Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.49 KB, 79 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, nền kinh tế Trung Quốc trỗi dậy
mạnh mẽ, là hiện tượng nổi bật nhất, thu hút nhiều sự chú ý nhất ở khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương và trên tồn thế giới. Sau hơn 30 năm
(1979-2010) thực hiện cải cách mở cửa, bộ mặt kinh tế xã hội Trung Quốc đã
biến đổi sâu sắc. Về nhiều mặt, Trung Quốc đang chiếm những vị trí đáng kể
trong nền kinh tế thế giới, đứng hàng đầu về tốc độ tăng trưởng với một thực
lực kinh tế không nhỏ. Đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương nói chung và
xuất khẩu hàng hóa nói riêng, Trung Quốc đã thu được nhiều thành tựu rực
rỡ: từ chỗ xếp hàng thứ 32 trên thế giới về xuất nhập khẩu (năm 1978) đến
năm 2010, Trung Quốc đã vươn lên là cường quốc xuất khẩu hàng đầu trên
thế giới với tổng kim ngạch xuất khẩu lên tới 1.578 tỷ USD, chiếm gần 10%
kim ngạch xuất khẩu của thế giới. Hơn thế nữa, vị thế và ảnh hưởng của
Trung Quốc trong thương mại quốc tế ngày càng được nâng cao, ngoại
thương Trung Quốc đang đứng trước những cơ hội mới để phát triển tốt đẹp
hơn, đặc biệt là sau sự kiện Trung Quốc đã trở thành thành viên thứ 143 của
Tổ chức thương mại thế giới ngay vào năm đầu tiên của thế kỷ XXI.
Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự
nhiên, dân cư, chế độ chính trị xã hội và cả về kinh tế với Trung Quốc. Cũng

1


giống như Trung Quốc, Việt Nam đang tiến hành đổi mới đất nước, hướng tới
việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, Việt Nam tiến hành mở cửa, đổi mới đất nước sau Trung Quốc 8 năm
và cho đến nay thì những thành tựu kinh tế, thành tựu phát triển ngoại thương
vẫn còn là khiêm tốn so với những thành quả to lớn của nước bạn và còn chưa
xứng với tiềm năng của chính Việt Nam. Vì vậy, để thành cơng hơn nữa trong
công cuộc phát triển ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu


hàng hóa, thì việc tham khảo bài học kinh nghiệm của Trung Quốc là rất cần
thiết.
Với lý do trên, em xin được mạnh dạn nghiên cứu vấn đề “Chính sách khuyến
khích xuất khẩu của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích các bài học kinh nghiệm thành cơng cũng như chưa
thành cơng trong chính sách khuyến khích, thúc đẩy xuất khẩu của Trung
Quốc trong tiến trình mở cửa và cải cách kinh tế từ năm 1979 đến nay, tham
khảo một cách có phê phán và chọn lọc những kinh nghiệm có tính khả thi,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đưa ra những gợi ý nhằm thúc đẩy xuất khẩu
của đất nước trong giai đoạn hiện nay và trong tuơng lai.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

2


Bản khóa luận này đi sâu nghiên cứu các chính sách khuyến khích, thúc
đẩy xuất khẩu của Trung Quốc từ khi mở cửa và cải cách kinh tế năm 1979
đến nay.

4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được xây dựng dựa trên các phương pháp nghiên cứu khoa
học: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp tổng
hợp và phân tích, phương pháp thống kê và so sánh.

5. Kết cấu của khóa luận
Ngồi lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bản khóa luận
gồm có 3 chương:

Chương I: Tổng quan về kinh tế Trung Quốc
Chương II: Chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc
Chương III: Định hướng hồn thiện chính sách khuyến khích xuất
khẩu của Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo – Tiến sỹ Nguyễn Xuân Nữ, người
đã tận tình hướng dẫn em trong việc hồn thành khóa luận tốt nghiệp này. Em
cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo, bạn bè, Thư viện trường
Đại học Ngoại thương, Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc đã giúp đỡ, tạo
điều kiện để khóa luận được hồn thành.

3


Hà Nội, tháng 4 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Phạm Thu Nga

4


Chương I
TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TRUNG QUỐC

I. KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC TRUNG QUỐC
1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Trung Quốc là một đất nước có diện tích rộng lớn nằm ở nửa phía Bắc
của Đơng bán cầu, phía Đơng Nam của đại lục Á - Âu, phía Đơng của Châu Á
và phía Tây Thái Bình Dương, có đường biên giới đất liền dài khoảng 22.000
km tiếp giáp với 15 quốc gia, có vùng biển rộng lớn với tuyến bờ biển dài và
rất nhiều đảo, đường biên giới trên biển dài khoảng 18.000 km. Diện tích

Trung Quốc là 960 vạn km2, là nước lớn nhất Châu Á, thứ 3 trên thế giới về
diện tích lãnh thổ (1)
Với vị trí địa lý rất thuận lợi cùng với diện tích đất đai rộng lớn đã tạo ra
cho Trung Quốc những điều kiện dễ dàng phát triển mối quan hệ kinh tế, đặc
biệt là quan hệ mậu dịch với các nước và khu vực lớn ở Châu Âu, Châu Mỹ
cũng như Đơng Nam Á, Australia và Trung Á.
Địa hình Trung Quốc rất đa dạng bao gồm đồng bằng, gò đồi, cao

(1)

Chuyên đề Kinh tế Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa đến nay tháng 2/2003, Trung tâm nghiên cứu Trung
Quốc.

5


nguyên, bồn địa, sơn địa, hoang mạc, sa mạc xen kẽ nhau, chủ yếu là địa hình
đồi núi, chiếm 70% diện tích đất đai trong đó gần 1/3 ở độ cao trên 300m,
diện tích đất trồng trọt chỉ khoảng 100 triệu ha, độ phì nhiêu khá cao.
Điều kiện khí hậu rất ưu việt nhưng tương đối khác nhau giữa các vùng,
trải rộng từ Nam tới Bắc là các vùng khí hậu khác nhau: vượt nhiệt đới, nhiệt
đới, á nhiệt đới, nỗn ơn đới, hàn nhiệt đới. Lượng mưa dồi dào, bình quân
hàng năm ở Trung Quốc là 629mm. Điều kiện nhiệt độ và lượng nước phân
phối hợp lý tạo ra điều kiện cho việc phát triển nông nghiệp, như nghề trồng
lúa, trồng bông, các loại hoa quả và nghề cá.
Trung Quốc là nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong
phú, trong đó lượng tài nguyên nước đứng thứ nhất thế giới. Nguồn tài
nguyên năng lượng cũng rất lớn, trữ lượng than thăm dò được là 700 tỷ tấn,
đứng thứ nhất thế giới. Sản lượng dầu thô đứng thứ năm thế giới. Tài nguyên
khoáng sản của Trung Quốc tương đối tồn diện và đồng bộ, 150 loại khống

sản được sử dụng trên thế giới đều được phát hiện ở Trung Quốc, trong đó trữ
lượng thăm dị được của hơn 20 loại như: than, vonfram, sitilium, đồng, chì,
kẽm, vanađium, titan... đứng hàng đầu thế giới. Rừng của Trung Quốc cũng
đứng đầu thế giới về chủng loại gỗ với hơn 2500 loại trong đó có 500 loại cây
quý hiếm và 50 loại cây đặc chủng cùng nhiều loại động vật quý hiếm.
2. Dân cư

6


Trung Quốc là nước có dân số lớn nhất thế giới, dân số Trung Quốc tính
đến cuối năm 2010 có 1,34 tỷ người. Trung Quốc là một trong những quốc gia
có mật độ dân cư cao nhất và phân bố khơng đồng đều; mật độ trung bình là
125 người/km2; dao động từ 1,5 người ở vùng tự trị Tây Tạng đến 400-500
người/km2 ở các vùng đồng bằng phía Đơng, nhiều nơi lên đến 1000-1500
người/km2 như ở vùng Bắc và Đông Bắc
Tiềm năng về nguồn nhân lực của Trung Quốc là rất lớn và lâu dài. Số
người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 61% tổng dân số, trong số này có
60% là lao động nơng nghiệp. Theo tính tốn của Cục điều tra dân số Mỹ, dân
số trong độ tuổi lao động của Trung Quốc năm 2010 là gần 977 triệu người,
trung bình mỗi năm Trung Quốc có thêm 21 triệu người bước vào độ tuổi lao
động. Nguồn nhân lực dồi dào này cùng với truyền thống lao động cần cù,
sáng tạo và công tác giáo dục ở đây rất được coi trọng nên chất lượng lao
động ngày càng tăng lên. Đó là tài sản vơ giá và là nhân tố quan trọng trong
sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước này.
3. Đặc điểm chính trị - xã hội
Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập vào ngày
01/10/1949. Sau khi nước CHND Trung Hoa thành lập, Đảng cộng sản Trung
Quốc đã lãnh đạo Cách mạng Trung Quốc đi vào thời kỳ khôi phục và phát
triển kinh tế đất nước. Trong giai đoạn đầu của công cuộc xây dựng kinh tế


7


đất nước, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, Trung Quốc đã có
nhiều va vấp, thất bại.
Hội nghị Trung ương 3 khóa 11 Đảng cộng sản Trung Quốc (1978) đã đề
ra đường lối cải cách mở cửa “Một trung tâm, hai điểm cơ bản” (xây dựng
kinh tế là trung tâm, 2 điểm cơ bản là kiên trì cải cách mở cửa và kiên trì 4
nguyên tắc: Con đường xã hội chủ nghĩa, chuyên chính dân chủ nhân dân, sự
lãnh đạo của Đảng, tư tưởng Mao Trạch Đông). Đặng Tiểu Bình đã đưa ra lý
luận “Xây dựng xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc” với nội dung cơ
bản là “Giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị” tức là đi theo chủ nghĩa Mác
nhưng phải xuất phát từ thực tế Trung Quốc. Từ đó đến nay, Trung Quốc ln
ln kiên trì cơng cuộc cải cách mở cửa, xây dựng chủ nghĩa xã hội mang
màu sắc Trung Quốc, đưa đất nước chuyển sang một thời đại mới.
Nhìn chung, tình hình chính trị-xã hội Trung Quốc trong những năm gần
đây ổn định, tuy trong nước và quốc tế có nhiều biến động nhưng Đảng cộng
sản Trung Quốc vẫn giữ vững được quyền lãnh đạo. Nội bộ ban lãnh đạo đã
quán triệt quan điểm xuất phát từ đại cục, tập trung mọi nguồn lực để phát
triển kinh tế. Bên cạnh đó, những lo ngại chính trị tại Trung Quốc hiện nay
bao gồm khoảng cách giàu và nghèo ngày càng lớn, và ngày càng nhiều bất
đồng đối với sự lan tràn của tham nhũng trong giới lãnh đạo và cán bộ các
cấp..

8


II. Kinh tế Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa đến nay
Tháng 12 năm 1978, hội nghị lần thứ 3 khóa XI của Đảng cộng sản

Trung Quốc ghi nhận sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước – “Hội nghị là
bước ngoặt có ý nghĩa sâu xa trong lịch sử đất nước…con đường mới xây
dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc được mở ra từ hội nghị
này”. Từ 1978 đến nay, qua các kỳ hội nghị và đại hội Đảng, Trung Quốc
không ngừng phát triển tư duy lý luận làm phong phú thêm nhận thức về con
đường cũng như nội dung cải cách mở cửa. Đặc biệt từ 1992, Trung Quốc
chính thức thừa nhận thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với việc đẩy
nhanh nhịp độ cải cách và mở cửa, đồng thời thực hiện chiến lược tăng tốc
trong phát triển kinh tế. Từ đó đến nay đã thu được những thành cơng đáng
kể.
1. Về tăng trưởng kinh tế
Q trình cải cách và mở cửa đã tạo nên sự phát triển sống động của nền
kinh tế Trung Quốc. Kinh tế Trung Quốc liên tục tăng trường cao, tiềm lực
của nền kinh tế đất nước không ngừng được tăng cường.
Trước cải cách, từ 1952 đến 1978, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của
kinh tế Trung Quốc là 4,4%, thấp hơn bình quân hàng năm của thế giới
(4,52%). Từ năm 1979 đến 2007, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt
trên 8% và năm năm trở lại đây đạt khoảng 10%(2). Giai đoạn 1992-1997, kinh
(2)

Trung Quốc và những vấn đề sau vị trí thứ 2 thế giới, Báo Điện tử dân trí tháng 2/2011

9


tế Trung Quốc tăng trưởng ngoạn mục với tốc độ tăng trưởng GDP bình qn
đạt 11%/ năm. Trong đó, GDP Trung Quốc năm 1996 lớn hơn GDP của
ASEAN khoảng 15%, bằng 3% GDP của thế giới, 23% kinh tế Nhật, 12%
kinh tế Mỹ.(3) Trong những năm 1997-1999, do tác động của cuộc khủng
.hoảng kinh tế khu vực, nền kinh tế Trung Quốc cũng chững lại, và có dấu

hiệu suy giảm. Tuy nhiên, ngay sau đó Trung Quốc đã lấy lại được xu thế tăng
trưởng. Năm 2000 là năm cuối của kế hoạch năm năm phát triển kinh tế xã
hội lần thứ chín( 1996-2000), cũng là năm đánh dấu một bước chuyển biến
quan trọng trong nền kinh tế Trung Quốc. Với những cố gắng gia nhập tổ
chức thương mại thế giới (WTO), tái cơ cấu nền kinh tế, tập trung cải cách xí
nghiệp quốc doanh, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, cải cách cơ bản
về nông nghiệp và mở rộng nhu cầu nội địa, Trung Quốc đã đảo ngược xu
hướng suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế kéo dài liên tục trong 3 năm qua.
Năm 2000, với GDP đạt 8.928 tỷ NDT - tương đương 1.072 tỷ USD, với mức
tăng GDP là 8,3% , theo số liệu của IMF con số này là 7,5%, GDP bình quân
đầu người đạt 850 USD, Trung Quốc đã hoàn thành vượt mức kế hoạch tăng
gấp 4 lần GDP bình quân đầu người của năm 1980 (200 USD). Với kết quả
này, Trung Quốc đã lần đầu tiên đặt chân vào hàng ngũ các quốc gia có GDP
trên 1000 tỷ USD.
Bước sang thế kỷ 21, năm 2001 được đánh dấu bằng sự kiện lớn, việc
Trung Quốc chính thức trở thành thành viên thứ 143 của WTO (vào ngày 11
(3)

Cục thống kê Trung Quốc

10


tháng 11) sau 15 năm nỗ lực và cố gắng là một bước tiến lớn của nền kinh tế
Trung Quốc theo hướng nhất thể hố kinh tế tồn cầu. Sự kiện này cũng đã
mở ra những cơ hội và thách thức mới đối với nền kinh tế Trung Quốc. Trong
bức tranh ảm đạm của nền kinh tế thế giới 2001, mặc dù tăng trưởng xuất
khẩu chững lại do bị ảnh hưởng của sự suy giảm kinh tế Mỹ, Nhật Bản và thế
giới song Trung Quốc vẫn duy trì được mục tiêu tăng trưởng. Năm 2001,
GDP của Trung Quốc đạt 1100 tỷ USD, tăng 7,3%, thấp hơn so với mức kế

hoạch đề ra (7,5%) (4)
Năm 2002, GDP của Trung Quốc lần đầu tiên phá mốc 10 nghìn tỷ NDT,
đạt 10.239,8 tỷ NDT tương đương 1278 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng là 8%
Năm 2004, GDP của Trung Quốc là 1649 tỷ USD, xếp thứ 7 thế giới,
năm 2005 đạt trên 1800 tỷ USD, vượt Italia trở thành nền kinh tế lớn thứ 6 thế
giới, đến năm 2010 GDP của Trung Quốc đã đạt trên 6000 tỷ USD, chiếm
9,5% tổng GDP thế giới, vượt qua Nhật bản trở thành nước đứng thứ hai trên
thế giới sau Mỹ (5)
Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc cũng không ngừng tăng lên, năm 1978 là
167 triệu USD, năm 1998 là 144,9 tỷ USD, năm 2008 là 1.946 tỷ USD, năm
2009 tăng lên 2.400 tỷ USD, và đến năm 2010 đã là gần 3.000 tỷ. Chính sách
quản lý tiền tệ, cùng thặng dư thương mại ở mức cao và luồng vốn đổ vào
ngày một nhiều là những nguyên nhân khiến kho dự trữ ngoại tệ Trung Quốc
(4)
(5)

Số liệu thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF
Cục Thống kê Trung Quốc

11


có thêm hơn 1.000 tỷ USD trong vịng 2 năm vừa rồi. Hiện tại, dự trữ ngoại tệ
của Trung Quốc vẫn lớn nhất thế giới, đứng tiếp theo là Nhật Bản, Nga. Trong
quý 1 năm 2011, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc có thêm 197 tỷ USD , lên
mức cao chưa từng có 3.040 tỷ USD(6)
Do tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập của cư dân Trung Quốc cũng
tăng nhanh, mức sống cũng đã có những chuyển biến đáng kể. Thu nhập của
cư dân thành thị và nơng thơn tăng nhanh. Từ năm 1978-2007, GDP bình
qn đầu người tăng từ 381 NDT lên 18.600 NDT; thu nhập bình quân đầu

người của cư dân thành thị và thu nhập bình qn đầu người của cư dân nơng
thơn lần lượt tăng từ 343 NDT và 134 NDT lên 13.786 NDT và 4.149 NDT;
số dư tài khoản tích lũy của cư dân thành thị tăng từ 21,1 tỷ NDT lên 17.600
tỷ NDT. Cơ cấu tiêu dùng của cư dân nông thơn và thành thị có những thay
đổi theo xu hướng nâng cao chất lượng. Năm 1978-2007, tổng kim ngạch bán
lẻ hàng hóa xã hội tăng từ 155,86 tỷ NDT lên 8.921 tỷ NDT, nhu cầu tiêu
dùng của người dân không ngừng tăng lên; hệ số Engel (là tỉ lệ chi phí trong
chi tiêu dành cho ăn uống nằm trong tổng số tiêu dùng) của gia đình cư dân
thành thị và nông thôn lần lượt giảm từ 57,5% và 67,7% xuống 36,3% và
41,3%, kết cấu tiêu dùng không ngừng được nâng cấp; diện tích nhà ở bình
qn đầu người ở thành thị và nông thôn lần lượt tăng từ 6,7m2 và 8,1m2 lên
26m2 và 29,7m2, điều kiện sống không ngừng được cải thiện.

(6)

Ngân hàng TW Trung Quốc

12


Về vấn đề xóa đói giảm nghèo, Trung Quốc đạt được những thành tựu
mà cả thế giới công nhận. Năm 1978-2007, số nhân khẩu nghèo tuyệt đối ở
nông thôn (thu nhập bình quân hàng năm dưới 785 NDT) giảm từ 250 triệu
người xuống còn 14.790.000 người. Đời sống cơ bản của người có thu nhập
thấp và những người có đời sống khó khăn được cải thiện nhờ có sự hỗ trợ.
2. Cơ cấu kinh tế
Tỷ trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế có xu hướng giảm tuy giá trị
tuyệt đối vẫn tăng, đồng thời tỷ trọng của công nghiệp, dịch vụ tăng lên. Từ
năm 1978 đến năm 2007, tỷ trọng của 3 khu vực ngành nghề sản xuất là nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong GDP lần lượt thay đổi từ 27,94%,

47,88% và 24,18% thành 11,70%, 49,20% và 39,10%. Cơ cấu kinh tế được
cải thiện rõ rệt, hiệu quả phát triển kinh tế xã hội được nâng lên. Đã có 22
doanh nghiệp Trung Quốc lọt vào danh sách 500 doanh nghiệp mạnh trên thế
giới, sức cạnh tranh và tiềm lực của doanh nghiệp ngày càng tăng. Trong quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường, vai trò của kinh tế dịch vụ ngày càng có
ý nghĩa quan trọng với sự phát triển kinh tế đất nước. Các loại hình kinh tế
dịch vụ về tài chính, tiền tệ, thương mại, chuyển giao cơng nghệ, du lịch... đã
hình thành và phát triển theo yêu cầu mở rộng của kinh tế thị trường cũng như
quá trình hội nhập và mở cửa.
Về dịch vụ khoa học – kỹ thuật cũng được nhà nước chú trọng phát triển

13


và có những đóng góp tích cực vào q trình đổi mới cơng nghệ, nâng cấp
hiện đại hóa cơng nghiệp. Về dịch vụ xuất khẩu lao động cũng đóng góp phần
quan trọng vào thu nhập quốc dân của Trung Quốc. Tính đến năm 1988,
Trung Quốc đã xuất khẩu lao động đến 117 nước trên thế giới, chiếm 10%
tổng số lao động hợp tác quốc tế, thu về 10,3 tỷ USD.
Sự chuyển dịch ấy diễn ra đúng hướng, nó phù hợp với các quốc gia có
nền kinh tế ở điểm xuất phát thấp đang vươn lên trong q trình cơng nghiệp
hóa. Đó chính là kết quả của q trình điều chỉnh kinh tế và những định
hướng đúng đắn về thực hiện chiến lược cơng nghiệp hóa theo hướng mở cửa
hội nhập.
Trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, cơ cấu thành phần kinh tế
đã có sự chuyển dịch. Thành phần kinh tế phi tập thể trong nền kinh tế đã phát
triển với tốc độ nhanh. Hiện tại, thành phần kinh tế nhà nước khơng cịn đóng
vai trị độc quyền ở Trung Quốc. Kinh tế tư nhân, doanh nghiệp nhà nước và
nước ngoài cùng tồn tại trong hệ thống kinh tế của Trung Quốc.
Năm 1978, xí nghiệp quốc doanh chiếm 77,6% tổng sản lượng công

nghiệp Trung Quốc. Tuy nhiên, đến năm 2007, tỷ lệ này chỉ còn chiếm
29,5%.(7)Mặc dù tỷ lệ giảm, nhưng kinh tế quốc doanh vẫn là yếu tố quan
trọng trong kinh tế Trung Quốc. Khu vực tư nhân thuần túy đã gia tăng tổng
sản lượng công nghiệp của nó từ 37,7% năm 2001 lên 52,85% năm 2006.

(7)

Cục thống kê Trung Quốc

14


khối doanh nghiệp tư nhân đã vượt qua khối doanh nghiệp nhà nước để trở
thành động lực kinh tế chính của Trung Quốc. Mặc dù vậy, sau 3 thập kỷ cải
cách, chính phủ Trung Quốc vẫn cịn sở hữu 76% của cải của nước này, kiểm
soát khu vực ngân hàng, giám sát các công ty thuộc sở hữu nhà nước chiếm
1/3 nền kinh tế.
Đóng góp to nhất của thành phần kinh tế phi tập thể đối với kinh tế
Trung Quốc là duy trì sự cân bằng giữa cung và cầu. Trước khi cải cách mở
cửa, Trung Quốc phải gánh chịu sự thiếu hụt nghiêm trọng về hàng tiêu dùng
và dịch vụ. Người dân chỉ có thể mua được lương thực bằng tem phiếu do
chính phủ cấp. Sau năm 1978, khả năng cung cấp hàng tiêu dùng của Trung
Quốc tăng nhanh và có thể đáp ứng nhu cầu của người dân.
Năm 2007, sản lượng lương thực của Trung Quốc đạt 501,6 triệu tấn,
tăng 64,6% so với sản lượng lương thực của năm 1978, đến năm 2010 đã tăng
đến 550 triệu tấn. Giá trị gia tăng công nghiệp năm 2007 vượt mức 1.470 tỷ
USD, tăng 23 lần so với năm 1978. Từ 2005 đến 2010, tăng trưởng của giá trị
sản xuất công nghiệp tăng trên 11% trung bình mỗi năm, giá trị gia tăng sản
lượng công nghiệp năm 2010 đã tăng 15,7% đến 16 nghìn tỷ nhân dân tệ
( 2.43 nghìn tỷ USD) .

Năm 2007, Trung Quốc đứng đầu thế giới về sản lượng sản phẩm nông
nghiệp như ngũ cốc, thịt và bông. Các sản phẩm công nghiệp như thép, than

15


đá, xi măng và phân hóa học của Trung Quốc cũng đạt sản lượng hàng đầu thế
giới.
Đến năm 2010, sản lượng một số nông sản phẩm của Trung Quốc đang
đứng đầu thế giới là: Lương thực đứng vị trí số 1 (lúa gạo, lúa mỳ); ngô đứng
thứ 2: đậu tương đứng thứ 3; bơng, cây có dầu, các loại thịt, thức ăn gia cầm
và các loại thủy sản đều đứng ở top đầu thế giới. Trung Quốc chỉ sử dụng 7%
đất canh tác của thế giới nhưng đã nuôi sống 22% dân số thế giới(8) .Các sản
phẩm công nghiệp như thép, than đá, xi măng...vẫn giữ vị trí hàng đầu thế
giới.
3. Thành tựu trong các lĩnh vực
3.1 Nông nghiệp
Trong nông nghiệp, chế độ đại cơng xã bị xóa bỏ, ở nơng thơn Trung
Quốc đã thực hiện chế độ khốn trong sản xuất nơng nghiệp. Chế độ khốn là
hình thức cụ thể của việc tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất.
Do vậy, người nông dân đã phát huy được quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh. Chế độ khốn trong nơng nghiệp ở Trung Quốc bắt đầu từ năm 1979
và đã trải qua hai giai đoạn từ 1979 đến 1983 là giai đoạn hình thành các hình
thức khoán; từ 1984 trở đi là giai đoạn tiến tới hồn thiện chế độ khốn tới hộ.
Nhìn chung, tới năm 1984, 100% các đội sản xuất đã thực hiện chế độ

(8)

Kinh nghiệm Trung Quốc về phát triển nông nghiệp bền vững, website.vietnamica.net


16


khốn.Với việc để cho người nơng dân được tự chủ làm ăn và được hưởng
toàn bộ sản phẩm làm ra trên mảnh đất được phân phối sau khi nộp cho nhà
nước một số phần trăm thu hoạch, tính tích cực sản xuất hay là nói sức sản
xuất trong nơng nghiệp Trung Quốc đã được giải phóng mạnh mẽ. Thuế nơng
nghiệp đã được xố bỏ, con em nơng dân một số vùng sâu vùng xa được phát
sách giáo khoa, được miễn học phí, chính sách hộ khẩu với những nơng dân
vào thành phố làm thuê đã được nới lỏng... Chỉ trong một thời gian ngắn, với
diện tích canh tác chỉ chiếm 7% thế giới, nhưng Trung Quốc đã nuôi được
22% dân số thế giới. Cho đến nay có thể nói đây là bước cải cách mang tính
đột phá, là thành tựu lớn nhất trong cải cách nông nghiệp ở Trung Quốc.
Bên cạnh đó, Trung Quốc tiến hành sửa đổi chính sách đất đai ở nơng
thơn thích ứng với cơ chế thị trường. Mục tiêu chính sách đất đai nơng thơn là
tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa phát triển và sử dụng đất có hiệu quả.
Trung Quốc cịn xây dựng cơ chế ổn định thị trường nông sản phẩm, trợ
giá nông sản phẩm, thiết lập quỹ rủi ro, xây dựng hệ thống riêng và cơ chế
điều tiết xuất nhập khẩu cho nơng sản. Từ năm 1990, với chính sách tự do hóa
giá cả nên giá nơng phẩm trên thị trường về cơ bản do quan hệ cung cầu điều
tiết.

17


Ngồi ra, nhà nước cịn thi hành chính sách mở rộng tín dụng nơng thơn.
Năm 1985, hệ thống hợp tác xã tín dụng nơng thơn đã có mạng lưới rộng lớn
gồm 406.518 đơn vị cơ sở.
Nhờ nhiều chính sách tiến bộ, thiết thực, nông nghiệp Trung Quốc hơn
30 năm qua phát triển nhanh chóng và tương đối ổn định. Năm 1978, sản

lượng lương thực là 304,7 triệu tấn, năm 1987 là 402 triệu tấn, năm 1997 là
494,1 triệu tấn, đến năm 2009 là 530,8 triệu tấn, và năm 2010 đạt gần 550
triệu tấn. Năm 1980, tổng giá trị sản lượng của nông nghiệp (bao gồm cả
nông, lâm ngư nghiệp và chăn nuôi) mới đạt 192,26 tỷ NDT, đến năm 1996
đạt 2.342,6 tỷ NDT (9)
Với sự phát triển của nông thôn Trung Quốc, hàng trăm triệu nông dân
đã chuyển từ trạng thái kinh tế tự cấp tự túc sang kinh tế hàng hóa. Nơng
nghiệp Trung Quốc phát triển tương đối ổn định đã tạo điều kiện cho sự phát
triển của nền kinh tế. Nguồn nguyên liệu nông nghiệp cung cấp cho cơng
nghiệp tăng lên góp phần tăng thêm nguồn hàng xuất khẩu.
3.2 Công nghiệp
Trải qua hơn 30 năm cải cách mở cửa, Trung Quốc đã là một cường quốc
thương mại và sản xuất khổng lồ, xây dựng được một nền công nghiệp hồn
chỉnh với 39 chun ngành, trong đó sản lượng của 210 loại sản phẩm công

(9)

Cục Thống kê Trung Quốc

18


nghiệp đứng đầu thế giới. Cải tạo kỹ thuật là một động lực thúc đẩy quan
trọng. Trung Quốc đã khắc phụ được những hậu quả căn bệnh duy ý đầy tai
hại của “Đại nhảy vọt”, “Cách mạng văn hóa”, phát triển ổn định nhờ sự cai
trị thực dụng.
Giai đoạn đầu sau cải cách, Trung Quốc đã giảm bớt quy mô và tốc độ
phát triển của công nghiệp nặng và tăng quy mô và tốc độ phát triển của công
nghiệp nhẹ. Việc phát triển cơ cấu ngành nghề được gắn với việc khai thác lợi
thế so sánh trong trật tự phân công lao động quốc tế. Từ đầu thập niên 90, đầu

tư trong công nghiệp bắt đầu chú trọng vào một số ngành sử dụng nhiều vốn
(cơng nghiệp nặng, hóa chất...) và một số ngành sử dụng ký thuật cao (viễn
thông, điện tử, máy tính...)
Trung Quốc cũng chú trọng đầu từ vào thiết bị công nghệ. Sau cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới bùng nổ, các doanh nghiệp Trung Quốc
càng coi trọng việc cải tạo kỹ thuật. Ngân sách trung ương đã cấp 20 tỷ NDT
cải tạo kỹ thuật, chủ yếu dùng cho công nghệ mới, thiết bị mới, kỹ thuật mới
và vật liệu mới. Hiện nay, trong việc đối phó khủng hoảng tài chính, Trung
Quốc đang xem xét việc dùng cơng nghệ thơng tin để nâng cấp trình độ cơng
nghiệp hóa.
Một hiện tượng nổi bật trong sự phát triển công nghiệp Trung Quốc là sự
phát triển của công nghiệp hương trấn trong thập kỉ 80, đầu thập kỉ 90. Xí

19


nghiệp hương trấn là tên chung chỉ loại hình doanh nghiệp tập thể do chính
quyền hoặc tập thể nơng dân ở các hương và trấn ở Trung Quốc thành lập từ
sau cải cách 1978. Các xí nghiệp hương trấn góp phần thúc đẩy q trình
cơng nghiệp hóa và chuyển dịnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và việc làm ở
nơng thơn. Trong giai đoạn này, xí nghiệp hương trấn không chỉ tăng nhanh
về số lượng và mở rộng loại hình sở hữu mà phạm vi của nó cũng được mở
rộng bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau: gia cơng cơ khí, vật liệu xây
dựng, chế biến thực phẩm...Năm 1987, các loại hình xí nghiệp ở Trung Quốc
thu hút 88 triệu lao động và tạo ra giá trị sản lượng 476,4 tỷ NDT. Đến 1992,
các xí nghiệp hương trấn sản xuất ra 1/3 tổng giá trị sản lượng công nghiệp
toàn quốc và thu hút 105 triệu lao động. Đến năm 1996, các xí nghiệp hương
trấn đã thu hút 130 triệu lao động, giá trị tạo ra đạt khoảng 1.700 tỷ NDT,
chiếm 20% giá trị tổng sản phẩm trong nước. Đến năm 1997, Trung Quốc có
luật về xí nghiệp hương trấn, và khu vực này có sự chuyển biến. Nhiều xí

nghiệp hương trấn đã chuyển đổi thành các doanh nghiệp tư nhân hoặc các
doanh nghiệp cổ phần.
Nhìn chung, nền cơng nghiệp Trung Quốc từ sau khi cải cách mở cửa đã
tăng trưởng nhanh chóng, tốc độ cơng nghiệp hóa nhanh, quy mô ngày càng
mở rộng, tổng sản lượng tăng không ngừng, giá trị sản phẩm công nghiệp
năm 1997 tăng 14 lần so với năm 1978, bình quân mỗi năm tăng 14,9%. Tính
riêng trong năm 2010, tổng sản lượng cơng nghiệp Trung Quốc đã lên đến

20


16.000 tỷ NDT, tăng 15,7% so với năm trước đó, tăng mạnh từ 7.720 tỷ NDT
năm 2005. Sự phát triển của công nghiệp Trung Quốc luôn cao hơn các ngành
khác và thúc đẩy cơng nghiệp hóa của Trung Quốc tiến lên giai đoạn mới.
3.3 Kinh tế đối ngoại
3.3.1 Ngoại thương
Kể từ khi cải cách mở cửa, mức độ tham gia vào tồn cầu hóa kinh tế của
Trung Quốc được nâng cao, vị thế trong kinh tế thế giới của Trung Quốc đang
được tăng cường, mức độ phụ thuộc vào ngoại thương (tỷ trọng xuất nhập
khẩu chiếm trong GDP của Trung Quốc) ngày càng tăng, đã đưa mức xuất
nhập khẩu của Trung Quốc đứng ở vị trí cao trong các quốc gia khu vực Đông
Nam Á. Năm 1978, tổng mức ngoại thương của Trung Quốc mới chỉ là 9,8%,
trong đó xuất khẩu là 4,6%, nhập khẩu là 5,2%. Song đến năm 1997, ngoại
thương của Trung Quốc đã đạt tới 325,1 tỷ USD đứng hàng thứ 10 của thế
giới, mức độ phụ thuộc vào ngoại thương đã tăng tới 36% trong đó xuất khẩu
là 20,2%, nhập khẩu là 15,8%.
Năm 1970, tổng trị giá ngoại thương là 4,6 tỷ USD, đến năm 1979 đã
tăng lên tới 29,4 tỷ USD và tiếp tục tăng tới 53,6 tỉ USD vào năm 1984. Năm
1981, xuất khẩu đã tăng tới 22 tỷ USD, làm cho Trung Quốc lần đầu tiên có tỉ
trọng xuất khẩu trên 1% trong tổng xuất khẩu của thế giới. Năm 1984, Trung

Quốc đứng hàng thứ 18 trong các nước xuất khẩu của thế giới. Do tăng nhập
21


khẩu nguyên liệu cần thiết, thiết bị tiên tiến, thiết bị toàn bộ và một số hàng
tiêu dùng nhất định nên trị giá nhập khẩu năm 1984 đạt 27,41 tỷ USD. Sự
phát triển nhanh chóng của ngoại thương là một yếu tố quan trọng hỗ trợ cho
sự phát triển nhanh, ổn định và lành mạnh của nền kinh tế đất nước. Đầu
những năm 1980, Trung Quốc bắt đầu xuất khẩu công nghệ và đến đầu những
năm 1990, xuất khẩu đã phát triển tương đối nhanh. Các công nghệ được xuất
khẩu bao gồm máy móc, năng lượng, vật liệu xây dựng, cơng nghiệp nhẹ,
đóng tầu, hàng khơng và điện tử. Trong cùng thời kì, tổng trị giá xuất khẩu và
nhập khẩu theo phương thức hàng đổi hàng tăng lên tới 2,91 tỷ USD và năm
1995 là năm cuối cùng nhập khẩu theo phương thức hàng đổi hàng được giảm
thuế 50%. Từ năm 1996 cho đến nay, ngoại thương Trung Quốc không ngừng
phát triển, năm 2000 đạt 474,3 tỷ USD, xuất khẩu xếp hàng thứ 7 và nhập
khẩu hàng thứ 8 thế giới, đến năm 2010, giá trị ngoại thương đã đạt 2.970 tỷ
USD, tăng 34,7% so với năm 2009.
Bên cạnh việc mở rộng không ngừng kim ngạch xuất - nhập khẩu thì cơ
cấu hàng xuất - nhập khẩu của Trung Quốc cũng ngày càng được cải thiện
đáng kể. Trước đây, Trung Quốc chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm sơ chế như
thực phẩm, súc vật sống, nguyên liệu thô và dầu mỏ; tỉ trọng các hàng công
nghiệp trong cơ cấu xuất khẩu chiếm một lượng nhỏ. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển của nhu cầu thị trường thế giới thì các sản phẩm trên khơng cịn phù
hợp nữa. Chính vì vậy, Trung Quốc đã chuyển sang xuất khẩu các sản phẩm

22


gia công, tỉ lệ các mặt hàng này khá cao, khoảng 74% năm 1998 nhờ tận dụng

nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ nên các sản phẩm này có sức cạnh
tranh cao trên thị trường thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Trung
Quốc hiện nay là hàng dệt, điện máy, hoá chất, quần áo, thực phẩm, nước giải
khát, máy móc khơng dùng điện... Về nhập khẩu, do yêu cầu phát triển đất
nước nên trong những năm đầu của cải cách, Trung Quốc chủ yếu nhập những
sản phẩm cơng nghệ cao, tiên tiến để góp phần đổi mới các cơ sở sản xuất lạc
hậu và nhờ vậy đã sản xuất được một lượng hàng có giá trị xuất khẩu cao.
Những năm về sau, do thực hiện ý đồ phát triển theo hướng coi "khoa học kĩ
thuật là sức mạnh sản xuất thứ nhất" nên hoạt động này càng trở nên sôi động.
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Trung Quốc hiện nay là máy móc, sản
phẩm điện tử, thiết bị điện, thiết bị nghe nhìn, phụ kiện... Trung Quốc cũng đã
mở rộng quan hệ giao lưu buôn bán với hầu hết các nước trong khu vực và
trên thế giới, các sản phẩm của Trung Quốc ngày càng phong phú hơn trên
các thị trường. Các đối tác thương mại chủ yếu của Trung Quốc hiện nay là
Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Mỹ, ASEAN...
3.3.2 Đầu tư nước ngồi
Một trong những nhân tố chính trong q trình tăng trưởng nhanh về
thương mại của Trung Quốc là sự hiện diện rất lớn của các doanh nghiệp có
đầu tư nước ngoài phục vụ các thị trường xuất khẩu. Một số lượng lớn các
công ty hoạt động trong lĩnh vực lắp ráp và chế biến sử dụng hàng hóa bán
23


thành phẩm nhập khẩu và nguyên liệu thô để sản xuất hàng xuất khẩu. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài bắt đầu tăng mạnh sau năm 2001. Nếu như trước năm
1992, Trung Quốc hầu như phải mượn tiền của nước ngoài, đặc biệt là thông
qua các khoản vay. Năm 1992, lần đầu tiên lượng tiền đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào Trung Quốc vượt số tiền vay nước ngoài. Kể từ đó, FDI trở
thành kênh quan trọng nhất để Trung Quốc thu hút tư bản nước ngoài. Trung
Quốc đã thu hút 853 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) từ năm

1979-2008, đưa nước này lên vị trí hàng đầu trong số các nước đang phát
triển về thu hút FDI. FDI hàng năm của Trung Quốc tăng từ 40,7 tỷ USD năm
2000 lên 92,4 tỷ USD năm 2008, trong khi con số này trong năm 1979 chỉ là
80.000 USD. Và đến năm 2010, FDI của Trung Quốc đã tăng 17,4% so với
năm 2009 lên 105,7 tỷ USD. (10)Trong hai tháng đầu năm 2011, thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc tăng 27,1% đạt 17,8 tỷ USD. Theo tính
tốn, Trung Quốc đã thu hút được tổng cộng trên 1.000 tỷ đô la Mỹ vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài FDI, trong giai đoạn hơn 3 thập kỷ từ năm 1979 đến
năm 2010(11)
Song song với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Trung Quốc đã đẩy
mạnh xây dựng các Xí nghiệp có vốn đầu tư của nước ngồi. Thời gian qua,
những Xí nghiệp đầu tư của nước ngồi đang tăng lên nhanh chóng và phát
triển mạnh mẽ, đem lại nhiều hiệu quả to lớn làm tăng nguồn thu tài chính

(10)
(11)

Cục thống kê Trung Quốc
Số liệu của Bộ Thương mại Trung Quốc

24


cho Trung Quốc. Chỉ riêng trong ngành công nghiệp, năm 1983, giá trị sản
lượng của các Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm tỷ trọng trong
GDP của Trung Quốc là 0,3, năm 1990 đã tăng lên 6,3, năm 1997 đạt tới mức
20,8%. Xét về tỷ trọng thu nhập tiêu thu sản phẩm của các Xí nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài chiếm trong tỷ trong tiêu thụ sản phẩm của tồn bộ ngành
cơng nghiệp Trung Quốc năm 1990 chỉ là 2% song đến năm 1997 đã đạt tới
20,5%. Có thể nói lợi ích mà Trung Quốc thu được nhờ tồn cầu hóa kinh tế

là vơ cùng lớn.
Bên cạnh đó, việc đầu tư ra nước ngồi của các doanh nghiệp được
Chính phủ Trung Quốc đặc biệt khuyến khích và hỗ trợ nhằm tạo các kênh
xuất khẩu vật tư và thiết bị. Hoạt động này giúp các doanh nghiệp xâm nhập
vào môi trường kinh doanh quốc tế và là điều kiện cần thiết cho phát triển và
hội nhập. Tính đến năm 1998, có 5.600 doanh nghiệp Trung Quốc đã đầu tư
ra nước ngoài với tống số vốn trên 6 tỷ USD, trong hoạt động 80% số dự án
đầu tư có lãi. Theo số liệu của bộ thương mại Trung Quốc, đầu tư ra nước
ngoài của nước này trong năm 2009 đạt 43,3 tỷ USD, đứng thứ 5 thế giới
trong lĩnh vực này, đến năm 2010 đã vượt 50 tỷ USD do tăng cường đầu tư
vào các lĩnh vực năng lượng, khai khống, nơng nghiệp.
Đây là số đầu tư trực tiếp phi tài chính, khơng bao gồm đầu tư của các
ngân hàng, cơng ty bảo hiểm và chứng khốn. Dự kiến năm 2011 đầu tư ra
nước ngoài của Trung Quốc sẽ tăng khoảng 10% so với năm 2010.
25


×