Bộ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG DẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẺ NGOẠI THƯƠNG
oOo—
FOREIQM TRHDE
UN1VERSITỴ
KHOA LUêN TỐT
NGHIỆP
Để tài:
CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI BIÊN MẬU CỦA TRUNG QUỐC
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
Giáo viên hướng dần
Sinh viên thực hiện
Lớp
lỉỉĩĩỹị
Ị"lit!.i:
I
ri
'ONG!
ỊlVMềdị
1
lũi]
HÀ NÔI -2004
: GV. Vũ Đức Cường
: Nguyễn Thị Bích Ngọc
: A11 - K39C
MỤC
LỤC
LỜI
NÓI
ĐẦU
1. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI
THƯƠNG
CỦA TRUNG QUỐC
Khái niệm,
vai
trò
và
các
giai
đoạn phát
triển
của
1.1. Chính sách
Ngoại
thương
trong
nền
kinh tế
Trung
Quốc
1.1.1.
Tổng
quan
về tình hình
ngoại
thương
Trung
Quốc
Ì. Ì
.2.
Khái
niệm,
vai
trò
của
Chính sách
Ngoại
thương
trong
nền
kinh tế
Trung
Quốc
LI
.2.1.
Khái niệm về Chính sách Ngoại
thương
1.1.2.1. Vai
trò
của Chính sách Ngoại thương
trong
nén
kinh
tế
Trung
Quốc
1.1.3.
Quá
trình phát
triển
và hoàn
thiện
Chính sách
Ngoại
thương
của Trung
Quốc
1.2.
Những
nội
dung
chủ yêu
trong
Chính sách
Ngoại
thương của
Trung
Quốc
1.2.1.
Chính sách
khuyến
khích
xuất
khẩu
Ì
.2.2.
Chính sách
quản
lý
nhập
khẩu
2. CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI BIÊN MẬU CỦA
TRUNG QUỐC
2.1. Tổng
quan
về
Chính sách Thương
mại
biên
mu của
Trung
Quốc
2.1.1.
Khái
quất
về
hoạt
động biên mậu
của Trung
Quốc 30
2.1.1.1. Khái niệm "Mậu
dịch biên giới"
30
2.1.1.2. Quá
trình
phát
triển hoạt
động thương mại
biên
mậu của
Trung Quốc 32
2.1.1.3. Thực
trạng
hoạt động thương mại biên mậu của Trung
Quốc 36
2.1.1.4. Vai trò của thương mại biên mậu đối với nền kinh tế
Trung Quốc 40
2.
Ì
.2.
Chính sách Thương mại biên mậu
của Trung
Quốc 43
2.1.2.1. Cơ sở pháp
lý
cho
việc
ban hành Chính sách Thương mại
biên
mậu của Trung Quốc 43
2.1.2.2. Quá
trình
phát
triển
Chính sách Thương mại biên mậu
của Trung Quốc 44
2.2. Chính sách Thương mại biên mậu của
Trung
Quốc
đối
với
Việt
Nam 49
2.2.1.
Khái quát về
quan
hệ thương mại biên mậu
giữa
Việt
49
Nam và
Trung
Quốc
2.2.1.1. Thực
trạng
hoạt động buôn bán
biên
mậu giữa
Việt
Nam
và Trung Quốc
trong thời gian
qua 49
2.2.1.2. Những thuận
lợi
và khó khăn
trong
quan hệ thương mại
biên
mậu
Việt
Nam-Trung Quốc 58
2.2.2.
Chính sách Thương mại biên mậu của
Trung
Quốc đối
với Việt
Nam 66
2.2.2.1. Chính sách xuất nhập khẩu hàng hoa qua
biên giới Việt-
66
Trung
2.2.2.2. Chính sáchThuế 69
2.2.2.3. Chính sách
Tiền
tệ
- Ngân hàng 70
2.2.2.4. Các
chính
sách ưu
tiên
72
2.2.2.5. Các
chính
sách
t
chức
quản
lý
của Nhà nước 73
75
3. CHƯƠNG
3:
BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI
VIỆT
NAM VÀ
KIẾN
NGHỊ MỘT số
GIẢI PHÁP
NHẰM
QUẢN LÝ VÀ
PHÁT TRIỂN THƯƠNG
MẠI
BIÊN
MẬU
GIỮA
VIỆT
NAM VÀ TRUNG
QUỐC
3.1. Bài học rút ra đôi
với
Việt
Nam
trong
việc
quộn
lý và
thúc đẩy
hoạt
động thương
mại
biên
mậu 75
3.2. Kiên nghị
một sô
giội
pháp
nhằm
quộn
lý và
phát
triển
thương
mại
biên
mậu
giữa
Việt
Nam và
Trung
Quốc
trong
thòi
gian
tới
79
3.2.1.
Giải
pháp về mặt tư
tưởng
80
3.2.2.
Đổi
mới và hoàn
thiện
quản
lý của Nhà nước
đối
với hoại
81
động
thương mại biên
mậu
3.2.2.1 Nhóm
giải
pháp về Chính sách
81
3.2.2.2. Nhóm
giải
pháp
vê
Tổ
chức
quản
lý
87
KẾT
LUẬN
94
CHÚ THÍCH CÁC CHỮ
VIẾT
TẮT
Ì.
ASEAN
:
Hiệp
hội
các
quốc
gia
Đông Nam Á
(Association of
Southeast Asian Nations)
2. WTO : Tổ
chức
Thương mại Thế
giới
(World
Trade
Organization)
3.
GATT
:
Hiệp
ước
chung
về
Thuế
quan
và Mậu
dịch
(General
Agreement ôn Tariffs and Trade)
4.
APEC
:
Diễn
đàn hợp tác
kinh
tế Châu Á - Thái Bình Dương
(Asian Paciíic Economic Cooperation)
5. SNG : Cộng đồng các quốc gia độc lập
6. GDP : Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
7. FDI : Đấu tư
trực
tiếp
nước ngoài
(Foreign Direct
Investment)
8. XNK : Xuất nhập khẩu
9. XK : Xuất khẩu
10. NK : Nhập khẩu
11.
MDBG
: Mậu
dịch
biên
giới
12. NDT : Nhân dân tệ
DANH
MỤC
BẢNG
số
LIỆU
10
20
Trang
Bảng
1.1:
ước tính GDP
của
Trung
Quốc
thời
kỳ
1990-2020
9
Bảng
1.2:
Dự đoán GDP tính
theo
đầu
người
của
Trung
Quốc lũ
năm
2005
Bảng
1.3:
So sánh quy mô
kinh
tế
Trung
Quốc
với
một số nước
phát
triển
trên
thế
giới
năm
2000
và 2010.
Bảng
Ì
.4:
Mức
thuế
nhập khẩu
trung
bình của
Trung
Quốc
giai
đoạn 1992-2002
Bảng
2.1: Thời gian
Trung
Quốc
nối
lại
hoạt
động thương mại 34
biên mậu
với
các
quốc
gia
có
chung đường
biên
Bảng
2.2:
Kim
ngạch
xuất
nhập khẩu
của
Việt
Nam
với
Trung
51
Quốc
thời
kì
1991 -2002
Bảng
2.3:
Mặt hàng
xuất
khẩu
chủ yếu của
Việt
Nam
sang
Trung
53
Quốc
thời
kỳ
1996-2000
Bảng
2.4:
Dự báo
xuất
khẩu sang
thổ
trường
Trung
Quốc 54
Bảng
2.5:
Kim
ngạch
xuất
nhập khẩu
thương mại qua biên
giới
55
Việt-Trung
giai
đoạn 1989-1992
Bảng
2.6:
Kim
ngạch
xuất
nhập khẩu
thương mại qua biên
giới
56
Việt-Trung
giai
đoạn 1991-1995
Bảng
2.7:
Tỷ
trọng
buôn bán biên mậu
trong
tổng
kim
ngạch
57
buôn bán
Việt
-
Trung
Bảng
2.8:
Kim
ngạch
xuất
nhập khẩu
thương mại qua biên
giới
58
Việt-Trung
giai
đoạn 1996-2003
Bảng
2.9:
Dự báo kim
ngạch
xuất
nhập khẩu
qua các cửa
khẩu
64
biên
giới
Việt-Trung
giai
đoạn 2005-2010
Bảng
2.10:
Dự báo
kim ngạch
xuất
khẩu
trực
tiếp
của cấc
tỉnh
biên 65
giới
phía Bắc
giai
đoạn 2005-2010
Bàng
2.11:
Dự báo kim
ngạch nhập khẩu
trực
tiếp
của các
tỉnh
biên 66
giới
phía Bắc
giai
đoạn 2005-2010
Chính sách Thương mại Biên mậu của
Trung
Quốc.
LỜI
MÓI DÂU
1. Tính cấp
thiết
của đề tài
Xu
thế
hoa
bình,
hợp
tác,
mở cửa và
hội
nhập
là nhu cầu của các nền
kinh
tế
trên
thế
giói.
Xu
thế
ấy đòi
hỏi
cấc
quốc gia
phải
bắt tay với nhau.
hướng
tới
các
lợi
ích
kinh
tế
trên
nguyên
tắc
tôn
trọng
chủ
quyền
lãnh
thổ,
bảo
vể
an
ninh
trật
tự,
an toàn môi
trường,
phát
triển
bền
vững
và cùng có
lợi.
Là
một
bộ
phận
hữu cơ
trong
nền thương mại
quốc
tế,
hoạt
động thương mại biên
mậu
là
kết
quả
tất
yếu
của sự hợp tác
địa
lý
kinh
tế giữa
các
quốc
gia
có
chung
đường
biên
giới
với
nhau.
Trung
Quốc là một
quốc gia
rộng
lớn,
có
đường
biên
giới
trên
đất
liền
dài
tới
22.000
km
với
138
thị
trấn
và thành phố của 8
tỉnh
tiếp
giáp
với
15
quốc
gia.
Sau
khi
khảo sát,
tống
hợp tình hình biên
giới
và
nhận
tháy sự khác
nhau
rất
lớn
về tài nguyên, trình độ
kinh
tế
với
các nước láng
giềng,
Chính
phủ
Trung
Quốc đã
quyết
định
lấy
viểc
buôn bán biên mậu dẫn
đường
cho quá
trình
chấn
hưng và
cất
cánh nền
kinh
tế
biên
giới,
giảm bớt
chênh
lểch
về
tốc
độ tăng trưởng
giữa
các vùng
trong
nước. Hoạt
động thương mại biên mậu,
theo
đó,
đã
trở
thành một
trong
những
hình
thức
thương mại
truyền
thống
và
là một kênh
giao
lưu
kinh
tế
quốc tế
của
Trung
Quốc. Cùng
với
viểc
Trung
Quốc
thực
hiển
mở
cửa
mạnh
mẽ hơn
với thế
giới
vào
những
năm của
thập
kỷ
90, hoạt
động thương mại biên mậu đã có sự phát
triển
rất
nhanh,
từng
bước
trở
thành một động
lực
quan
trọng
thúc đẩy sự
phất
triển
kinh
tế
của khu vực
biên
giới
và đóng một
vai
trò
to
lớn
trong viểc
thực
hiển
mục tiêu được
Trung
Quốc để
ra:
"phát
triển
khu vực biên
giới,
xây
dựng
một xã
hội
giàu
mạnh,
làm
lợi
cho
quốc
gia
và đem
lại
sự ổn định cho
đất nước."
Trong
những
năm
gần
đây, cùng
với
viểc
Trung
Quốc
gia nhập
Tổ
chức
Thương mại Thế
giới
WTO,
Trung
Quốc
lại
có thêm
nhiều
cơ
hội
mới để mở
rộng
và phát
triển
hoạt
động
ngoại
thương nói
chung
và
hoạt
động thương mại biên mậu nói riêng của
mình.
Nguyễn
Thị Bích Ngọc - A11
K39C
I
Chinh
sách
Thướng
mại Biên mậu của
Trung
Quốc.
Việt
Nam
và
Trung
Quốc là
hai
quốc
gia
có
chung
đường
biên
giới.
có
nhiều
nét tương đồng về
kinh
tế,
văn
hoa,
chính
trị
và xã
hội.
Sau
khi
quan
hệ
Việt
Nam
và
Trung
Quốc
được
bình thường hoa,
hoạt
động thương mại biên
mậu của
hai
quốc
gia
đã có
sự phát
triển
nhanh
chóng
và đã có
những
tác
động
rất
tích cực
đối với việc
phát
triển
kinh tế-xã
hội.
Tuy nhiên, do chưa
có
một chiến
lược
rõ ràng, chưa có một hệ
thống
chính sách đồng bộ. kịp
thời
và
phù hợp
với
tình hình
thực
tiễn,
mảt khác,
việc
tổ
chức
quàn lý Nhà
nước
đối
với
hoạt
động thương mại biên mậu còn
nhiều
yếu kém nên
hiệu
quả của
hoạt
động
này còn chưa
cao. Trong hoạt
động
XNK
biên
mậu,Việt
Nam
vẫn
ớ
tình
trạng
nhập
siêu,
các mạt hàng
XK
chủ yếu là hàng
thô,
chưa qua chế
biến,
tình
trạng
trốn
thuế,
buôn
lậu
và
gian lản
thương mại vần chưa
được
ngăn
chản.
Vì
vậy, việc
nghiên cứu nhằm làm rõ thêm tính ưu
việt
của Chính sách
thương mại biên mậu của
Trung
Quốc, để
từ
đó rút
ra
bài học và đưa
ra
những
giải
pháp có tính
khoa
học và
thực
tiễn
nhằm
quản
lý và phát
triển
hoạt
động
thương mại biên mậu của
Việt
Nam
là
rất
cần
thiết.
Với lý do đó, tôi
chọn
để
tài:
"Chính sách thương
mại
biên
mậu của Trung Quốc và
bài
học
kinh
nghiệm
với
Việt
Nam"
cho
khoa
luận
tốt
nghiệp
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của khoa luận
- Nghiên cứu
tổng
quát về tình hình
ngoại
thương của
Trung
Quốc và hệ
thống
Chính sách
Ngoại
thương của
quốc
gia
này,
từ
đó
thấy
rõ
được
vai
trò
của
thương mại biên mậu
trong chiến
lược
phát
triển
ngoại
thương.
-
Phân tích quá trình hình thành và phát
triển
Chính sách thương mại
biên mậu của
Trung
Quốc, đảc
biệt
đi sâu nghiên cứu Chính sách thương mại
biền
mậu của
Trung
Quốc
đối với
Việt
Nam.
-Trên cơ sở
những
bài học rút ra từ Chính sách Thương mại biên
mậu
của Trung
Quốc,
xuất
phát từ
thực trạng
và
triển
vọng
thương mại biên
mậu
giữa
hai
nước
Việt-Trung,
đề
xuất
một số
giải
pháp nhằm hoàn
thiện
Chính
sách thương mại biên mậu của
Việt
Nam
và thúc đẩy
hoạt
động thương mại
biên mậu
Việt-Trung trong
thời
gian
tói.
Nguyễn
Thị Bích
Ngọc
- A11
K39C
2
Chính sách Thương mại Biên mậu của
Trung
Quốc.
3.
Đôi
tượng
và phạm
vi
nghiên cứu
-
Đối
tượng
nghiên cứu của
khoa
luận
là Chính sách thương mại biên
mậu của
Trung
Quốc nằm
trong
hệ
thống
Chính sách
Ngoại
thương của
quốc
gia
này.
-
Phạm
vi
nghiên cứu của
khoa
luận
là Chính sách thương mại biên mậu
của
Trung
Quốc
trong
giai
đoạn
quốc
gia
này
tiến
hành
cải
cách, mở cửa
mạnh
mẽ
với thế
giới,
cụ
thể
là
từ
năm 1992 đến
nay, trong
đó
tập trung
vào
Chính sách thương mại biên mậu của
Trung
Quốc
với Việt
Nam sau
khi hai
nước
bình thường hoa
quan
hệ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoa
luận
được nghiên cứu đi
từ
lý
luận
tới
thấc
tế,
từ
tổng
quan
tới
cụ
thể,
trước mỗi vấn
đề,
đều
tiến
hành nghiên cứu môi trường hoàn
cảnh,
sau đó
đánh giá
thấc
trạng,
những
mặt tích
cấc,
tiêu cấc và phân tích nguyên nhân
của nó.
Đổng
thời,
khoa
luận
có sử
dụng
các phương
phấp
tổng
hợp,
phân tích,
thống
kê,
so sánh và vân
dụng
lý
luận
để làm sáng
tỏ
vấn đề.
5. Kết cấu của khoa luận:
Kết
cấu của
khoa
luận
ngoài
phần
Lời
mở đầu và Kết
luận,
gồm ba
chương như
sau:
Chương
1:
Tổng
quan
về Chính sách
Ngoại
thương
của
Trung
Quốc.
Chương
2:
Chính sách thương mại biên mậu
của
Trung
Quốc.
Chương
3:
Bài học
kinh
nghiệm
đối với Việt
Nam và
kiến
nghị
một số
giải
pháp nhằm
quản
lý và phát
triển
thương mại biên mậu
giữa
Việt
Nam và
Trung
Quốc.
Nguyễn
Thị Bích
Ngọc
- A11
K39C
3
Chính sách Thương mại Biên
mậu
của
Trung
Quốc.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG
CỦA TRUNG QUỐC
1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA
CHÍNH SÁCH
NGOẠI
THƯƠNG
TRONG NỀN KINH TẾ TRUNG QUỐC
1.1.1.
Tổng
quan
về tình hình
ngoại
thương của Trung
Quốc.
Nước
Cộng hoa Nhãn
dân
Trung
Hoa
thành
lập
ngày
01/10/1949.
đến
nay
đã
trải
qua
chạng
đường hơn nửa
thế kỷ.
Trong
hơn 50
năm
tổn
tại
và phát
triển
của nước
Trung
Hoa
mới,
đặc
biệt
là sau
khi
thực
hiện cải
cách
mờ
cửa
từ
nhụng
năm
cuối
của
thập
kỷ
70,
dưới
sự
lãnh
đạo cùa
Đảng Cộng
sàn
Trung
Quốc,
bộ mặt
kinh
tế-xã
hội
Trung
Quốc
đã có
nhiều
biến đổi
theo
chiều
hướng tích
cực.
Với số dán
hơn
1,3 tỷ
người,
Trung
Quốc
hiện
là
một
trong
năm
quốc
gia
có
tốc
độ tăng trưởng
kinh tế
nhanh
nhất
trên
thế
giới.
[23,
tr
3].
Theo công bố
của cục
Thống kê nhà nước
Trung
Quốc ngày
24/12/2003:
GDP
Trung
Quốc
năm
2003
đạt
trên 11.000 tỷ
NDT,
tăng 8,5%
so
với
năm
2002,
vượt
xa
mức
dự
kiến
là
7% và
là
mức
tăng trưởng cao
nhất
kể
từ
cuộc
khủng
hoảng
kinh
tế-tài
chính Châu
Á năm
1997 cho
tới
nay.
GDP
bình quân
đầu
người
đạt trên 1000
USD
.
Thu
nhập
ngân sách
năm
2003 đạt 2000 tỷ
NDT
(năm 2002 là 1890
tỷ),
dự
trụ
ngoại
tệ đạt
trên 400
tỷ
USD.
[
16,
tr
14].
Thành
tựu nổi bật của kinh tế
Trung
Quốc
trong
thời
gian
vừa qua có sự
đóng
góp
không nhỏ của
lĩnh
vực
Ngoại
thương.
Có
thể
nói,
Ngoại
Thương
chính là chìa
khoa
đưa
Trung
Quốc đến
với thế
giới
bên
ngoài
và
từng
bước
giúp nâng cao sức
cạnh
tranh
quốc
tế của
quốc
gia
rộng
lớn
này. Sau
20 năm
cải
cách
mở
cửa,
cùng
vối
nhịp
độ
tăng trưởng
nhanh
chóng của nền
kinh tế,
ngoại
thương
Trung
Quốc
đã
phát
triển
rất
nhanh,
nhịp
độ còn
cao
hơn
nhịp
độ tăng trưởng
kinh
tế.
Mức độ
phụ
thuộc
của nền
kinh tế
quốc
dán vào
ngoại
Nguyễn
Thị Bích Ngọc
-
A11
K39C
4
Chinh
sách Thương mại Biên mậu của
Trung
Quốc.
thương ngày càng tăng
lên.
Trung
Quốc đã
trớ
thành nước đang phát
triển
đầu
tiên sánh
vai với
các cường
quốc
phát
triển.
Tổng giá
trị
XNK. từ 20.64 tỳ
USD năm 1978 tăng lên đến
325,06
tỷ
USD năm
1997,
bình quân hàng năm
tăng
16,5%,
trong
đó XK tăng từ
9,75tỷ
USD lên 182,6 tý USD, tăng hàng
năm
16,7%,
NK tăng từ 10,89 tỷ USD lên
142,36
tỷ USD. bình quân hàng
năm tăng
14,5%.
Năm
1997,
mức độ phụ
thuộc
vào
ngoại
thương của
Trung
Quốc là
36%,
đưa
ngoại
thương
Trung
Quốc đứng
từ
hàng
thứ
32 năm 1978
vươn lên hàng
thứ lo
năm 1997
với tỷ trệng
XK
chiếm
trong
mậu
dịch
XK
thế
giới
từ
0,75% tăng lên 3,3%-
Trong
những
năm sau đó,
ngoại
thương
Trung
Quốc
tiếp
tục
tăng trưởng
với tốc
độ đáng
kinh
ngạc
[41].
Năm
2001,
cùng
với việc
Trung
Quốc chính
thức
gia
nhập
Tổ
chức
thương mại Thế
giới
WTO,
ngoại
thương
lại
có sự
chuyển
mình
mới.
Một
loạt
các văn bản pháp
quy,
luật
lệ kinh tế
không phù hợp
với
WTO đã được xoa bỏ.
hệ
thống
pháp
luật
pháp quy mới đã được ban hành, mật
bằng
thuế
quan
cùa
Trung
Quốc được
cắt
giảm
từ 15,3%
xuống
còn
12%,
liên
quan
tới
5300
loại
thuế,
theo
phương chàm vừa phù hợp
với
nguyên
tắc
của WTO vừa phù hợp
với
thực
tiễn
của
Trung
Quốc. Năm 2002 do
kinh tế thế
giới tiếp
tục
suy
giảm,
lại
là năm đẩu tiên
Trung
Quốc
gia
nhập
WTO,
ngoại
thương sẽ gặp khó khăn,
nhưng
Trung
Quốc
phấn
đấu để XK có
tăng,
mặc dầu không
thể
tăng
nhiều.
Nhằm
mục tiêu đó, một
loạt
các
biện
pháp được
thực
hiện
để
giữ thị
trường
hiện có,
tìm thêm
thị
trường
mới,
điều
chỉnh
kết cấu,
nâng cao
chất
lượng các
mặt
hàng XK, đặc
biệt
là đẩy
mạnh
chiến
lược "hướng
ra
bên ngoài". Chính
phủ
Trung
Quốc luôn
khuyến
khích và giúp đỡ các
doanh
nghiệp
ra nước
ngoài,
nhất
là
tới
các nước
xung
quanh
để đầu
tư,
xây
dựng
xí
nghiệp,
bao
thầu
công
trình,
tạo
điều
kiện
XK kỹ
thuật,
thiết
bị, vật
liệu,
và
lao
động.
Tuy
nhiên,
kết
quả mà
ngoại
thương
Trung
Quốc
đạt
được
lại
nằm ngoài dự đoán
của
các chuyên
gia kinh
tế.
Năm
2002,
lần
đầu tiên kim
ngạch
XNK
vượt
qua
ngưỡng
600
tỷ
USD,
đạt
620,79
tỷ
USD, tăng 21,8% so
với
năm
2001; trong
đó kim
ngạch
XK
lần
đầu tiên
vượt
mức 300
tỷ
USD,
đạt
325,57
tỷ
USD, tăng
22,3%so
vói năm
2001;
kim
ngạch
NK
đạt
295,22
tỷ
USD, tăng 21,2% so
với
năm
2001,
mức
thuận
sai
mậu
dịch
đạt
30,35
tỷ
USD, tăng 7,8 tý USD so
với
năm
2001 [41].
Nguyễn
Thị Bích Ngệc - A11
K39C
5
Chinh
sách Thương mại Biên
mậu
của
Trung
Quốc
Quý
1/2002
tốc
độ tăng
trưởng
XK
chỉ đạt
mức
10%.
bước
sang
quý
hai
đã
xuất
hiện
xu thế
tăng
trưởng
ổn
định
vững
chắc
với
mức tăng
trưởng
14,1%
và quý ba
đạt
mức
tăng trưởng
19,4%.
Ba tháng
của
quý
4.
mỗi tháng
tạo ra
mức tăng
trưởng
kỳ
lục,
vượt
30%
so với
cùng kỳ năm
ngoái,
kết quả
đưa
mức
tăng trưởng kim
ngạch
XK
cả nước lên
22,3%.
XK
đã
trở
thành một bộ
phận
rất
quan
trọng
làm
tăng
trưởng
nền
kinh
tế
quốc
dán
Trung
Quốc.
Theo
thống
kê
của Hải
quan
Trung
Quốc,
năm
2001,
trong
cơ
cấu
hàng
XK,
sản
phẩm cơ
điện
chiếm
hàng
đầu,
hàng
hoa
XK
truyền
thống
đã có bước
thay
đổi
tích
cực.
Nám
2002 xu
thế
tăng trưởng hàng
XK
truyền
thống
chủ
yếu của
Trung
Quốc
diễn
ra tốt
đẹp hơn năm
2001,
trong
đó,
kim
ngạch
XK
may mặc
đạt 41,19 tỳ
USD, tăng
12,7%;
tương
tự,
hàng
dệt
và các sản phẩm
thuộc
ngành
dệt đạt
20,58
tỳ
USD, tăng trưởng
9,9%; sản
phẩm
nhựa
các
loại
đạt
6,05
tỳ
USD, tăng
18,8%;
đổ chơi
đạt
5,57
tỳ
USD, tăng
7,9%.
Việc
NK
các
sản
phẩm sơ
chế vẫn giữ
mức tăng ổn
định.
Năm 2002
kim
ngạch
NK
sản
phẩm sơ
chế đạt
49,27
tỳ
USD, tăng 7,7% so
với
năm
2001;
kim
ngạch
NK
hàng thành phẩm
đạt
245,94
tỳ
USD
tăng
24,3% [42]
Cùng
với
dòng đầu tư nước ngoài đổ
mạnh
vào
Trung
Quốc,
hàng
loạt
các công
ty
đa
quốc
gia
dịch
chuyển
vào
Trung
Quốc, dẫn đến
mức
tăng
trưởng
mậu
dịch
gia
công
Trung
Quốc
đạt tốc
độ kỳ
lục.
Cũng
theo
thống
kê
của Hải
quan
Trung
Quốc,
xu
thế
tăng
trưởng
XNK
của
các
DN
có vốn đầu tư nước ngoài và
DNNN
đã
cải
thiện
đáng
kể.
Năm
2002,
các
DN
có vốn đẩu tư nước ngoài chủ yếu sản
xuất
gia
công vẫn
giữ
được
chiểu
hướng tăng trưởng ổn
định:
Tổng kim
ngạch
XNK
đạt
330,22
tỳ
USD tăng
27,5%,
trong
đó,
XK
169,94
tỳ
USD
tăng
27,6%;
NK
đạt
160,28
tý
USD tăng trưởng
27,4%
so
với 2001.
Tổng kim
ngạch
XNK
của
DNNN
đạt
237,35
tỳ
USD
tăng 9,5%
so với
năm
trước.
Trong
đó,
XK
đạt
122,86
tỳ
USD,
tăng
8,5%;
NK
đạt
114,49
tỳ
USD, tăng
10,6% [42].
Ngoài
ra,
các thành
phần
kinh
tế
khác như
tập thể,
tư
nhân,
cá
thể
cũng
được
tạo
nhiều
điều
kiện
thuận
lợi
trong
lĩnh
vực
kinh
doanh
XNK, do đó đã đẩy
mạnh
việc
phát
triển
kinh
tế đối
ngoại.
Tinh
hình tăng trưởng mậu
dịch
giữa
Trung
Quốc
với
các
đối
tác
mậu
dịch,
chủ yếu phát
triển
thuận
lợi,
10 nước
đối
tác thương mại
lớn
nhất
cùa
Nguyễn
Thị Bích Ngọc
-
A11
K39C
6
Chinh
sách Thướng mại Biên mậu của
Trung
Quốc.
Trung
Quốc -
trừ
Canada vẫn duy
trì
mức tăng trưởng
hai
con
số,
kim
ngạch
mậu
dịch
giữa
Trung
Quốc
với
10
đối
tác chủ yếu
chiếm
85,2%
tổng
kim
ngạch
mậu
kịch
XNK của
Trung
Quốc.
Trong
đó
Nhật
Bản là
đối
tác hàng
đầu
của
Trung
Quốc
với
tổng
kim
ngạch
mậu
dịch
hai
chiều
đạt
101.91
tỷ
USD,
chiếm
16,4%
trong
tổng
kim
ngạch
XNK của
Trung
Quốc, và tăng
16,2%
so
với
năm
2001. Đối
tác
lớn thứ hai
là Mỹ,
thứ
ba là EU,
với
mức
tổng
kim
ngạch
hai
chiều
dạt lộn
lượt
là
97,18 tỷ
USD, 86,76
tỷ
USD.
Năm
2003,
tổng
kim
ngạch
XNK của
Trung
Quốc
đạt
mức tăng trưởng
kỷ lục
là 840
tỷ
USD,
trong
đó XK
đạt
430
tỷ
USD, và
trở
thành một
trong
những
động
lực
chính thúc độy
kinh tế
Trung
Quốc tàng trưởng
mạnh
trong
năm
này.
[lổ,
tr
15]
Có được sự tăng trưởng kỳ
diệu
như
vậy
là do
Trung
Quốc có
những
lợi
thế so
sánh
nhất
định
trong
phát
triển,
cụ
thể
là:
Thứ
nhất,
Trung
Quốc là
quốc
gia
có
nguồn
tài nguyên thiên nhiên vô
cùng
phong
phú. Những tài
liệu
công bố gần đây cho
biết
Trung
Quốc có
nguồn
tài
nguyên thiên nhiên đứng hàng
thứ
3
thế
giới.
Chủng
loại
và số lượng
cơ bản của nó có
thể
đáp ứng nhu cộu xây
dựng
và phát
triển
của
đất
nước
này. Sản lượng của một số sản phộm
mang
tính tài nguyên mấy năm gần đây
cũng
tăng lên
rất
nhanh.
Ví
dụ,
sản lượng
than
nguyên
khai, xi
măng, bông,
vải
bông, nguyên
liệu
dầu
đã vươn lên đứng đầu
thế
giới.
Lượng phát điện
và sản lượng dầu thô
dứng
hàng thư 4 và
thứ
5
thế
giới.
Sản lượng thép đứng
hàng
thứ
4.
Thứ
hai,
Trung
Quốc có
nguồn
lao
động
phong
phú,
chi
phí
lao
động
thấp
hơn
nhiều
so vói mức
trung
bình
quốc
tế.
Theo tính toán của một nhóm
nhà
khoa
học, trong
20 năm kể
từ
đầu
thập
kỷ
90, trung
bình,
mỗi năm
Trung
Quốc có 21
triệu
người
bước vào độ
tuổi
lao
động.
Số
người
lao
động ở độ
tuổi
15-64
năm 1990 là 756,6
triệu
người,
năm 2000 là 844,73
triệu,
năm 2020 dao
động
từ
983 đến 1018
triệu
sau đó sẽ
giảm;
năm
2050:
913-1047
triệu.
Trừ số
người
còn đang đi
học,
tàn
tật
v.v
số
lao
động
thực
tế
năm 2000 sẽ là 731,26
triệu,
năm 2020 là 833-866
triệu,
năm 2050 sẽ là
761-881
triệu.
Cũng
theo
tính toán
trên,
từ
năm 1992 đến năm
2000,
tổng
số sức
lao
động ở nông thôn
sẽ
tăng thêm 100
triệu.
Nếu
cộng
thêm số
lao
động vốn dư
thừa
ở nông thôn
Nguyễn
Thị Bích Ngọc - A11
K39C
7
Chính sách Thương mại Biên mậu của
Trung
Quốc.
và
trừ
đi
số
giảm tự
nhiên,
ước đoán có
khoảng
200
triệu
lao
động ớ nông thôn
cần di chuyển
ra
khỏi
nông
nghiệp.
Đây là một thách
thức rất lớn đối
với
Trung
Quốc về các mặt cơ sợ hạ táng đô
thị,
thể chế
thị
trường
lao
động và các
vấn
đề xã
hội.
Song vấn để này
cũng
là một cơ
hội
rất lớn.
vì
lực
lượng lao
động,
bao gồm
lao
động dư
thừa
là một
trong
những
nguồn
lực lớn nhất
cùa
Trung
Quốc. Nếu được
quản
lý một cách
hiệu
quả,
nó sẽ
tạo
ra
những
động
lực
mạnh
mẽ thúc đẩy sự tăng trượng.
Thứ
ba, Trung
Quốc có
tiềm
lực thị
trường
rất
to
lớn.
Quả
thực,
với
số
dân đông
nhất thế
giới,
thị
trường
Trung
Quốc là một
thị
trường
rộng lớn
đầy
hấp dẫn.
Gần 20 năm
qua,
cùng
với cải
cách mợ
cửa, đời
sống
nhân dân đã
không
ngừng
cải
thiện
và nàng
cao, nhất là
ợ khu vực ven
biển.
Năm
1996, thu
nhập
bình quân đầu
người
của dân thành
thị
đạt 4.380 NDT
(khoảng
547
USD),
thu
nhập
ròng bình quân đẩu
người
cùa dân nông thôn
đạt
Ì
.900
NDT
(khoảng
237 USD). Con số này
những
năm gần đây tăng lên không
ngừng.
Tiêu dùng của cư dân thành
thị
đang tăng
từ cấp
ngàn đổng (NDT) lên cấp vạn
đổng.
[12,
tr
7]
Đây là một
tiềm
năng
quan
trọng
của nền
kinh tế
Trung
Quốc
khi
thị
trường tiêu dùng,
điện
tử,
vải vóc,
may mặc, ngành du
lịch,
giải
trí
đều
được sự kích thích phát
triển
của
người
tiêu dùng
trong
nước và là sức hút
mạnh
mẽ
với
các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ tư,
Trung
Quốc có khả năng huy động vốn
cao.
Vốn là một đảm
bảo
cực kỳ
quan
trọng
cho
việc
phát
triển
kinh
tế
xã
hội, hiện
đại
hóa đất
nước.
Nhiều
năm qua
Trung
Quốc luôn
giữ
mức tích
lũy nội
bộ
cao,
xấp xì
40%.
Quy mô đầu tư 5 năm 1996
-
2000 sẽ là 13 ngàn
tỷ
NDT. Tính đến
cuối
năm 1996 đã có gần 500 công
ty
của
Trung
Quốc
tham
gia thị
trường
chứng
khoán
với
trên 100
tỷ
cổ
phiếu, trị
giá
khoảng
1000
tỷ
NDT, Ngoài
ra, trong
thòi
gian
1978-96,
Trung
Quốc đã sử dụng
thực tế
một lượng vốn bên ngoài
lên
tới
khoảng
200
tỷ
đô
la
Mỹ,
trong
đó
khoảng
một nửa là
tiền
vay,
một nửa
là
FDI.
Nền
ngoại
thương đồ sộ của
Trung
Quốc mà dự đoán đến 2010 sẽ có
quy
mô XK đạt
khoảng
400 tỷ USD sẽ
mang
lại
những
lợi
ích to
lớn
cho
Trung
Quốc qua
khoản
xuất
siêu thường xuyên.
Hiện
nay dự
trữ
ngoại tệ
của
Trung
Quốc đã xấp
xỉ
150
tỷ
USD.
Nguyễn
Thị Bích Ngọc - A11
K39C
8
Chinh
sách Thương mại Biên mậu của
Trung
Quốc.
Thứ năm,
Trung
Quốc
hội
nhập
rất
nhanh
vào khu vực và
thế
giới.
Chính sách mở cửa của
Trung
Quốc là một bộ
phận
quan
trọng
của
cải
cách
kinh
tế
của nước này và là một
trong
những
nguyên nhân
quan
trọng
của sự
tăng
trưởng.
Trung
Quốc đã có mối liên
kết
về tài chính
với thế
giới
từ
cuối
những
năm 70 và tăng
rất
nhanh
từ
giữa
những
năm
80. Hiện nay, Trung
Quốc
thu
hút
tới
40% FDI vào các nước đang phát
triển
và là nước
tiếp
nhận
FDI
lớn
thẩ hai
trên
thế giới
sau Mỹ. Một
khi
sự
hội
nhập
hơn nữa của
Trung
Quốc
với
nền
kinh
tế thế
giới
được đẩy
mạnh
khi Trung
Quốc đã chính
thẩc
là thành
viên của Tổ
chẩc
thương mại
thế
giói WTO, thì sự tăng trưởng của nước này
sẽ
tâng
nhanh
hơn nữa như
kinh
nghiệm
quốc
tế
đã
chi rõ. Bời
vì
hiện
nay có
tới
96%
hoạt
động nghiên cẩu và
triển
khai
của
thế
giới
là do các nước công
nghiệp
phát
triển tiến
hành, các nước đang phát
triển
như
Trung
Quốc có
thể
sẽ
nhận
được
những
tiến
bộ kỹ
thuật
bằng
con
đường
ít tốn
kém là
tự
do hóa
NK cấc
sản
phẩm
trung
gian
và
thiết
bị
sản
xuất
chẩa
công
nghệ
tiên
tiến
nước
ngoài nhằm tăng năng
suất lao
động.
Trên cơ sở
những
lợi
thế
nêu
trên,
nhiều
nhà phân tích
Trung
Quốc và
quốc
tế
đều có
chung
nhận
định
rằng, Trung
Quốc sẽ
tiếp
tục
duy trì
tốc
độ
tăng trưởng cao liên
tục
trong
vài
thập
kỷ nữa và cùng
với
sự tăng trưởng này,
địa vị
của nó
trong
nền
kinh
tế thế
giới
và khu vực sẽ có
những
thay
đổi lớn.
(xem
bảng
1.1).
Bảng
1.1: Ước tính GDP của
Trung
Quốc
thời
kỳ
1990-2020
Năm 1990
2000
2010
2020
Tốc
độ tàng
GDP(%)
8,9 9,0 7,5 6,8
GNP
(tỷ
NDT)
1.768,1
4.185,7
8.626,9
16.655,9
Dân sô
(tỷ
người)
1,143
1,300
1,465 1,525
Bình quân
GDP/người
(NDT)
1.546 3.283
6.311
10.918
(Nguồn:
Bộ
Ngoại thương
và
Hợp
tác
kinh tếTrung
Quốc)
Theo
một số dự
tính,
từ
năm 1991 đến năm 2010 nếu
Trung
Quốc có
thể
duy
trì tốc
độ tăng trưởng bình quân hàng năm 8,25% thì GDP năm 2010
Nguyễn
Thị Bích Ngọc - A11
K39C
9
Chính sách Thương mại Biên mậu của
Trung
Quốc.
sẽ
là
8600
tỷ
NDT; đến năm
2000
dân số
Trung
Quốc sẽ là 1,3
tỷ
người,
năm
2010
sẽ là 1,46 tỷ
người,
do vậy GNP tính
theo
đẩu
người
sẽ là
6000
NDT.
(xem
bảng 1.2).
Bảng
1.2: Dự đoán GDP tính
theo
đầu
người
của
Trung
Quốc
năm
2005
Các vùng
thuộc
lãnh thổ
Trung
Quốc
GDP tính
theo
đầu
người
(USD)
Mức tăng trưởng
trung
bình năm
(%)
Các vùng
thuộc
lãnh thổ
Trung
Quốc
1995
2005
Mức tăng trưởng
trung
bình năm
(%)
Trung
Quốc
lục
địa
1.543 3.200 7-10
Hồng
Rông
20.590 40.000
4,5-6,5
Đài Loan
11.604
25.000
5-7
(Nguồn:
Bộ
Ngoại thương
và
Hợp
tác
kinh
tê
Trung
Quốc)
Nếu
theo
dự đoán
trên,
Trung
Quốc đang
trở
thành
quốc
gia
có
tốc
độ
tăng trưởng
kinh tế
nhanh
nhất thế
giới
vào
Trung
Quốc sẽ vẫn
giữ
vững
vị trí
này
trong
vòng vài năm
tới
(xem
bảng 1.3).
Bảng
1.3: So sánh quy mô
kinh
tê
Trung
Quốc
vói một sô nước phát
triển
trên
thế
giói
năm
2000
và 2010.
(Đơn
vị:
Tỷ USD)
Năm 1990
2000
2010
Dự kiên
tốc
độ tăng
trưởng bình quân năm
từ
1990 đến 2010 (%)
M
4682,00 6072,00 7859,00
2,60
Nhật Bản
2172,00 2856,00 3714,00
2,80
Pháp
843,00
1109,00 1410,00
2,10
Anh
670,00 807,00 949,00
2,60
An Độ
598,00
897,00
1330,00
3,40
Trung
Quốc
1767,10
4184,70 8627,10
8,25
(Nguồn:
Bộ
Ngoại thương
và
Hợp
tác
kinh tếTrung
Quốc)
Nguyn
Thị Bích Ngọc - A11
K39C
lo
Chính sách Thương mại Biên mậu của
Trung
Quốc.
Điển
hình là ý
kiến
của
Kissinger,
cựu
ngoại
trường Mỹ thì
"Trung
Quốc sẽ
xuất
hiện
với
tư
thế
một siêu
cường
non
trẻ
khi thu
nhập
quốc
dân
bình quân đầu
người
ở
Trung
Quốc đạt mức Hàn Quốc
hiện
nay.
từng
sản
phẩm
quốc
dân
của
nước này sẽ gấp 2
lần
nước
Mỹ "
Về
lĩnh
vực
ngoại
thương,
hiện
nay
Trung
Quốc là
cường
quốc
thứ
10
trên
thế
giới,
chiếm
4% thương mại
thế
giới.
Trong
thời
gian
1978
- 1995,
kim
ngạch
ngoại
thương đã
từ
chỗ
chiếm
khoảng
13% GDP tăng
vọt
lên 30%: từ
36 tỷ
đô
la
lên 300
tỷ,
tăng gần 10
lần.
Các chuyên
gia
kinh
tế thế
giới
đang
tính
tới
năm
2020
"Trung
Quốc sẽ
trờ
thành
quốc
gia
thương mại
lớn thứ hai
trên
thế
giới,
chiếm
khoảng
10%
tỷ
phần
XK của
thế
giói,
chỉ sau Mỹ (nước
chiếm
khoảng
12%) và
vượt
xa
Nhật
(nước
chiếm
khoảng
5% XK
thế
giới).
Trung
Quốc sẽ
chiếm
40% mức tàng NK dự
kiến
của các nước đang phát
triển và
sẽ
trở
thành nền
kinh
tế lớn thứ hai
trên
thế
giới
vào năm
2020,
chiếm
8% sản
lượng
toàn
thế
giới,
chỉ đứng sau Mỹ, là nước sẽ
chiếm
19%
nền
kinh tế
toàn
cầu"
Có
thể nói,
những
thành
tựu nừi bật
trong
phát
triển
kinh
tế
của
Trung
Quốc
những
năm vừa qua có sự đóng góp
rất
to lớn
của
Ngoại
thương mà
cội
rễ
của nó là Chính sách phát
triển
Ngoại
thương của
Trung
Quốc. Đây chính
là kim
chỉ
nam, và
cũng
là nhãn
tố
mang
tính
quyết
định cho sự
khởi
sắc của
ngoại
thương
Trung
Quốc nói riêng và sự
cất
cánh của nền
kinh
tế Trung
Quốc nói
chung.
1.1.2.
Khái
niệm,vai
trò của Chính sách
ngoại
thương
trong
nền
kinh
tẽ
Trung
quốc
1.1.2.1. Khái niệm
vê
Chính sách Ngoại thương
Chính sách
Ngoại
thương là một hệ
thống
các nguyên
tắc, biện
pháp
kinh
tế,
hành chính và pháp
luật
liên
quan
đến
hoạt
động
ngoại
thương mà nhà
nước
áp
dụng
để
thực
hiện
các mục tiêu
kinh
tế-xã
hội
của một
đất
nước
trong
từng
thời
kỳ
nhất
định.
Chính sách
Ngoại
thương là một bộ
phận
cấu thành
của
chính sách
kinh
tế
nói
chung
và chính sách
kinh
tế đối
ngoại
nói riêng.
[10, tr
3]
Nguyễn
Thị Bích Ngọc - A11
K39C
Chính sách Thương mại Biên mậu của
Trung
Quốc
Mục tiêu cơ bản của Chính sách
Ngoại
thương là
hướng
tới
việc
sử
dụng
và phân bổ có
hiệu
quả các
nguồn
lực trong
và ngoài nước
trong
quá trình phát
triển
kinh tế
xã
hội.
Chính sách
Ngoại
thương vừa
thể
hiện
tính
chất
mợ cửa
nền kinh tế,
vừa
thể
hiện
sự phân
biệt
đối
xử
đối
với
các nhà sản
xuất
kinh
doanh
nước ngoài
theo
nguyên
tắc
bình đẳng cùng có
lợi.
Nhiệm
vụ chủ yếu của Chính sách
Ngoại
thương là
tạo điểu
kiện
thuận
lợi
nhất
cho các
doanh
nghiệp
trong
nước mợ
rộng
buôn bán
với
nước ngoài
cũng
như thông qua đàm phán
quốc
tế
để
đạt
được mợ
rộng
thị
trường hợp
pháp cho các
doanh
nghiệp.
Đồng
thời
Chính sách
Ngoại
thương còn
phải
góp
phần
bảo hộ hợp lý sản
xuất
nội địa,
hạn
chế cạnh
tranh
bất
lợi
cho các
doanh
nghiệp
trong
nước.
Chính sách
Ngoại
thương bao gồm các bộ
phận
cấu thành như chính
sách
thị
trường,
chính sách sản phẩm, chính sách
thuế,
chính sách
khuyến
khích XK, chính sách
quản
lý NK, chính sách
tỷ
giá
Trên đây là
những
khái
niệm
cơ bản
nhất
về Chính sách
Ngoại
thương
nói
chung
và
cũng
đổng
thời
là các đặc trưng cơ bản của Chính sách
Ngoại
thương
Trung
Quốc. Tuy
nhiên,
trong
thực
tiễn
thương mại
quốc
tế,
tuy
thuộc
vào
từng
thời
điểm
lịch
sử,
Chính sách
Ngoại
thương
Trung
Quốc bên
cạnh
việc
thực
hiện
các
chức
năng và
nhiệm
vụ cơ
bản,
còn có
những
sự
thay
đổi
nhất
định để tương thích
với
điểu
kiện
của quốc
gia
mình.
1.1.2.2.
Vai
trò
của Chính sách Ngoại thương
trong
nền kinh tê
Trung Quốc.
Trong
hơn
hai
thập
ký gần đây, đạc
biệt
là sau
cuộc khủng hoảng
kinh
tế-tài
chính năm
1997,
Chính sách
Ngoại
thương
của Trung
Quốc đã bộc
lộ
sự
un
việt
của mình thông qua sự đóng góp
rất
tích cực
trong việc
phát
triển
ngoại
thương nói riêng và mọi mặt
đời sống
kinh
tế-xã hội
của
Trung
Quốc
nói
chung.
Vai trò
quan
trọng
đó của Chính sách
Ngoại
thương
trong
nền
kinh tế
Trung
Quốc
thể hiện
rõ nét qua các
nội
dung
chủ yếu
sau
đây:
Thứ
nhất,
Chính sách
Ngoại
thương góp
phần
tích cực
trong việc
khác
phục những
hạn
chế của
ngoại
thương
Trung
Quốc trước
thòi
kỳ mợ
cửa.
Nguyễn
Thị Bích Ngọc - A11
K39C
12
Chinh
sách Thương mại Biên mậu của
Trung
Quốc.
Ngay
sau
khi
thành
lập,
Trung
Quốc đã
bắt tay
xây
dựng
một
thể
chế
ngoại
thương mới để mở
rộng
phạm
vi
buôn bán
với
bên
ngoài.
Ngoại
thương
trong
thời
kì này được
thực
hiện
theo
một cơ
chế tập
trung
thống nhất từ
Trung
ương,
một cơ chế
hoạt
động
ngoại
thương
trực
thuộc
Nhà
nước.
Hoạt
động
ngoại
thương được chính
quyền
trung
ương lãnh đạo và
chi phối
bằng
các
biện
pháp hành
chính,
tảc
là
bằng
các chủ
trương,
chính sách và quy định pháp
luật
của
Nhà
nước.
Chính vì
vậy,
đặc trưng của
thể
chế
quản
lí
hoạt
động
ngoại
thương
thời
kì này là
thể chế của
nền
kinh
tế
hiện vật,
trên cơ sở
chế
độ công
hữu
đơn
nhất.
Như
vậy,
trong
một
thời
gian dài,
Nhà nước chỉ duy trì chính
sách
kinh
doanh
độc
quyền,
thống nhất,
được
điều
hành
bằng
mệnh
lệnh
hành
chính thông qua một
mạng
lưới
các công
ty ngoại
thương đã
khiến
cho tình
hình buôn bán luôn luôn
trong
thế bị
động;
các công
ty
thương mại không chù
động
phát huy sáng
tạo
trong
sản
xuất
kinh
tế,
ỷ
lại
vào Nhà
nước.
Kết quả là
sản xuất
không phát huy được
hiệu
quả,
bị tách
khỏi
tiêu
thụ,
mất tính tập
trung
với
quy mô
lớn,
hình thành
việc
buôn bán đơn
lẻ,
thiếu
những
kênh tiêu
thụ
hàng hoa
ra thị
trường
thế
giới.
Thực
trạng
này
cũng
dẫn
tới
hệ quả
tất
yếu
là sự
thiếu
hiểu
biết
của
các
doanh
nghiệp sản xuất
về
thị
trường,
mặt
hàng,
cơ
chế
đã gây
nhiều trở ngại
hơn cho
việc
mở
rộng
khả năng và phạm
vi hoạt
động
ngoại
thương. Không
những
vậy,
do nóng
vội
và mong muốn phát
triển
kinh tế,
hội
nhập
với
mậu
dịch
quốc
tế
nên chính
quyền
trung
ương đã xây
dựng
một hệ
thống
các chính sách
khổng
lổ,
chổng
chéo. Bên
cạnh
đó,
việc
quản
lí
các
hoạt
động
ngoại
thương một cách quá
cảng
nhắc
đã hạn chế
rất
nhiều
đến các
giao
dịch
với
nước
ngoài.
Ngoài
ra,
sự cạn
thiệp
quá sâu
bằng
các
biện
pháp hành chính đã làm mất
tấc
dụng
điều
tiết
của đòn bấy
kinh
tế,
làm
giảm
sảc
cạnh
tranh trong việc
tham
gia
trao
đổi
mậu
dịch
trên
thế
giói.
Trong
bối
cảnh
thực tế
lúc
đó, thể
chế này đã có lúc phát huy tác
dụng
tích cực của
nó,
đặc
biệt
là
trong việc
phân
phối,
sử
dụng
các
nguồn
lực
một
cách
tập
trung,
điều
hành các
hoạt
động XNK một cách
thống nhất,
đảm bảo
cho hoạt
động
ngoại
thương
thực
hiện
có
trọng
điểm,
tập
trung
được các
lực
lượng
đơn
lẻ
thành sảc
mạnh
tổng
hợp nén đã
vượt
qua được
nhiều thử
thách
trong
cạnh
tranh
mậu
dịch
quốc
tế.
Tuy
nhiên,
trong
xu
thế
mở
rộng
quan
hệ
Nguyễn
Thị Bích Ngọc - A11
K39C
13
Chính sách Thương mại Biên mậu của Trung
Quốc
đối
ngoại,
hội
nhập
kinh tế,
tăng cường hợp tác
hiện nay, thể chế
trên rõ ràng
là không phù hợp.
Nhận
thức
được
những
hạn
chế của thể chế
ngoại
thương
cũ,
đón
bắt
xu
hướng
phát
triển
kinh tế trong
giai
đoạn
mới,
tại
Hội
nghị
trung
ương
khoa
11
của
Đảng Cộng sản
Trung
Quốc, chính phủ
Trung
Quốc đã chủ trương
thực
hiện
chính sách
"cải
cách, mừ cửa" nền
kinh tế, trong
đó, thể chế
ngoại
thương là một
trong
những
lĩnh
vực được chú
trọng cải
cách
ngay
từ đẩu.
Mục
đích chủ yếu của
cuộc
cải
cách này là mừ
rộng
quyền
hạn chủ động
kinh
doanh
ngoại
thương, khơi dậy sự năng
động,
tính sáng
tạo,
tích cực cho các xí
nghiệp
và công
ty
xuất
- NK
ngoại
thương; mừ
rộng
các kênh tiêu
thụ
hàng
hoa ra thị
trường nước
ngoài,
tăng cường sức
cạnh
tranh
và nâng cao
vị trí
của
hàng hoa XNK của
Trung
Quốc trên
thị
trường
quốc
tế
Và
thực
tế
đã
chứng
minh
rằng,
nhờ chủ trương đúng đắn này mà
Trung
Quốc
từ
một nước nông
nghiệp
lạc hậu,
mức
sống
người
dân
thấp,
cơ sừ
vật
chất
kĩ
thuật
thiếu
thốn
đã vươn lên là một
trong
năm cường
quốc
kinh tế,
có sức
mạnh
kinh tế
không
chỉ với
các nước đang phát
triển
mà
với
cả các nước
kinh tế
phát
triển
khác
trên
thế
giới.
Thứ hai,
Chính sách
Ngoại
thương có
vai
trò
mang
tính
quyết
định
trong việc
điều
chỉnh
hữu
hiệu
cơ
cấu
XNK của
Trung
Quốc.
Trong
điều
kiện
nền
kinh tế thế
giới
đầy
biến
động như
hiện nay, việc
để
ra
các Chính sách
Ngoại
thương cần
thiết
để ứng phó kịp
thời
với
những
thay
đổi, tạo
điều
kiện
cho
ngoại
thương phát
triển
ổn định có ý
nghĩa
rất
quan
trọng.
Chẳng hạn như
khủng
hoảng
tài chính
tiền
tệ Châu Á xảy ra đã ảnh
hưừng
đáng kể đến
ngoại
thương
Trung
Quốc
trong
suốt
năm 1998 và nửa đầu
năm
1999.
Đổng
tiền
của các nước Đông Nam Á và Hàn Quốc mất giá và
tốc
độ tâng trướng
kinh tế
chậm làm cho nhu cầu NK của nước này
giảm
mạnh.
Cũng do đổng
tiền
mất
giá,
giá hàng XK
rẻ
làm sức
cạnh
tranh
tăng
lên,
ảnh
hưừng
đến XK của
Trung
Quốc. Năm
1998,
XK tăng chậm, ừ mức 0.5% so
với
20% của năm 1997. XK
trong
6 tháng đầu năm 1999 của
Trung
Quốc
giảm
7,1% trong
đó quí Ì
giảm
7,9% và quí 2
giảm
1,3% so
với
cùng kì năm
trước.
Trong
hai
tháng đẩu năm 1999 XK
sang
các nước Châu Á
giảm
18% so
Nguyễn
Thị Bích
Ngọc
-
A11
K39C
14
Chinh
sách Thương mại Biên mậu
của
Trung
Quốc.
với
cùng kì năm
trước,
chỉ còn 11,48 tỷ USD.
Trong
số các mặt hàng
thuộc
sản
phẩm công
nghiệp
NK thì tăng
nhanh
nhất
là hàng
điện
khí,
điện
tử đạt
3,93
tỷ
USD (tăng
33,4%).
Việc
tăng NK và
giảm
XK như vậy dẫn đến
nguy
cơ thâm
thụt
trong
cán cân XNK.
Điều
này đã gây ảnh
hưầng
tiêu cực đến nền
kinh tế
Trung
Quốc. Tuy nhiên, bước
sang
tháng 7 năm
1999,
ngoại
thương
Trung
Quốc đã có dấu
hiệu
phục
hổi.
Theo
báo cáo của
Hải
quan
Trung
Quốc.
kim
ngạch
XK
trong
các tháng 8, 9,
lũ
năm 1999
lần
lượt
tăng
với
các
tỷ lệ
khả
quan
là
17,8%;
20,7%
và
23,8%.
Sự
phục
hổi trong
XK không
những
giúp
Trung
Quốc tránh
khỏi
nguy
cơ thâm
hụt
mà con giúp
Trung
Quốc
đạt
được
thặng
dư thương mại
với
số
liệu
thực
tế
tháng
lo
năm 1999
là
23,8
tỷ
USD. Có
được
thành quả này một
phần
là do sự
phục
hồi
của một số
thị
trường
truyền
thống
Châu Á như
Nhật
Bản, Hồng Kông,
Asean Song
nhân
tố
mang
tính
quyết
định
đối với
sự
phục
hổi
ngoại
thương
Trung
Quốc
thời
kỳ này chính là
sự
điều
chỉnh
hữu
hiệu
và
kịp
thời
của Chính sách
Ngoại
thương. Năm 1999,
nhà nước
Trung
Quốc đã
thực
thi
chính sách
khuyến
khích XK
trong
ngoại
thương.
Cụ
thể là, trong
năm 1999 chính phủ
Trung
Quốc liên
tục
nâng cao
hai lần tỷ lệ
thoái
thuế
XK, tàng
lượng
tín
dụng
XK, mầ
rộng
quyền
tự kinh
XK cho các
doanh
nghiệp
sản xuất,
hạ mức tiêu
chuẩn
thu
phí "tam
kiểm"
và
cảng
khẩu,
từng
bước đơn
giản
hóa các thủ tục
trong
XK. Với mục tiêu
khuyến
khích hơn nữa
việc
các
doanh
nghiệp
tham
gia
vào các
hoạt
động
XNK, chính phủ
Trung
Quốc đã đưa
ra
quyết
định về
việc cắt
giảm
466
hạng
mục
thu
phí các
loại,
ước tính sẽ
giảm
khoảng
3 tỷ NDT mỗi năm cho các
doanh
nghiệp.
Bên
cạnh
việc
cân
đối
kim
ngạch
XNK một cách hợp
lý,
Chính sách
Ngoại
thương còn giúp
điều
chỉnh
hiệu
quả cơ
cấu
hàng hoa XNK. Ví dụ như,
để
khuyến
khích XK các
sản
phẩm
chế tạo,
chính phủ
Trung
Quốc đã liên
tiếp
tăng mức hoàn
thuế
XK cho hơn 20 mặt hàng XK
chủ
yếu
như:
thiết
bị cơ khí,
điện
khí,điện
tử
Bên
cạnh
đó, chính phủ
Trung
Quốc
cũng
đã
tiến
hành
giảm
thuế
NK 9
lần
liên
tiếp
cho hàng công
nghiệp
để
thực
hiện chiến
lược ưu
tiên NK hàng công
nghiệp,
đặc
biệt
là máy móc
thiết
bị
hiện đại
để
phục
vụ
cho
công
cuộc
công
nghiệp
hóa-hiện
đại
hoa
đất
nước đổng
thời
giúp tăng sức
Nguyễn
Thị Bích Ngọc - A11
K39C
15
Chinh
sách Thương mại Biên mậu của
Trung
Quốc.
cạnh
tranh
của hàng XK trên
thị
trường
thế
giới.
Theo
giới
nghiên cứu dự báo
kinh tế
Trung
Quốc,
thuế
NK hàng công
nghiệp
sẽ
giảm
đến 10% năm
2005.
Như
vậy,
có
thể thấy,
mỗi
khi
nền
ngoại
thương của
Trung
Quốc gặp
khó khăn, dù là do nguyên nhân khách
quan
hay chủ
quan,
Chính sách
Ngoại
thương luôn đóng
vai
trò tích cực để hoa
giải
những
khó khăn đó và chuyên
hoa
nó thành
những
thuận
lỳi
nhất
định thông qua
việc
điều
chính hữu
hiệu
cơ
cấu
XNK của mình.
Thứ ba,
Chính sách
Ngoại
thương
trong
những
năm vừa qua đã có
đóng góp tích cực
trong việc
nâng cao đưỳc
hiệu
quả của
hoạt
động
thương
mại
quốc
tế
của
Trung
Quốc.
Thông qua
việc
điều
tiết
và cân
đối
hoạt
động XNK một cách có
hiệu
quả,
Chính sách
Ngoại
thương
Trung
Quốc qua các
thời
kỳ luôn đảm
nhiệm
tốt
vai
trò của mình
trong việc
nâng cao
hiệu
quả
hoạt
động thương mại
quốc
tế
của
Trung
Quốc. Chính sách
Ngoại
thương của
Trung
Quốc
trong hai
mươi
năm gần đây đã qua không
ít lần
điều
chỉnh
song
đều nhằm mục tiêu mở
rộng
một
cách có
hiệu
quả quy mô và
tốc
độ của mậu
dịch
đối
ngoại,
phát
triển
cả
về
chất
lưỳng
và số
lưỳng
các kênh lưu thông, đa
dạng
hoa phương
thức
giao
dịch
trong kinh
doanh,
tăng
cường
khối
lưỳng
các
doanh
nghiệp
tham
gia kinh
doanh
ngoại
thương
từ
đó
tạo
điều
kiện
cho các
loại
hình phát
triển
kinh
tế
hướng
ra
bên
ngoài,
mở
rộng
buôn bán trên
thị
trường
thế
giới,
nâng cao
hiệu
quả
hoạt
động thương mại của
Trung
Quốc trên
thị
trường
thế
giới.
Thực
tế
trong
những
năm vừa qua đã
minh
chứng
cho
vai
trò
quan
trọng
này của
Chính sách
Ngoại
thương
Trung
Quốc. Nhờ
đổi
mới
ngoại
thương,
Trung
Quốc đã
trở
thành nước nước có
tốc
độ tăng trường
kinh tế
cao
nhất
thế
giới.
Nếu tính từ năm 1979 đến năm
2000,
táng trưởng GDP bình quân đạt
9,5%/năm.
Trong
năm
2000,
nền
kinh tế
Trung
Quốc
giữ
đưỳc mức phát
triển
nhanh,
ổn
định,
GDP
đạt
8.940,4
tỉ
NDT, tăng 8% so
với
năm
1999;
6 tháng
đấu
năm
2001,
GDP tăng 8%. Sau 22 năm
tổng
kim
ngạch
XNK tăng 22
lần;
năm
2000
tổng
kim
ngạch
XNK của
Trung
Quốc
đạt
474,3
tỉ
USD, XK xếp
hàng
thứ
7 và NK hàng
thứ
8
thế
giói,
tăng 31,5% so
với
năm
1999; trong
đó,
XK tăng
27,8%,
NK tâng
35,8%.
Mức độ phụ
thuộc
của nền
kinh tế
quốc
dân
vào
ngoại
thương ngày càng tăng
lên.
Trung
Quốc đã
trở
thành nước đang
phất
Nguyễn
Thị Bích Ngọc - A11
K39C
ló
Chinh
sách Thương mại Biên mậu của
Trung
Quốc.
triển
đầu tiên sánh
vai với
các cường
quốc
phất
triển.
Trung
Quốc
cũng
đã mờ
rộng
quan
hệ
giao
lưu buôn bán
với
hầu
hết
các nước
trong
khu vực và trên
thế
giói,
cấc sản phẩm của
Trung
Quốc ngày càng
phong
phú hơn trên các thị
trường.
Các
đối tấc
thương mại chủ
yếu của
Trung
Quốc
hiện
nay là
Nhật
Bản.
Hàn
Quốc,
EU, Mỹ
Thồ
tư, Chính sách
Ngoại
thương có
vai
trò hết sồc
quan
trọng
trong
việc
đảm bảo vị
thế
có
lợi
của
Trung
Quốc trên
thị
trường
quốc
tế
đầy biến
động.
Trong
giai
đoạn xây
dựng
nền
kinh tế thị
trường
theo
định hướng xã
hội
chủ
nghĩa
hiện nay,
chính phủ
Trung
Quốc
rất
quan
tâm đến
việc khai
thác
tối
un hiệu
quả các
nguồn
vốn
từ thị
trường
trong
nước và
thị
trường nước ngoài.
Chính vì
vậy,
mậu
dịch
đối
ngoại
có
vai
trò đặc
biệt
quan
trọng trong chiến
lược
phát
triển
kinh
tê để vươn
rộng
ra
bên ngoài của
Trung
Quốc. Mặt khác,
thông qua
hoạt
động buôn bán
với thế
giới,
Trung
Quốc còn
muốn
hướng
tới
mục tiêu
thu
hút
những
thành
quả,
sản phẩm nghiên cồu
khoa
học của
thế
giới
để rút
ngắn
con đường đi
tới
hiện đại
hoa
của
mình.
Tuy
nhiên,
trong
một môi
trường
cạnh
tranh
quốc
tế
vô cùng
khốc
liệt
như
hiện nay, việc
thực
hiện
mục
tiêu đó của
Trung
Quốc sẽ gặp
phải
những
trở
ngại
nhất
định.
Thực
tế
đã cho
thấy,
Trung
Quốc đang
phải
chịu
sồc ép
cạnh
tranh
nặng
nề trên
thị
trường
thế
giới,
phải
đối
mặt
với
xu
thế tập
đoàn hoa các khu vực
kinh tế
đang ngày càng
phát
triển,
phải
chịu
sự hạn chế của chủ
nghĩa
bảo hộ mậu
dịch
và sự
cạnh
tranh
mang
tính bài
ngoại
của
thế
giới.
Chính vì
vậy,
một chính sách
ngoại
thương đúng đắn và hợp lý đóng
vai
trò vô cùng
quan
trọng đối với việc giữ
vững
sự độc
lập
về chính
trị
và
lợi
ích
kinh tế của
Trung
Quốc
trong
điều
kiện
cạnh
tranh
quốc
tế
khốc
liệt,
đổng
thời
đối
phó có
hiệu
quả
với
các
thế lực
độc
quyền
kinh tế
quốc
tế,
hạn
chế
được chủ
nghĩa
bảo hộ mậu
dịch
và xu
thế
bài
ngoại
của các
tập
đoàn
kinh tế
khu
vực,
mang
đến cho
Trung
Quốc một môi
trường
cạnh
tranh
công
bằng,
bình
đẳng,
tạo
đà cho phát
triển
kinh tế
và tâng
cường
vị thế của
Trung
Quốc trên trường
quấc tế
hiên nay.
T-H ư V •
I.
*\
MGUA
ÌHúŨNi.:
LV.Ỉ7 U31
: m£
ị
Nguyễn
Thị Bích Ngọc - A11
K39C
11
Chính sách Thương mại Biên mậu của
Trung
Quốc
1.1.3. Quá trình phát
triển
và hoàn
thiện
Chính sách
Ngoại
thương của
Trung
Quốc.
Trong
hơn
hai
mươi năm hình thành và phát
triển,
trước
bối
cảnh
trong
nưóc và
quốc
tế vận
động không
ngừng,
Chính sách
Ngoại
thương của
Trung
Quốc
cũng
đã có
những
bước
chuyển
mình tích cực để làm
tốt
vai
trò đưa nền
kinh
tế
Trung
Quốc
hội
nhập
với
bên ngoài và ngày càng nâng cao vị
thế
của
mình trên trường
quốc
tế.
Quá trình
thay đổi
và hoàn
thiện
đó của Chính sách
Ngoại
thương
Trung
Quốc có
thể
chia
làm 5
giai
đoạn
chính
sau:
Giai
đoạn
1979-1987
Cùng
với
công
cuộc
cải
cách toàn
diện
nền
kinh
tế,
cải
cách Chính sách
Ngoại
thương
cũng
bắt
đỏu được
tiến
hành vào năm 1979
với
mục tiêu
chuyển
đổi
thể
chế thương mại kế
hoạch
tập
trung,
xoa bỏ cơ chế độc
quyển
ngoại
thương vốn được
thực
hiện
từ
giữa
những
năm 1950. Các
biện
pháp chính
được
áp
dụng
trong
thời
kỳ này bao gồm:
trao
quyền
hoạt
động
ngoại
thương
cho
các
tỉnh,
khu
tự
trị,
các ngành và
doanh
nghiệp; thử
nghiệm
nhiều
hình
thức ngoại
thương như chế
biến,
thương mại bù
trừ
(là hình
thức
thương mại
thông qua
trao
đổi
hàng
hoa,
khoản
chênh
lệch
quy
ra
tiền
được
giữ
lại
trong
nước
và do phía nước ngoài sử
dụng)
và thương mại biên mậu. Để
thu
hút đỏu
tư nước
ngoài,
các đặc khu
kinh tế
cũng
được thành
lập
trong
giai
đoạn
này.
Việc
xoa bỏ cơ chế độc
quyền
ngoại
thương
trong
giai
đoạn
này đồng
nghĩa
với
việc
quản
lý
hoạt
động
ngoại
thương sẽ không được đặt kế
hoạch
như trước
nữa.
Vì
vậy,
để đảm bảo cho
hoạt
động
ngoại
thương được
kiểm
soát
tốt,
chính phủ
Trung
Quốc đã áp
dụng
hệ
thống
quản
lý
ngoại
thương
thông qua
giấy
phép,
theo
đó
nhiều
doanh
nghiệp lớn
cũng
được phép
hoạt
động
ngoại
thương một cách
trực
tiếp.
Những
cải
cách
tiếp
theo
của
Trung
Quốc
tập
trung
vào
việc
tách
chức
năng
quản
lý của nhà nước
ra
khỏi
chức
năng
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp;
đơn
giản
hoa một bước
thủ tục
hành chính liên
quan
đến
việc
phê
duyệt
hàng
hoa
XNK;
trao
quyền
kinh
doanh
nhiều
hơn cho các
doanh
nghiệp.
Phương
pháp
luận
về kế
hoạch
hoa
cũng
như hệ
thống
kế toán được
cải
cách
mạnh
mẽ
đã đưa
người
sản
xuất
và
người
kinh
doanh
thương mại đến gỏn
nhau
hơn. Chế
độ
tỷ
giá
tự
xác định áp
dụng
trước đây được
thay
bằng
chế độ
tỷ
giá
thả nổi
Nguyễn
Thị Bích Ngọc - A11
K39C
18