS. Phan Văn Chinh, Phó Vụ trưởng Vụ xuất-nhập khẩu, Bộ Thương
mại;
ThS. Vũ Bá Phú, Vụ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại.
Trong quá trình thực hiện công trình nghiên cứu này chúng tôi đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình và đóng góp ý kiến quý báu của Vụ Kế hoạch và
Đầu tư, Vụ Xuất-nhập khẩu, Vụ Chính sách Thương mại trong nước, Viện
Nghiên cứu Thương mại và Văn phòng Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế
quốc tế. Đồng thời, chúng tôi cũng đã nhận sự góp ý hết sức quý báu của
các nhà khoa học thuộc các trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, Đại
học Ngoại thương Hà Nội, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung tương
(CIEM) và các cơ quan nghiên cứu có liên quan. Chúng tôi xin chân thành
cám ơn tất cả các cơ quan và cá nhân đã tạo điều kiện, hỗ trợ và giúp đỡ
chúng tôi trong quá trình biên soạn cuốn sách này.Mặc dù đã có nhiều cố
gắng nhưng nội dung cuốn sách có thể còn những khiếm khuyết nhất định,
chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới độc giả cuốn sách này và mong nhận

được ý kiến đóng góp của bạn đọc.

Chủ biên
TS. Lê Danh Vĩnh

4


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ
CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI NƯỚC TA
1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG CỦA CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI

1.1.1.Khái niệm cơ chế, chính sách thương mại

Cơ chế quản lý thương mại là phương thức tác động của Nhà nước
vào nền kinh tế, thị trường để định hướng sự phát triển của thương mại
trong nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đã định. Một nền thương
mại chỉ có thể phát triển theo một khuynh hướng mong muốn khi có một
cơ chế quản lý phù hợp. Cơ chế quản lý thương mại, một mặt phải tuân
thủ các yêu cầu của quy luật phát triển khách quan, mặt khác phải có một
hệ thống các công cụ và chính sách quản lý thích hợp – chính sách
thương mại.
Chính sách thương mại là hệ thống các quy định, công cụ và biện
pháp thích hợp của Nhà nước để điều chỉnh các hoạt động thương mại
của quốc gia trong những thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu
đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách thương
mại là một bộ phận của chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, nó bao
gồm nhiều loại chính sách để điều chỉnh toàn bộ hoặc các hoạt động

thương mại cụ thể khác nhau. Chính vì vậy, có nhiều cách tiếp cận và
phân loại chính sách thương mại khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên
cứu. Trong thực tiễn, người ta thường đề cập tới các chính sách thương
mại cụ thể. Chẳng hạn: Chính sách thương mại quy định về các hoạt
động của thương nhân, chính sách phát triển thương mại trong nước và
quốc tế, chức trách của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực
thương mại, tổ chức lưu thông hàng hoá, phát triển thương mại ở các
vùng, chính sách thuế quan, chính sách phi thuế quan, trách nhiệm và
quyền hạn của các thương nhân khi kinh doanh thương mại trong nước
hay với nước ngoài, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thương mại.
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu tổng kết quá trình đổi mới
chính sách thương mại, chúng tôi tiếp cận các chính sách thương mại
theo 3 nhóm chính sách lớn, đó là:
- Chính sách thương mại đối với thị trường nội địa (chính sách phát
triển thương mại trong nước).

5


- Chính sách phát triển xuất, nhập khẩu.
- Chính sách hội nhập kinh tế - thương mại quốc tế.
1.1.2. Nội dung của chính sách thương mại ở nước ta

Các chính sách thương mại khác nhau sẽ có những nội dung cụ thể
khác nhau, song các chính sách thương mại đều có các nội dung điều
chỉnh hoạt động của thương nhân, điều chỉnh thị trường, mặt hàng hoặc
các quy định về đầu tư phát triển thương mại. Dưới đây là nội dung chủ
yếu của các quy định này:
Chính sách thương nhân: chính sách thương nhân ở nước ta hiện nay
quy định việc đăng ký kinh doanh được thực hiện tại cơ quan quản lý

nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; quy định quyền
hạn và nghĩa vụ của thương nhân; quy định quyền hạn và nghĩa vụ của
thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam, theo đó các
thương nhân nước ngoài phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt
Nam và đồng thời cũng được hưởng một số ưu đãi và được tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Chính sách thị trường: Đối với thị trường trong nước, chính sách của
Nhà nước ta hiện nay là đảm bảo tập trung nguồn lực để thúc đẩy sản
xuất hàng hoá, quy hoạch và cơ cấu lại để có những vùng chuyên canh
sản xuất hàng hoá lớn, đảm bảo hệ thống lưu thông hàng hoá thông suốt
giữa các vùng, các địa phương; đảm bảo cho sản xuất, lưu thông và tiêu
dùng hàng hoá cân đối, tránh những biến động bất ổn trên thị trường;
thúc đẩy việc hình thành đồng bộ các loại thị trường, đảm bảo nhất quán,
ổn định của chính sách để các chủ thể kinh doanh chủ động với các tình
thế trên thị trường, hình thành thị trường thống nhất trong phạm vi toàn
quốc với nhiều cấp độ thị trường và chú trọng phát triển các thị trường
trọng điểm quốc gia, vùng lãnh thổ. Đối với thị trường ngoài nước, chính
sách thị trường hiện hành của Nhà nước Việt Nam hướng vào mục tiêu
thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tích cực mở rộng,
tìm kiếm và tiếp cận thêm các thị trường mới.
Chính sách mặt hàng: gồm các quy định cụ thể đối với các loại mặt
hàng như các mặt hàng cấm kinh doanh, mặt hàng kinh doanh có điều
kiện, mặt hàng thuộc diện hạn chế kinh doanh, mặt hàng khuyến khích
và tự do kinh doanh, các mặt hàng quan trọng đối với nền kinh tế do Nhà
nước cân đối ở tầm quốc gia và quản lý tập trung. Chính sách mặt hàng

6


bao gồm nhiều tầng, vừa bảo đảm tính đa dạng, phong phú về chủng loại,

vừa có mũi nhọn, chiều sâu ở cấp quốc gia, cũng như các cấp, các đơn vị
của nền kinh tế quốc dân. Chính sách mặt hàng phải đảm bảo phát triển
mặt hàng với cơ cấu hợp lý, phù hợp với nhu cầu thị trường nội địa và
xuất khẩu.
Chính sách đầu tư phát triển thương mại: để tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp kinh doanh thương mại, nâng cao khả năng cạnh tranh,
tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hoá và phát triển thị trường Nhà
nước còn có hệ thống chính sách và giải pháp phát triển vốn đầu tư cho
thương mại thích hợp ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
1.2. VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
1.2.1. Là một bộ phận của chính sách kinh tế - xã hội

Chính sách thương mại là một bộ phận của chính sách kinh tế - xã
hội của Nhà nước, có quan hệ chặt chẽ và phục vụ cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, quy mô và phương thức tham
gia của nền kinh tế mỗi nước vào phân công lao động quốc tế và thương
mại quốc tế, giúp khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế và
phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ đạt quy mô tối ưu với hiệu quả
cao nhất.
1.2.2. Tác động đến giao lưu hàng hóa trong nước và xuất khẩu

Chính sách thương mại tác động lớn đến việc mở rộng giao lưu hàng
hoá trong nước và xuất khẩu, có tầm quan trọng lớn đối với tăng trưởng
trong thương mại, nhất là trong điều kiện thương mại quốc tế chính sách
thương mại tạo ra một động lực quan trọng để phát triển kinh tế.
1.2.3. Là một trong các yếu tố cấu thành của chiến lược phát triển
công nghiệp và thúc đẩy xuất khẩu

Chính sách thương mại là một trong các yếu tố cấu thành của chiến

lược phát triển công nghiệp và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với các chính
sách liên quan khác, chính sách thương mại góp phần tạo lập môi trường
vĩ mô ổn định, nâng cấp cơ sở hạ tầng, hoàn thiện hệ thống tài chính, đào
tạo và nâng cao trình độ của lực lượng lao động, khuyến khích việc tiếp
nhận công nghệ mới và thúc đẩy hoàn thiện môi trường cạnh tranh lành
mạnh, không phân biệt đối xử.

7


1.2.4. Góp phần vào công cuộc hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất
nước

Chính sách thương mại góp phần vào công cuộc hiện đại hoá và công
nghiệp hoá đất nước. Trong quá trình xây dựng chính sách và định
hướng phát triển thương mại, những chính sách ưu tiên nhập khẩu công
nghệ mới, công nghệ hiện đại, sản xuất hướng về xuất khẩu, nâng cao
khả năng cạnh tranh của hàng hoá, của doanh nghiệp… đã thúc đẩy sản
xuất trong nước phải nhanh chóng phát triển theo hướng hiện đại. Yêu
cầu này đã từng bước góp phần vào công cuộc hiện đại hoá và công
nghiệp hoá đất nước, góp phần giúp nền kinh tế đạt được mục tiêu đặt ra
về quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
1.3. CÁC YẾU TỔ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC HÌNH THÀNH CƠ
CHẾ, CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
1.3.1. Đường lối chính trị và quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước

Mọi chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, trong đó có cơ chế,
chính sách thương mại đều mang tính chính trị. Ở Việt Nam, chủ thể ban
hành cơ chế, chính sách thương mại là Nhà nước XHCN, dưới sự lãnh

đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, việc hoạch định các cơ chế,
chính sách thương mại, trước hết phải căn cứ vào đường lối chính trị và
tư tưởng chỉ đạo của Đảng.
Là công cụ quản lý Nhà nước về thương mại, cơ chế, chính sách
thương mại phải hướng vào mục tiêu của Nhà nước, thể hiện bản chất và
phương hướng của Đảng cầm quyền. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua
việc vạch ra cương lĩnh, chiến lược, định hướng về cơ chế, chính sách.
Nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng bằng pháp luật và
thực thi đường lối chủ trương đó trong thực tiễn. Trong giai đoạn hiện
nay, cơ chế, chính sách thương mại phải hướng tới đẩy mạnh công cuộc
đổi mới toàn diện và đồng bộ do Đảng Cộng sản khởi xướng, thúc đẩy
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; bảo đảm tăng
trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững kinh tế - xã hội.
1.3.2. Những quy định về pháp luật hiện hành

Ở nước ta, pháp luật Nhà nước là một hệ thống pháp luật thống nhất,

8


từng bước phù hợp với định hướng XHCN, bao quát và điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội, tạo cơ sở
pháp lý cho quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta, tăng
cường quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế nói chung, thương
mại nói riêng theo cơ chế thị trường phù hợp với thực tiễn nước ta và
thông lệ quốc tế.
Là sự thể chế hoá Cương lĩnh, Chiến lược và các định hướng chính
sách của Đảng, hệ thống luật pháp ban hành ở nước ta đòi hỏi các cơ chế,
chính sách thương mại phải căn cứ vào những quan điểm, đường lối của
Đảng và Nhà nước, tuân thủ những quy phạm pháp luật được thể chế hoá

từ đường lối chính trị đó, phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.
1.3.3. Bối cảnh lịch sử và điều kiện phát triển kinh tế của đất nước

Ở tầm vĩ mô, các điều kiện kinh tế như trình độ phát triển, mức tăng
trưởng của nền kinh tế, sự phát triển và nhu cầu phát triển của lĩnh vực
kinh tế là những yếu tố có ảnh hưởng đến cơ chế, chính sách thương mại.
Ở nước ta, công cuộc đổi mới những năm qua đã và đang đạt được
những thành tựu quan trọng: kinh tế tăng trưởng lien tục ở mức cao, lạm
phát bị đẩy lùi và được kiểm soát, sản xuất nhiều loại hàng hoá bảo đảm
đủ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Tuy nhiên, cho đến nay nước ta vẫn là
một trong nước nghèo, tiềm lực kinh tế còn hạn chế, trình độ phát triển
kinh tế, năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh
còn thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, thu nhập quốc dân tính theo
đầu người năm 2005 mới đạt 600 USD/người (1). Trong môi trường kinh
tế đó, các cơ chế, chính sách thương mại phải phù hợp với những điều
kiện kinh tế hiện có.
Bên cạnh điều kiện phát triển kinh tế, hoàn cảnh lịch sử cũng là yếu
tố ảnh hưởng đến việc hình thành cơ chế, chính sách thương mại. Cơ
chế, chính sách thương mại ở nước ta hiện nay được hình thành và thực
thi trong bối cảnh lịch sử của quá trình vận động từ một xã hội chậm
phát triển sang xã hội văn minh, hiện đại; từ một nền kinh tế tập trung,
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường cạnh tranh và mở cửa với
bên ngoài, có sự quản lý của Nhà nước, phải luôn luôn được đổi mới và
hoàn thiện.
1

Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2005 và dự báo giai
đoạn 2006-2010.

9



Quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới của nước
ta đòi hỏi vừa bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước vừa phải cắt giảm hàng
rào thuế quan, phù hợp với quá trình cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc
tế.
1.3.4. Xu hướng phát triển của cơ chế, chính sách thương mại thế
giới

Trong giai đoạn hiện nay, cơ chế, chính sách thương mại chịu ảnh
hưởng của nhiều xu hướng phát triển khác nhau, trong đó chủ yếu là xu
hướng tự do hoá thương mại và xu hướng bảo hộ thương mại.
Xu hướng tự do hoá thương mại: đòi hỏi cơ chế, chính sách thương
mại phải được điều chỉnh theo hướng nới lỏng dần, với bước đi phù hợp
với các công cụ bảo hộ trong quan hệ thương mại quốc tế được xây dựng
dựa trên cơ sở các thoả thuận song phương và đa phương. Nhà nước từng
bước giảm thiểu rào cản thuế quan và phi thuế quan nhằm tạo thuận lợi
hơn cho sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế cả về bề rộng và
bề sâu. Tự do hoá thương mại nhằm vừa mở rộng quy mô xuất khẩu của
mỗi nước, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu, mở cửa cho hàng
hoá và dịch vụ quốc tế thâm nhập vào thị trường nội địa dễ dàng hơn, tạo
thuận lợi từ phía các bạn hàng nước ngoài đối với hàng hóa và dịch vụ
xuất khẩu ra nước ngoài.
Xu hướng bảo hộ: mục tiêu là bảo vệ thị trường nội địa trước sự xâm
nhập ngày càng mạnh mẽ của hàng hoá và dịch vụ từ bên ngoài; xuất
hiện, hình thành và tiếp tục được củng cố thông qua các công cụ thuế
quan, hạn ngạch, cấm, các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật, vệ
sinh, an toàn thực phẩm…
Về bản chất, hai xu hướng tự do hoá thương mại và bảo hộ là đối lập
với nhau, phải được kết hợp trên cơ sở các đặc điểm và điều kiện cụ thể

của từng lĩnh vực hoạt động thương mại trong quá trình hình thành cơ
chế, chính sách thương mại.
Một số xu hướng khác ảnh hưởng đến việc hình thành và ban hành
cơ chế chính sách thương mại là xu hướng bủng nổ cách mạng khoa học
công nghệ, xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh té, xu hướng chuyển
sang nền kinh tế thị trường trên quy mô toàn cầu, xu hướng phát triển
mạnh các loại hình đầu tư quốc tế, xu hướng phát triển mạnh các công ty
xuyên quốc gia, đa quốc gia…

10


1.4. QUAN ĐIỂM PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ VỀ CƠ CHẾ, CHÍNH
SÁCH THƯƠNG MẠI

Theo cách phân loại các công cụ chính sách, chính sách thương mại
là một trong số 04 nhóm chính sách lớn là: Chính sách cạnh tranh, Chính
sách công nghiệp, Chính sách thị trường lao động và Chính sách thương
mại(2). Tuy nhiên, đứng ở góc độ quản lý nhà nước, việc đánh giá, nhận
xét các chính sách này cần phải được xem xét ở tầm vĩ mô, đứng trên các
quan điểm sau:
1.4.1. Quan điểm phát triển “nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”

Đại hội Đảng IX đã khẳng định: “Đảng và Nhà nước chủ trương thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (3). Quan điểm này xuyên suốt trong
chiến lược phát triển kinh tế dài hạn của Việt Nam, quy định và hướng

dẫn các chính sách kinh tế, trong đó có chính sách thương mại. Vì vậy,
đánh giá chính sách thương mại cần đặt trong khuôn khổ quan điểm
xuyên suốt về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, phải tính đến các yếu tố công bằng xã hội, phân phối thu nhập,
khoảng cách giàu nghèo, công ăn việc làm, phát triển đồng đều giữa các
vùng kinh tế...
1.4.2. Quan điểm tổng hợp, toàn diện

Khi đánh giá chính sách thương mại, chúng ta phải dựa trên những
tiêu chí mang tính tổng hợp, phản ánh được các tác động chính sách trên
nhiều phương diện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Trong một nền
kinh tế, các yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội đan xen tương tác lẫn
nhau. Việc đánh giá các chính sách thương mại đơn thuần chỉ về khía
cạnh kinh tế là chưa toàn diện, dễ dẫn đến tình trạng đề cao thái quá, hay
hạ thấp giá trị tác động của chính sách. Điều này có thể đưa đến những
khuyến nghị sai chệch. Đánh giá một cách tổng hợp các chính sách
thương mại là yêu cầu bắt buộc, đặc biệt đối với các cơ quan quản lý
Nhà nước.
2

David Greenaway và Chris Milner, 1993

3

Văn kiện đại hội đảng IX, trang 86, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia

11


1.4.3. Quan điểm đánh giá dựa trên lợi ích tổng thể toàn xã hội


Có nhiều các đánh giá khác nhau về lợi ích của một chính sách
thương mại: Đối với nhóm đối tượng doanh nghiệp, mục tiêu theo đuổi
cuối cùng phải là lợi nhuận; Đối với người tiêu dùng, đó là tối đa hóa độ
thỏa dụng; Đối với một ngành hàng, đó là tối đa hóa lợi ích của ngành...
Lợi ích của các nhóm đối tượng không giống nhau, đôi khi xung đột,
mâu thuẫn nhau. Chính vì vậy, một chính sách thương mại có thể tạo
điều kiện thuận lợi cho nhóm đối tượng này nhưng lại là bất lợi đối với
nhóm đối tượng khác. Trên góc độ quản lý Nhà nước về thương mại,
việc đánh giá lợi ích của các chính sách thương mại cần căn cứ vào lợi
ích tổng thể của toàn xã hội, không chỉ căn cứ vào lợi ích của từng
ngành, của từng nhóm đối tượng mà phải căn cứ vào lợi ích tối đa trên
phương diện toàn xã hội.
1.4.4. Quan điểm cần xem xét trong mối quan hệ với yếu tố phát
triển bền vững

Yếu tố phát triển bền vững đòi hỏi phải đạt được “tính hiệu quả trong
dài hạn”, coi các vấn đề phát triển kinh tế là một bài toán tối ưu trong dài
hạn. Quan điểm phát triển bền vững có thể được cụ thể hóa thành nhiều
dạng chỉ tiêu đánh giá rất khác nhau, như chỉ tiêu về môi trường, chuyển
dịch cơ cấu, năng lực cạnh tranh, tăng trưởng và phát triển, hàm lượng tri
thức trong sản phẩm, giá trị thặng dư...
1.4.5. Quan điểm cần chú ý đến xuất phát điểm của nền kinh tế Việt
Nam

Kể từ Đại hội Đảng VI, khi chúng ta bắt đầu thực hiện chính sách đổi
mới, chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì các yếu tố, công cụ hỗ trợ cho sự
vận hành của cơ chế thị trường còn yếu kém và rất sơ khai. Trong bối
cảnh đó, sự tác động của một chính sách thương mại thường có độ lệch

nhất định so với những dự liệu ban đầu. Vì vậy, việc đánh giá phải tính
đến yếu tố lịch sử và yếu tố xuất phát điểm của mỗi thời kỳ.
1.4.6. Đánh giá phải xét đến xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu, tác
động đến tất các các quốc gia, thu hẹp khoảng cách không gian, hội nhập

12


kinh tế quốc tế vừa là sự lựa chọn, là sức ép, áp lực, là phải chấp nhận
sân chơi, luật chơi chung của toàn thế giới, vừa mang lại cơ hội và thách
thức. Do vậy, khi đánh giá các chính thương mại phải xét đến khả năng
tận dụng cơ hội và vượt qua những thách thức, khó khăn trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Do có nhiều hình thức hội nhập và gắn với đó là các cam kết (song
phương, đa phương), việc điều chỉnh chính sách thương mại là rất cần
thiết nhưng phải tính đến các xu hướng trong tương lai, nhằm khai thác
những cơ hội, lợi ích và hạn chế những khó khăn, thách thức của quá
trình hội nhập.
1.5. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CHẾ,
CHÍNH SÁCH ĐẾN KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
1.5.1. Tính định hướng mục tiêu của cơ chế, chính sách thương mại

Trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định, việc hoạch định chính sách,
cơ chế quản lý kinh tế nói chung, chính sách thương mại nói riêng đều
được phản ánh bằng mục tiêu chung và một số mục tiêu cụ thể. Cho dù ở
mỗi giai đoạn khác nhau sẽ có các mục tiêu cụ thể khác nhau, song mục
tiêu bao trùm của đổi mới cơ chế, chính sách thương mại nhằm vào tăng

trưởng và phát triển thương mại, góp phần vào tăng trưởng kinh tế của cả
nước. Trong lĩnh vực thương mại, các mục tiêu chủ yếu phản ánh, đánh
giá tác động của cơ chế, chính sách đến kết quả hoạt động thương mại
thường bao gồm:
1.5.1.1. Các chỉ tiêu định lượng đánh giá tác động của cơ chế chính
sách đến kết quả hoạt động thương mại

- Sự tác động của chính sách thương mại đến mức đóng góp của
thương mại vào GDP.
- Sự tác động của chính sách thương mại đến quy mô và tốc độ tăng
trưởng của tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và dịch vụ xã hội, tốc
độ tăng trưởng của một số loại hàng hoá thiết yếu hoặc loại dịch vụ chủ
yếu;
- Sự tác động của chính sách thương mại đến mức đóng góp của
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và dịch vụ xã hội vào GDP;
- Sự tác động của chính sách thương mại đến tốc độ tăng/giảm của
chỉ số giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong nước;

13


- Sự tác động của chính sách thương mại đến quy mô và tốc độ tăng
trưởng của xuất, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, kim ngạch xuất, nhập
khẩu đối với một số hàng hoá và thị trường chủ yếu;
- Sự tác động của chính sách thương mại đến Tỷ trọng của tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam so với tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thế
giới; Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam so với Tổng kim ngạch
nhập khẩu của thế giới; Tổng kim ngạch xuất-nhập khẩu của Việt Nam
so với Tổng kim ngạch xuất-nhập khẩu của thế giới;
- Sự tác động của chính sách thương mại đến cán cân thương mại, tỷ

lệ nhập siêu;
- Sự tác động của chính sách thương mại đến các mục tiêu trong hội
nhập kinh tế quốc tế;
- Sự tác động của chính sách thương mại đến độ mở của nền kinh tế
(Tổng kim ngạch xuất-nhập khẩu/GDP);
- Sự tác động của chính sách thương mại đến các chỉ số phản ánh tính
minh bạch của môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư (như thời gian
được cấp chứng nhận kinh doanh, thời gian được cấp phép đầu tư dự án,
thời gian xin một loại giấy phép...)
Bên cạnh đó còn có thể có những mục tiêu định lượng hoá cụ thể
nhưng chỉ có giá trị cho một giai đoạn nhất định, chẳng hạn như: chỉ tiêu
về việc làm do ngành thương mại tạo ra, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước trong ngành thương mại, số lượng thương nhân trong lĩnh vực
thương mại, cơ cấu, thành phần tham gia hoạt động thương mại, chỉ tiêu
cung ứng hàng hoá cho miền núi, vùng sâu và vùng xa…
1.5.1.2. Các chỉ tiêu định tính đánh giá tác động của cơ chế chính
sách đến kết quả hoạt động thương mại

Ngoài các chỉ tiêu có thể lượng hoá, còn một số chỉ tiêu định tính
như:
- Cơ chế chính sách góp phần phục vụ tốt nhu cầu của sản xuất và
đời sống;
- Cơ chế chính sách góp phần bình ổn giá cả và thị trường;
- Cơ chế chính sách góp phần phát triển thương mại theo hướng văn
minh, hiện đại;

14


- Cơ chế chính sách góp phần phát triển mạnh thương mại điện tử;

- Cơ chế chính sách góp phần từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tình
trạng buôn lậu và gian lận thương mại...
Nhìn chung, khi đánh giá về cơ chế, chính sách thương mại người ta
phải xem xét trước hết có tạo ra động lực và khả năng để hoàn thành các
mục tiêu chủ yếu. Việc hoàn thành và vượt mức so với yêu cầu các mục
tiêu được đặt ra đều khẳng định rằng chính sách và cơ chế được thực thi
là đúng đắn và có hiệu quả. Trường hợp ngược lại, cần xem xét tới các
yếu tố mới phát sinh trong mỗi giai đoạn, nếu do các yếu tố khách quan
ngoài khả năng kiểm soát hoặc chưa được dự báo tới thì đó thuộc về
năng lực hoạch định chính sách, cơ chế; còn nếu do chính sách và cơ chế
chưa đồng bộ, tạo ra các mâu thuẫn khiến cho mục tiêu đặt ra không thực
hiện được thì sẽ phải có sự hiệu chỉnh cần thiết.
1.5.2. Sự phù hợp của cơ chế, chính sách thương mại với quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế

Trong suốt những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chủ
trương về hội nhập kinh tế quốc tế luôn từng bước được khẳng định và
làm sáng tỏ: tham gia các chương trình hợp tác kinh tế với các nước xã
hội chủ nghĩa trước khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu sụp đổ; xác định chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
kinh tế đối ngoại tại Đại hội VII của Đảng theo tinh thần Việt Nam muốn
là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế; tại Đại hội IX của
Đảng đã xác định “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn
ngoại lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh,
có hiệu quả và bền vững”.
Hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu rộng những năm qua đòi hỏi
chúng ta phải đổi mới một cách cơ bản cơ chế, chính sách quản lý nền
kinh tế nói chung và chính sách thương mại nói riêng bao gồm chính
sách thương mại quốc tế và chính sách thương mại nội địa theo hướng
phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; đối chiếu với các định

chế quốc tế để tìm ra những điều không hoặc chưa phù hợp, đề xuất
những điểm sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới.
Các định chế quốc tế có tác động nhiều đến pháp luật và chính sách
kinh tế - thương mại của Việt Nam là WTO, các tổ chức tài chính quốc tế
IMF, WB, ADB, các tổ chức khu vực như ASEAN và các đối tác thuộc

15


ASEAN+, APEC, ASEM, và Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ…
1.5.3. Khả năng vận hành và thực thi của cơ chế, chính sách thương
mại

Khi đánh giá cơ chế, khả năng vận hành và tính khả thi của chính
sách thương mại cần tập trung vào một số tiêu thức sau:
- Phải gắn chặt cơ chế, chính sách thương mại với việc thực thi các
nhiệm vụ của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội nói chung và thương mại nói riêng trong từng thời kỳ;
- Phải cụ thể hoá, minh bạch và công khai cơ chế, chính sách thương
mại để có thể triển khai ngay được, không phải chờ đợi thời gian hướng
dẫn;
- Phải đảm bảo tính đồng bộ, giữa cơ chế, chính sách thương mại và
các chính sách khác, đảm bảo không có sự loại trừ và cản trở lẫn nhau;
- Cơ chế, chính sách thương mại phải phù hợp với điều kiện về tổ
chức bộ máy và trình độ cán bộ công chức trong mỗi thời kỳ;
- Cơ chế, chính sách thương mại phải phân định rõ quyền hạn và
trách nhiệm, phân công và phân cấp rõ ràng đồng thời với việc phối kết
hợp chặt chẽ;
Khả năng vận hành và thực thi của cơ chế, chính sách thương mại

trong thực tiễn phụ thuộc vào tính cụ thể trong các nội dung được ban
hành, yếu tố tổ chức, trình độ cán bộ và cơ sở vật chất kỹ thuật để thực
thi nhiệm vụ.
1.5.4. Tính ổn định, công khai và minh bạch của cơ chế, chính sách
thương mại

Trong thực tiễn, có những cơ chế, chính sách thương mại có giá trị
thực thi trong một khoảng thời gian dài, cho cả một giai đoạn phát triển
nhất định như chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế trong hoạt
động kinh doanh thương mại, chính sách chung về phát triển thị trường
nội địa và thị trường xuất khẩu hàng hoá, các chính sách tự do hoá
thương mại… Bên cạnh đó, còn có nhiều chính sách và cơ chế quản lý
nhà nước về thuơng mại lại chỉ có tính chất tình thế, nhằm giải quyết các
nhiệm vụ cụ thể trong một giai đoạn phát triển nhất định, chẳng hạn như

16


chính sách trợ cước, trợ giá cho hoạt động kinh doanh thương mại ở các
vùng cao, vùng sâu,vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người…
Hoạt động kinh doanh thương mại cũng diễn ra trong những khoảng
thời gian và không gian nhất định. Hiện nay và trong những năm tới, xu
hướng chung của quản trị doanh nghiệp nói chung và quản trị doanh
nghiệp thương mại nói riêng là quản trị chiến lược, giảm dần kiểu quản
lý có tính chất ngắn hạn, tạm thời, mua bán có tính nhất thương vụ, chộp
dật. Việc duy trì và khuyến khích phương pháp quản trị chiến lược đòi
hỏi cơ chế, chính sách phải đảm bảo tính ổn định và liên tục ở mức độ tối
đa cho phép. Trong giai đoạn đầu thời kỳ đổi mới, chúng ta đang còn
phải mò mẫm để tìm ra một cơ chế cho phù hợp nhằm xoá bỏ tình trạng
bao cấp nên có thể có những cơ chế và chính sách chúng ta chỉ đưa ra

nhằm giải quyết những vấn đề mang tính chất tình thế như việc cấp giấy
phép nhập khẩu theo từng chuyến hàng, lô hàng cụ thể, hoặc là chỉ miễn
thuế buôn chyến cho hàng nông sản khi đưa vào thành phố và các khu
công nghiệp tập trung trong dịp Tết Nguyên đán… Gần đây, các yếu tố
môi trường đã dần dần đi vào ổn định và các quan điểm về quản lý nhà
nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã được phần nào làm rõ nên tính ổn
định của cơ chế, chính sách đã được chú ý hơn. Chẳng hạn, chúng ta đã
có các quy định về việc chỉ cho phép xây dựng các công trình hạ tầng
thương mại như chợ, siêu thị, nhà hàng, khách sạn hay cửa hàng xăng
dầu …khi đã có quy hoạch và phù hợp với quy hoạch. Đồng thời, chúng
ta cũng đã có những cơ chế, chính sách quản lý xuất, nhập khẩu hàng
hoá ổn định cho cả thời kỳ 5 năm. Tuy nhiên, cũng còn khá nhiều cơ chế
và chính sách thương mại (ví dụ, các quy định về giá bán lẻ xăng dầu,
các quy định về xử lý các tình huống đối với thị trường nhằm bình ổn
tình hình thị trường…) được ban hành chỉ có hiệu lực thực thi cho thời
hạn 1 năm hoặc ngắn hơn.
Từ những vấn đề thực tiễn như đã đề cập đòi hỏi khi đánh giá cơ chế,
chính sách phải xem xét đến tính ổn định của nó (chỉ trừ các trường hợp
bắt buộc phải đưa ra ra các chính sách, cơ chế để giải quyết những vấn
đề có tính chất tình huống) phải sửa đổi hoặc hoàn thiện để làm cho cơ
chế ngày càng hoàn thiện hơn, ổn định hơn.

17


1.5.5. Tính thống nhất và sự phù hợp của cơ chế, chính sách thương
mại với cơ chế chính sách kinh tế khác

Cơ chế, chính sách thương mại là một trong những bộ phận hợp

thành có vị trí và vai trò xác định trong cơ chế và chính sách kinh tế nói
chung, chịu sự ràng buộc và chi phối bởi cơ chế, chính sách quản lý kinh
tế của Nhà nước trong mỗi thời kỳ nhất định. Cơ chế, chính sách thương
mại gồm nhiều loại như chính sách thương mại trong nước và chính sách
thương mại quốc tế, gồm chính sách đối với các thành phần kinh tế,
chính sách mặt hàng và chính sách thị trường.
Khi xây dựng, mặc dù đã có sự tham khảo, lấy ý kiến của các ngành,
nhưng mọi cơ chế, chính sách được ban hành chưa hẳn đều phù hợp hay
tương thích, nhất là các cơ chế, chính sách mang tính chuyên ngành cao
do không nắm rõ lý luận và thực tiễn, do lợi ích cục bộ. Khuyến khích
quá mạnh xuất khẩu khoáng sản có thể làm tăng kim ngạch xuất khẩu nói
chung nhưng cũng có thể làm cạn kiệt nguồn tài nguyên một cách nhanh
chóng. Sự buông lỏng kiểm soát thị trường, tự do hoá thương mại quá
cấp tiến có thể làm cho hàng hoá của nước ngoài nhập khẩu, có thể phá
vỡ chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, làm cho doanh nghiệp trong
nước bị phá sản và người lao động bị mất việc làm. Tuy nhiên, bảo hộ
tràn lan, không có sự lựa chọn và không có thời hạn lại tạo ra sự ỷ lại vào
Nhà nước, làm cho người tiêu thụ phải mua hàng hoá với giá đắt hơn giá
quốc tế.
Từ một số lý do như đã nêu, khi đánh giá cơ chế, chính sách thương
mại, một mặt phải xem xét các chính sách cụ thể trong mối quan hệ mâu
thuẫn giữa các phạm trù, khái niệm thương mại, cần xem xét tính tương
thích của các cơ chế, chính sách thương mại với các cơ chế chính sách
khác, phải trên cơ sở lấy lợi ích tổng thể nền kinh tế, lấy mục tiêu phát
triển bền vững, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường làm cơ sở để điều
chỉnh chính sách và cơ chế cho phù hợp.

18



CHƯƠNG 2
BỐI CẢNH VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY
2.1. BỐI CẢNH ĐỔI MỚI CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
NƯỚC TA
2.1.1. Bối cảnh ngoài nước khi tiến hành đổi mới cơ chế, chính sách
thương mại

Từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20 trên thế giới đã diễn
ra những biến đổi lớn:
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động điên cuồng phản kích
phe CNXH và phong trào cách mạng trên thế giới, chúng công khai đề ra
mục tiêu xoá bỏ CNXH trên thế giới trước năm 2000. Trước âm mưu
tiến hành “diễn biến hoà bình” của các nước đế quốc, trước tác động
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, xu hế toàn cầu hoá
kinh tế, chạy đua về kinh tế, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản có nhiều diễn biến phức tạp… đã đặt hệ thống xã hội chủ
nghĩa trước những thách thức mới. Việc vượt qua những thách thức đó
đã diễn ra trong hoàn cảnh hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
Trong khi đó, các nước tư bản chủ nghĩa tuy phải đối phó với những
nguy cơ mới nhưng do có sự điều chỉnh cần thiết, đặc biệt là đã sử dụng
thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại nên đã
vượt qua được khó khăn nhất thời, kinh tế có bước tăng trưởng đáng kể.
Để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, năm 1985, Liên Xô công bố
chính sách: “Công khai và Xây dựng lại (Glasnost và Perestroika)”, trên
các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Một trong những thay đổi lớn trong
chính sách đối ngoại là Liên Xô không tiếp tục duy trì những gánh nặng
quá sức cho các nước kém phát triển hơn trong phe XHCN, đưa Việt
Nam vào tình thế hết sức khó khăn. Cùng với Liên Xô, các nước xã hội

chủ nghĩa ở Đông Âu cũng tiến hành cải tổ, cải cách. Do những sai lầm
về đường lối và cách làm đã khiến công cuộc cải tổ, cải cách ở Liên Xô
và các nước XHCN ở Đông Âu ngày càng khó khăn, sự khủng hoảng
toàn diện dần dần xuất hiện ở các nước này.

19


Trong khi đó, công cuộc cải cách kinh tế Trung Quốc theo hướng thị
trường - mở cửa bắt đầu diễn ra từ năm 1978 đã giúp nước này vươn lên
mạnh mẽ trên trường quốc tế. Ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương
cũng đã diễn ra những biến đổi quan trọng, một làn sóng toàn cầu hóa,
hội nhập và mở cửa với kinh tế khu vực và thế giới xuất hiện, các nước
Đông Nam Á theo đuổi hành trình phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập với kinh tế thế giới với những thành công rực rỡ.
Những biến đổi ấy vừa có ảnh hưởng tới Việt Nam, vừa gợi ra những
bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo với các mức độ
khác nhau, đó là :
1. Công cuộc cải cách kinh tế Trung Quốc theo hướng thị trường mở cửa bắt đầu diễn ra từ năm 1978. Tiếng vang của những thành tựu cải
cách nổi bật mà Trung Quốc thu được là những bài học quý báu về phát
triển kinh tế đối với Đảng và Chính phủ Việt Nam.
2. Công cuộc cải tổ không thành công đã dẫn tới sự sụp đổ của
CNXH ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu là một bài học đắt giá và bằng
chứng về sự thất bại của con đường cải tổ theo kiểu "phủ định sạch trơn",
sử dụng "liệu pháp sốc", giải quyết không đúng mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị trong quá trình cải tổ.
3. Thành công của các nước "công nghiệp mới" ở Đông Á đưa ra
những gợi ý về cách thức và giải pháp phát triển đối với những nước vốn
xuất phát từ những nước nông nghiệp và có quan hệ xã hội theo kiểu
những giá trị văn hoá phương Đông. Đó là những thành công của các

chiến lược phát triển: phát huy mạnh nội lực, thị trường - mở cửa, hướng
vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
4. Xu hướng hợp tác và cạnh tranh trên thế giới đang từng bước thay
thế xu hướng đối đầu và xung đột. Tình huống này buộc các quốc gia
phải định hướng lại tư duy về các vấn đề phát triển. Khác hẳn trước đây,
trong hoàn cảnh phát triển mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế trở
thành nhu cầu tự thân bên trong đối với nền kinh tế nông nghiệp vốn
mang đậm tính chất khép kín, tự cấp tự túc của Việt Nam.
Tình hình trên đây, đã tác động đến Việt Nam về cả hai phương diện.
Một mặt, nó đòi hỏi phải đổi mới tư duy phát triển, đặt trọng tâm vào
phát triển kinh tế theo một phương thức mới. Mặt khác bối cảnh quốc tế
lúc đó đã tạo ra các cơ hội và điều kiện, là điểm khởi đầu cả về lịch sử

20


lẫn lý luận của quá trình đổi mới ở nước ta.
2.1.2. Bối cảnh trong nước khi tiến hành đổi mới cơ chế, chính sách
thương mại

Sau khi thống nhất cả nước bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất (1976-1980), trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần 1, đã
xuất hiện các dấu hiệu khủng hoảng kinh tế: tốc độ tăng trưởng kinh tế
thấp (0,4%/năm trong khi kế hoạch đặt ra là tăng 13- 14%/năm); thiếu
lương thực (lương thực quy thóc tính theo đầu người giảm từ 274 kg năm
1976 xuống còn 268 kg năm 1980) dẫn đến phải nhập khẩu gần 1 triệu
tấn lương thực mỗi năm; hàng hoá khan hiếm, lạm phát khoảng
20%/năm; xuất khẩu chỉ bằng 1/5 kim ngạch nhập khẩu.
Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1981-1985) với nhiều mục tiêu nhằm
đưa nền kinh tế ra khỏi trì trệ nhưng chúng ta không thực hiện được mục

tiêu đã đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời
sống của nhân dân, sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm
1985 đã đưa nền kinh tế của đất nước ta đến những khó khăn mới, đó là:
- Sản xuất tăng chậm so với khả năng sẵn có và công sức bỏ ra, so
với yêu cầu cần nhanh chóng ổn định đời sống của nhân dân, có tích luỹ
để công nghiệp hoá và củng cố quốc phòng. Một số chỉ tiêu quan trọng
của kế hoạch năm năm vừa qua như sản xuất lương thực, than, xi-măng,
gỗ, vải, hàng xuất khẩu... không đạt đã ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động
kinh tế và đời sống của nhân dân lao động.
- Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp. Các xí nghiệp nói chung chỉ sử
dụng được khoảng một nửa công suất thiết kế, năng suất lao động giảm,
chất lượng sản phẩm sút kém.
- Tài nguyên của đất nước chưa được khai thác hiệu quả, bị sử dụng
lãng phí, nhất là đất nông nghiệp và tài nguyên rừng; môi trường sinh
thái bị phá hoại.
- Lưu thông không thông suốt, phân phối rối ren, vật giá tăng nhanh
đang tác động tiêu cực đến sản xuất, đời sống và xã hội: lạm phát ở tốc
độ phi mã đã bắt đầu từ cuối năm 1985, chỉ riêng năm 1986, chỉ số giá đã
tăng gần 800%, lạm phát tiếp tục ở mức rất cao (năm sau so với năm
trước) trong những năm tiếp theo (4): 1987 là 457,6%; 1988 là 410,9% và
4

Năm sau so với năm trước

21


năm 1989 là 176,6%. Trên thị trường trong nước hàng hóa khan hiếm,
cung không đủ cầu xảy ra triền miên.
- Những mất cân đối lớn trong nền kinh tế giữa cung và cầu về lương

thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, năng lượng, nguyên liệu, vận tải..., giữa
thu và chi, xuất khẩu và nhập khẩu chậm được thu hẹp, có mặt còn gay
gắt hơn trước.
- Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố. Vai trò chủ
đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu. Các thành phần kinh tế phi xã hội
chủ nghĩa chưa được sử dụng và cải tạo tốt.
- Đời sống của nhân dân, nhất là công nhân, viên chức còn nhiều khó
khăn. Nhiều người lao động chưa có và chưa đủ việc làm. Nhiều nhu cầu
chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hoá chưa
được bảo đảm. Nông thôn thiếu hàng tiêu dùng thông thường và thuốc
men; nhà ở, điều kiện vệ sinh, sinh hoạt văn hoá ở nhiều nơi còn thiếu
thốn, nghèo nàn.
- Hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển. Công bằng xã hội bị vi
phạm. Pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Những hành vi lộng quyền,
tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước, những hoạt động
của bọn làm ăn phi pháp... chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời.
Trong hoàn cảnh kinh tế gặp muôn vàn khó khăn, các thế lực phản
động trong nước đưa ra những luận điểm đòi “đa nguyên chính trị”, “đa
đảng đối lập”, “mở chiến dịch chuyển lửa về quê nhà”, tiếp tục bao vây,
cô lập Đảng cộng sản hòng làm nền kinh tế suy yếu. Chúng thực hiện
chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ nhằm xoá bỏ CNXH, ép
ta đi theo quỹ đạo của chúng.
Riêng về kinh tế đối ngoại, Hoa Kỳ tiếp tục cấm vận kinh tế Việt
Nam và một số nước thuộc phe XHCN, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
tiếp tục căng thẳng (mãi đến năm 1991 mới bắt đầu có những cuộc đàm
phán để bình thường hóa), quan hệ thương mại với các nước ngoài phe
XHCN tuy đã có, nhưng chưa đáng kể. Trong một thời gian dài trước đó,
đến những năm cuối của Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1986-1990), 7080% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam đến từ Liên Xô và Ðông
Âu(5).
5


Số liệu của nhà báo Hữu Thọ, UVTƯ Ðảng khoá 8, trưởng ban Tư Tưởng - Văn Hóa Trung
Ương, “Bản Lĩnh Việt Nam”, NXB Ðại Học Quốc Gia Hà Nội 1997, Tr.193.

22


Hoạt động xuất, nhập khẩu trì trệ, cán cân thương mại bị thâm hụt
nặng nề kéo dài trong những năm đầu của thập kỷ 80 là một trong những
nguyên nhân gây ra và làm trầm trọng thêm tình hình lạm phát của Việt
Nam. Trước năm 1986 hoạt động xuất, nhập khẩu theo cơ chế kế hoạch
hoá tập trung, thị trường buôn bán chủ yếu là thực hiện nghị định thư với
các nước xã hội chủ nghĩa thông qua 37 tổng công ty nhà nước hoạt động
xuất, nhập khẩu (phần lớn thuộc Bộ Ngoại thương trước đây).
Bảng 1:Kim ngạch xuất-nhập khẩu giai đoạn 1981-1985
Đơn vị tính: triệu RUP-USD
Năm

Xuất
khẩu

Nhập
khẩu

Nhập
siêu

Tỷ lệ
NK/XK
(lần)


1981

401,2

1.382,2

981,0

3,5

1982

526,6

1.472,2

945,6

2,8

1983

616,5

1.526,7

910,2

2,5


1984

649,6

1.745,0

1.095,4

2,7

1985

698,5

1.857,4

1.158,9

2,7

Nguồn: Vụ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Thương mại

Kim ngạch nhập khẩu thường gấp xấp xỉ 3 lần kim ngạch xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu thấp (bình quân xuất khẩu theo đầu người chỉ ở
mức dưới 10 Rúp/USD trong đó 70% kim ngạch xuất khẩu thuộc khu
vực đồng Rúp), luôn gây sức ép phải hạn chế các nhu cầu nhập khẩu
thiết bị, vật tư nguyên liệu hàng tiêu dùng thiết yếu cho phát triển kinh tế
- xã hội, cải thiện đời sống nhân dân mà ở thời kỳ này hầu hết các mặt
hàng cung ứng cho thị trường trong nước phải thông qua nhập khẩu. Cân

đối tiền-hàng và cung-cầu một số mặt hàng thiết yếu bị mất cân đối
nghiêm trọng.
Việc giao và thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh thực hiện cơ
chế kết hối ngoại tệ theo giá kết toán nội bộ (tỷ giá vô hình) mà giá trị
của đồng Việt Nam cao gấp nhiều lần so với giá trị thực của nó cộng với
sự xơ cứng trong việc qui định giá vật tư, nguyên liệu, hàng hoá nhập
khẩu và giá hàng xuất khẩu luôn có khoảng cách khá xa với thực tế đã
kìm hãm sản xuất và xuất khẩu. Các tổng công ty xuất-nhập khẩu được

23


phân công kinh doanh theo ngành hàng không gắn được nhập khẩu với
xuất khẩu đã hạn chế tính năng động trong kinh doanh xuất, nhập khẩu
của các doanh nghiệp. Với cơ chế tỷ giá và định giá nêu trên ngân sách
chẳng những không có nguồn thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu mà hàng
năm còn phải chi ra một khoản tiền không nhỏ để bù lỗ cho hoạt động
này làm tăng thêm bội chi cho Ngân sách.
Có thể nói, nền kinh tế nước ta đã lúc đó đã lâm vào khủng hoảng
trầm trọng. Tình hình đất nước đã đặt ra yêu cầu cho Đảng ta về một
cuộc đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự
thật, đánh giá đúng thực trạng của đất nước. Từ đó xác định đúng mục
tiêu và nhiệm vụ của cách mạng trong chặng đường trước mắt, đề ra chủ
trương, chính sách đúng để xoay chuyển tình thế, đưa đất nước vượt qua
khó khăn, tiến lên phía trước.
Bối cảnh lịch sử nước ta đã giao sứ mệnh trọng đại nói trên cho Đại
hội lần thứ VI của Đảng, với nhiệm vụ phải tìm ra hướng đi mới, các giải
pháp mới thoát khỏi khủng hoảng kinh tế cho đất nước.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12 năm 1986) đã đề ra chủ
trương đổi mới, thực chất là tiến hành cuộc cải cách sâu rộng về kinh tế,

chính trị và xã hội nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, khôi phục và
phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân, giải quyết tốt hơn
các nhu cầu giáo dục, y tế và các vấn đề xã hội khác. Công cuộc đổi mới
về kinh tế hướng vào việc khai thác mọi tiềm năng trong nước và thu hút
vốn đầu tư nước ngoài bằng những chủ trương lớn sau đây:
- Chuyển từ một nền kinh tế chủ yếu gồm kinh tế quốc doanh và kinh
tế tập thể sang một nền kinh tế nhiều thành phần, cùng tồn tại lâu dài,
bình đẳng trước pháp luật,
- Hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý trên cơ sở hiệu quả kinh tế- xã hội,
hướng vào nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế,
- Xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp; thực hiện
cơ chế thị trường theo định hướng XHCN,
- Mở cửa nền kinh tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế
đối ngoại, khuyến khích xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, du lịch quốc tế,
thu hút vốn nước ngoài, từng bước hội nhập với kinh tế thế giới.
Trong đó, sự đổi mới về chính sách thương mại là một phần quan

24


trọng của công cuộc đổi mới.
2.2. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
NƯỚC TA TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY
2.2.1. Cơ chế, chính sách thương mại đối với thị trường trong nước

Giai đoạn 1986-1990
Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng CSVN lần thứ VI vào tháng 12/1986
(sau đây gọi tắt là Đại hội VI) đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đã khẳng định: kiên
quyết xóa bỏ cơ chế quản lý theo kiểu tập trung quan liêu, bao cấp, hình

thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa. Để thể chế hoá Nghị quyết của Đại hội VI và các
Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Chính phủ đã ban
hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật: Quyết định 217/HĐBT ngày
14/11/1987, Quyết định 50/HĐBT ngày 22/3/1988, Quyết định 98/HĐBT
ngày 2/5/1988 và một loạt các văn bản khác đã có tác động tích cực theo
hướng đổi mới và phát huy quyền chủ động sản xuất - kinh doanh, động
viên và khơi dậy mọi tiềm năng của các doanh nghiệp nhà nước. Đối với
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong năm 1988, Chính phủ đã ban
hành Nghị định 27/HĐBT, Nghị định 28/HĐBT, Nghị định 29/HĐBT,
Nghị định 146/HĐBT, Nghị định 170/HĐBT... quy định chính sách đối
với kinh tế hộ gia đình, kinh tế cá thể, xí nghiệp sản xuất kinh doanh...
Trong lĩnh vực thương mại, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định
193/ HĐBT ngày 23/12/1988 về kinh doanh thương mại và dịch vụ ở thị
trường trong nước.
Cơ chế, chính sách đối với thương mại và thị trường trong nước trong
giai đoạn này gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Về kế hoạch hóa: Hạn chế phần kế hoạch và chỉ tiêu pháp lệnh,
mở rộng phần kế hoạch hóa gián tiếp, bảo đảm chế độ tự chủ sản xuất
kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở và các tổ chức kinh tế.
- Về cơ chế quản lý: Ngay trong năm 1988, kiên quyết chuyển các
hoạt động kinh tế từ cơ chế bao cấp sang hạch toán kinh doanh xã hội
chủ nghĩa bằng những bước đi tích cực, vững chắc, có hiệu quả thiết
thực trên cơ sở những phương án đồng bộ, có thí điểm, nhằm tiến tới
ổn định tình hình phân phối lưu thông, thúc đẩy sản xuất phát triển,

25



×