Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

“BÂY GIỜ HỌC THUYẾT NHIỀU, CHỦ NGHĨA NHIỀU, NHƯNG CHỦ NGHĨA CHÂN CHÍNH NHẤT, CHẮC CHẮN NHẤT, CÁCH MẠNG NHẤT LÀ CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.12 KB, 19 trang )

ĐỀ: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH: “BÂY GIỜ HỌC
THUYẾT NHIỀU, CHỦ NGHĨA NHIỀU, NHƯNG CHỦ NGHĨA CHÂN CHÍNH
NHẤT, CHẮC CHẮN NHẤT, CÁCH MẠNG NHẤT LÀ CHỦ NGHĨA MÁC
LÊNIN”
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng muốn
cách mạng thành công, phải đi theo và chủ nghĩa Mác Lênin. Đối với người, chủ nghĩa
Mác –Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để giải quyết những vấn
đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ rời xa xhủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thới kiên
quyết chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại. Chính vì vậy, trong tác phẩm
“Đường Cách mệnh” (1927), Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất
là chủ nghĩa Lê-nin”

Phần 1: Phân tích “Bây giờ học thuyết nhiều chủ nghĩa nhiều”
1. Khuynh hướng dân chủ tư sản
1.1.Hoàn cảnh ra đời của khuynh hướng dân chủ tư sản
Cuối thế kỷ XIX, phong trào Cần Vương chống Pháp thất bại. Toàn bộ đất nước ta
bị đặt dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Chúng bắt đầu thực hiện kế hoạch “khai
thác thuộc địa”. Xã hội phong kiến Việt Nam đình trệ từ lâu, nay đã bị phá vỡ, chuyển
thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Quá trình chuyển biến này đã tạo ra một
giai đoạn giao thời kéo dài trong khoảng vài chục năm đầu thế kỷ XX.
Nhà nước “bảo hộ” thi hành nhiều chính sách thực dân nhằm biến nước ta thành một
thị trường tiêu thụ hàng hoá và bóc lột nhân công để thu về lợi nhuận cao nhất tư bản
Pháp, đồng thời vẫn kìm hãm xã hội Việt Nam trong tình trạng tối tăm của một nước
nông nghiệp lạc hậu để dễ bề thống trị.
Tuy vậy, cùng với chế độ thuộc địa nửa phong kiến ra đời và thay thế chế độ phong
kiến vốn đã tàn lụi, xã hội Việt Nam cũng có những chuyển biến nhất định. Sự thay đổi
này không chỉ do hoàn cảnh lịch sử trong nước mà còn do ảnh hưởng tác động của trào
lưu
cách
mạng


trên
thế
giới.
Ở châu Á vào đầu thế kỷ XX, sau khi Minh Trị Thiên Hoàng cải cách duy tân, Nhật
Bản trở thành một nước tư bản chủ nghĩa tương đối phát triển về mọi mặt. Đặc biệt,
thắng lợi của Nhật trong cuộc chiến tranh với Nga năm 1904-1905 càng làm cho thanh
thế Nhật càng vang dội, và Nhật Bản được xem như là một tấm gương đáng học tập.


Còn ở Trung Quốc, cuối thế kỷ XIX, Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu tổ chức Cường
học hội, chủ trương duy tân. Trong quá trình ấy, ở Trung Quốc xuất hiện nhiều tân thư,
trong đó có một số sách dịch các tác phẩm của các nhà tư tưởng dân chủ tư sản và được
đưa vào nước ta làm ảnh hưởng đến tư tưởng các sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ.
1.2. Một số đặc điểm của phong trào
 Lãnh đạo: Khuynh hướng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX dưới sự lãnh đạo của
văn thân, sĩ phu tư sản hóa. Đây là lớp người mang tính quá độ từ hệ tư tưởng phong
kiến sang hệ tư tưởng tư sản bởi họ là những sĩ phu phong kiến chịu ảnh hưởng của tư
tưởng dân chủ tư sản bên ngoài. Họ đã mất niềm tin vào chế độ phong kiến, cho phong
kiến là sâu mọt, là kẻ đục khoét dân, là thủ phạm cho đất nước suy yếu, mất độc lập. Họ
bắt đầu ý thức về ‘dân chủ” “dân quyền”, khái niệm dân và nước gắn liền với nhau.
 Mục tiêu đấu tranh: Không chỉ đánh Pháp giải phóng dân tộc mà phải gắn liền
với Duy Tân và thay đổi chế độ xã hội.
 Lực lượng tham gia: Không chỉ có nông dân mà có đông đảo các tầng lớp khác (
công nhân, tiểu tư sản, địa chủ, phú nông)
 Hình thức đấu tranh: Không chỉ hạn chế trong khởi nghĩa vũ trang mà phải kết
hợp nhiều biện pháp như đoàn kết dân tộc, tiến hành phong trào cải cách sâu rộng, mà
điều cốt yếu là phải nâng cao dân trí, chấn hưng dân trí, làm cho người dân hiểu được
quyền của mình.
 Quy mô: Rộng khắp, không chỉ trong nước mà còn lan rộng ra cả các nước khác
1.3.Phong trào tiêu biểu đứng đầu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh

1.3.1. Phan Bội Châu và Phong trào Đông Du
Đông Du là một phong trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phong trào có mục
đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn bị lực lượng
chờ thời cơ cho việc giành lại độc lập cho Việt Nam. Lực lượng nòng cốt cổ động và thực
hiện phong trào là Duy Tân hội và Phan Bội Châu. Cuộc vận động cứu nước của phong
trào Duy Tân hội đã tạo nên một không khí cách mạng sôi nổi trên phạm vi cả nước.
Chủ trương “Nợ máu chỉ có thể trả bằng máu”, kiên trì chủ trương dùng bạo
lực giành độc lập; “Đánh đuổi giặc Pháp,khôi phục nước Việt Nam, lập nước cộng
hòa Dân quốc Việt Nam”
Biện pháp: Tổ chức phong trào Đông Du, đưa học sinh sang Nhật, chuẩn bị cho
công tác đánh Pháp cứu nước; bạo động, ám sát


Nhưng rốt cuộc con đường cứu nước của ông là thất bại. Nguyên nhân do đâu?(
chứng minh không chân chính)
Thứ nhất, ngay từ đầu ông đã sai lầm về mặt tư tưởng. Việc xác định kháng Pháp
bằng cách dựa vào Nhật của ông là điểm sai trọng yếu. Vì bản chất đế quốc mà Nhật sẽ
bất chấp tất cả, bất chấp cả thứ tinh thần châu Á mà ông tin Nhật sẽ tôn trọng. Rốt cuộc,
cái mà đế quốc Nhật muốn lúc đó là vấn đề bành trướng lãnh thổ hơn là tình bang giao
với các nước lân bang. Kết quả là, để có viện phí chi trả trong cuộc chiến Nga Nhật, Nhật
đã phải vay từ Pháp và chấp nhận yêu cầu tôn trọng các nước thuộc địa của Pháp mà
Pháp đưa ra. Từ đó, họ tiến hành trục xuất các thanh niên trong phong trào Đông Du về
nước, không chấp nhận thỉnh cầu giúp đỡ từ phía Phan Bội Châu. Những điều này đã
được các chí sĩ đương thời như Lương Khải Siêu, Phan Châu Trinh nhìn thấu, nhưng
Phan Bội Châu lại bị ánh hào quang của chiến thắng 1905 của Nhật Bản làm lu mờ.
Sai lầm thứ hai trong con đường cứu nước của Phan Bội Châu đó là việc chủ
trương cứu nước bằng con đường bạo động. Tình cảnh bấy giờ ở nước ta sau cuộc khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào chỗ mê muội, nghèo nàn, dốt
nát. Nếu như chỉ độc một con đường bạo động vũ trang mà hy vọng có thể cứu nước là
hoàn toàn sai lầm. Bởi chính việc thu phục nhân tâm, công cuộc “khai dân trí”, chấn

hưng đất nước mà Phan Châu Trinh từng nói đến mới là điều cần làm trước. Chỉ khi nào
tập hợp được một lực lượng to lớn là toàn thể nhân dân, trên dưới đồng lòng thì lúc đó,
làm cách mạng bằng con đường bạo động vũ trang mới nên tiến hành. Còn nếu chỉ bạo
động xảy ra lẻ tẻ ở một vài nơi, với sự ít ỏi về số lượng sẽ nhanh chóng bị dập tắt. Mà
tiêu biểu là sự đàn áp của thực dân Pháp lên những người làm hoạt động ám sát trong
hoạt động của Việt Nam Quang Phục Hội.
Sai lầm thứ ba của Phan Bội Châu đó là việc chủ trương cứu nước bằng con
đường dân chủ tư sản từ đó thiết lập nền cộng hòa. Vì thời điểm đó, cuộc khai thác
thuộc địa của thực dân pháp đã dần tạo ra sự chuyển biến giai cấp. Đông đảo trong xã hội
bấy giờ là giai cấp nông dân và công nhân. Trong khi cuộc cách mạng này lại đem lại
quyền lợi cho giai cấp tư sản. Về cơ bản, nó chỉ tiếp tục thay thế sự bóc lột từ giai cấp
phong kiến qua giai cấp tư sản. Tinh thần dân chủ là điểm tiến bộ lớn nhất trong con
đường này.
Con đường cứu nước của Phan Bội Châu rốt cuộc thất bại là vì những lý do cơ
bản trên. Điểm tiến bộ là ông đã nhìn ra sự lạc hậu và bảo thủ của chế độ phong kiến,
việc cần thiết phải có một chế độ mới mà ở đó quyền của nhân dân được đảm bảo. Ông
cũng để lại cho thế hệ đi sau bài học kinh nghiệm để cứu nước theo một con đường khác
phù hợp hơn
1.3.2. Con đường cách mạng của Phan Châu Trinh
Phan Châu Trinh(1872-1926) là người hoạt động theo xu hướng cải lương, kêu gọi
dân quyền và dân khí. Mặc dù rất đau xót trước cảnh người Pháp ngược đãi người Việt
Nam, quan điểm của Phan Châu Trinh trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục chủ
quyền quốc gia, độc lập dân tộc, mà nhiệm vụ cấp bách là phải: Khai dân trí: bỏ lối học


tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ cùng kiến thức khoa học thực dụng,
bài trừ hủ tục xa hoa. Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, mọi người giác
ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế. Hậu dân sinh: phát
triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa.
Chủ trương: Đấu tranh ôn hòa, công khai, dựa vào Pháp để đánh đổ vua quan

phong kiến hủ bại, xem đó là điều kiện tiên quyết để giành độc lập; kêu gọi dân
quyền, dân sinh, dân khí
Biên pháp: Cổ động thực nghiệp, lập hội kinh doanh; mở trường theo lối mới để
nâng cao dân trí; vận dộng đổi mới “phong hóa”, cải cách lối sống, bài trừ mê tín dị
đoan
(Phân tích không chân chính)
Sự thực, chủ nghĩa cải lương của Phan Châu Trinh là một hiện tượng nổi bật trong xã
hội Việt nam vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Nó chứng tỏ Phan Châu Trinh rất
quan tâm đến sự tiến bộ và tương lai của nước nhà. Ông muốn cải tạo xã hội Việt Nam
lúc đương thời theo con đường cải lương, nghĩa là dựa vào chính phủ Bảo hộ và nước Đại
Pháp văn minh để tiến hành cải cách nhằm đưa xã hội Việt Nam tiến lên phía trước.
Nhưng chủ trương dựa vào Pháp để thực hành cải lương của ông đã thể hiện một sự
nhận thức không đúng về chủ nghĩa tư bản đế quốc và nền văn minh tư bản chủ
nghĩa. Ông không lý giải được tại sao các nước tư bản tiên tiến gắn với nền dân chủ tự
do và văn minh tư bản chủ nghĩa như nước Pháp lại có thể câu kết với những thế lực
phong kiến lỗi thời và phản động để nô dịch và áp bức nhân dân thuộc địa. Vì thế chủ
trương dựa vào Pháp để thực hành cải lương chỉ là ảo tưởng và không thể nào đạt được
mục đích.
Các sĩ phu yêu nước ở Việt nam hồi đầu thế kỷ XX không thể vượt khỏi giới hạn
của lịch sử, nghĩa là các ông đang vươn tới ý thưc hệ tư sản và chưa vượt khỏi ranh giới
của ý thức hệ. Vì thế các ông không thể giải thích được chủ nghĩa tư bản đế quốc một
cách khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và không thể có được một quan
điểm cách mạng triệt để của giai cấp vô sản
1.3.3.Tổng kết:
Nguyên nhân chung:
 Giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam non yếu về kinh tế, què quặt về chính trị
 Khuynh hướng chính trị theo con đường dân chủ tư sản dân tộc Việt Nam không
đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta



 Tổ chức non kém, không đủ sức để chống đỡ trước mọi thủ đoạn khủng bố của kẻ
thù để tồn tại và phát triển
 Chỉ hô hào cổ động, không quan tâm đến quần chúng, không chủ động xây dựng
lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang
Sự thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản bắt nguồn từ
nguyên nhân sâu xa từ cơ sở kinh tế, giai cấp xã hội Việt Nam sau Chiến tranh Thế giới
thứ nhất.
Bác Hồ từng nhận xét về đường lối cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh như sau: Phan Bội Châu dựa vào Nhật đánh Pháp chẳng khác nào "đuổi hổ
cửa trước rước beo cửa sau", Phan Châu Trinh đề nghị Pháp cải cách thì khác nào
"xin giặc rủ lòng thương"?
Sự thất bại nói lên: Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản
là không thành công, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản!
2. Khuynh hướng phong kiến
2.1.Hoàn cảnh ra đời của khuynh hướng phong kiến
Thời gian: cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX
- Bản chất:
Đấu tranh chống ngoại xâm - thực dân Pháp, khôi phục lại chế độ phong kiến.
- Hoàn cảnh lịch sử:
 Nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp.
 Thực dân Pháp bắt tay vào quá trình tổ chức bộ máy cai trị.
- Mục tiêu
Đấu tranh chống Pháp, khôi phục lại chế độ phong kiến, giành lại hòa bình cho nhân
dân.
- Lãnh đạo
Văn thân, sĩ phu yêu nước hưởng ứng Chiếu Cần Vương hoặc những nông dân yêu
nước.
- Lực lượng
Đông đảo: sĩ phu, trí thức phong kiến yêu nước, binh lính,… nhất là nông dân.

- Hình thức đấu tranh:
Khởi nghĩa vũ trang
- Quy mô:
Chủ yếu là Bắc, Trung Kì.
2.2. Phong trào tiêu biểu


2.2.1.Phong trào Cần Vương (Hương Khê, Bãi Sậy, Ba Đình):
Là hệ thống các cuộc khởi nghĩa hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi,
diễn
ra
từ
năm
18851896.

Khởi
Khởi
Khởi

Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của phong trào Cần Vương:
nghĩa Hương Khê (1885- 1896) do Cao Thắng, Phan Đình Phùng lãnh đạo;
nghĩa Ba Đình (1886- 1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo;
nghĩa Bãi Sậy (1883- 1892) do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo;....

 Cần Vương nghĩa là Phò vua giúp nước. Nội dung chiếu Cần Vương tập trung tố
cáo âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, lên án chế độ phong kiến do triều
đình Pháp lập lên, tố cáo sự phản bội của một số quan lại, đồng thời kêu gọi sĩ phu, văn
thân và nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến giúp vua bảo vệ quê hương đất nước. Từ
đó khôi phục nền độc lập, khôi phục chế độ phong kiến có vua đứng đầu là người tài giỏi.
=> ĐÁNH GIÁ: Phong trào này vẫn mang tư tưởng phong kiến, vì dù mục đích của

phong trào là đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại yên bình cho nhân dân, nhưng suy cho
cùng, các cuộc khởi nghĩa vẫn nhằm khôi phục lại chế độ phong kiến, ở đó, vua đứng
đầu, có toàn quyền quyết định đối với vận mệnh đất nước.

2.2.2.
Khởi
nghĩa
nông
dân
Yên
Thế
Khái
quát:
Khởi nghĩa Yên Thế là một cuộc đối đầu vũ trang giữa những người nông dân ly
tán tại vùng Yên Thế Thượng và sau đó là Thái Nguyên, đứng đầu là Hoàng Hoa Thám,
với quân Pháp, khi Pháp vừa kết thúc chiến tranh với Trung Quốc và bắt đầu kiểm soát
toàn bộ vùng Bắc kỳ những năm cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.
Nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa:
+ Do nhu cầu tự vệ của nông dân lưu tán cư trú ở đây, nhằm giữ vững vùng đất này
như là một vùng đất ngoài pháp luật, không chịu sự kiểm soát của bất kỳ chính quyền
nào.
+ Sự yêu nước và chống ngoại bang Pháp của nghĩa quân Yên Thế.
Diễn
biến:
Khởi nghĩa do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài suốt hơn 30 năm, bước đầu đã
giải quyết được vấn đề ruộng đất cho nhân dân, tuy nhiên, phong trào vẫn thất bại do
những khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo.


=> ĐÁNH GIÁ: Cuộc khởi nghĩa mang tính tự phát, mới chỉ hướng đến mục đích

giải quyết các vấn đề ruộng đất cho người nông dân, vẫn chưa có khuynh hướng xóa bỏ
chế độ phong kiến.
2.3.
Nguyên
nhân
thất
bại
Các cuộc khởi nghĩa thời kì này đều thất bại vì đường lối, tư tưởng lãnh đạo, vì chưa hòa
hợp được sức mạnh toàn dân tộc, các cuộc khởi nghĩa diễn ra lẻ tẻ, chưa liên kết rộng
khắp toàn quốc.
Phong trào Cần Vương:
- Về đường lối, tư tưởng lãnh đạo:
 Thiếu sự quy tụ và đường lối lãnh đạo: phong trào Cần Vương vẫn chưa hội tụ và
tập hợp thành một khối thống nhất, chưa có phương hướng hoạt động và đường lối chiến
lược rõ ràng. Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương diễn ra tự phát, lẻ tẻ,
không có sự liên kết.
 Khuynh hướng phong kiến đã lỗi thời, không phù hợp với thời đại.
 Chưa khai thác triệt để sức mạnh toàn dân tộc. Vẫn xảy ra những mâu thuẫn sắc
tộc, tôn giáo:
 Mâu thuẫn sắc tộc: Chính sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu
số được quyền tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Chính
người Thượng đã bắt Hàm Nghi, các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt
đường liên lạc của quân Cần Vương với Trung Hoa làm cạn nguồn khí giới của họ. Quen
thuộc rừng núi, họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.
 Xung đột tôn giáo: với Công giáo, tàn sát vô cớ khiến các giáo dân phải thông
đồng với thực dân Pháp;
- Nguyên nhân khác:
 Chênh lệch lực lượng, vũ khí,...
Khởi nghĩa Yên Thế:
- Về đường lối, tư tưởng lãnh đạo:

 Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa chỉ là để giữ một vùng đất nhỏ độc lập với chính
quyền của Pháp, chỉ phù hợp với nông dân lưu tán cư trú ở Yên Thế, mà không cuốn hút
được các thành phần xã hội khác ở Việt Nam lúc đó.
 Giai cấp lãnh đạo là nông dân, chưa có đường lối đúng đắn, chưa có hệ tư tưởng
lãnh đạo: Tư tưởng lãnh đạo của Đề Thám (chủ hòa) không hợp với nhiều nghĩa quân
(chủ chiến).
 Phong trào nông dân Yên Thế phản ánh sự bế tắc của phong trào yêu nước của VN
những năm cuối thế kỉ XIX - đầu XX, đất nước lúc này rơi vào sự khủng hoảng về đường
lối

giai
cấp
lãnh
đạo.
- Nguyên nhân khác:
 Nghĩa quân Yên Thế chưa lấy được lòng dân do đôi khi nghĩa quân vẫn cướp bóc,
sách nhiễu dân chúng.


Là phong trào mang tính tự phát, nhiều lúc còn bị động, thiếu cộng tác với các phong
trào chống Pháp khác tại Việt Nam lúc đó.
2.4.Đánh giá chung
Các cuộc khởi nghĩa trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, với khuynh
hướng phong kiến, đều rơi vào những bế tắc và thất bại. Điều này chứng tỏ sự bất lực của
khuynh hướng lãnh đạo phong kiến, nó không còn phù hợp với tình hình đất nước nữa.
Điều này đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải tìm được 1 hướng đi mới, đúng đắn hơn, cải cách
hơn để giúp dân tộc thoát khỏi ách nô lệ.


Phần 2: Chủ nghĩa Mác Lênin là chân chính nhất

Chủ nghĩa Mac-Lênin là chân chính nhất vì Chủ nghĩa Mác-Lênin giải phóng giai
cấp, giải phóng con người.
I- Khái lược chủ nghĩa Mác-Lênin.
- C.Mac, Angghen và sự phát triển của Lênin, được hình thành và phát triển trên cơ
sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại, là thế giới quan,
phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiên cách mạng
- Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu, chỉ rõ
con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp
bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột, thoát khỏi đói nghèo và tha
hoá về nhiều mặt.
- Đồng thời, học thuyết đó chỉ ra lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải
phóng và phát triển xã hội là giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem lại cho họ
niềm tin vào khả năng và sức mạnh của chính mình.
II- Cơ sở lý luận
1. Chủ nghĩa Mac
- Giải phóng con người tiến tới xã hội chủ nghĩa:
+ ”Bản thảo kinh tế- chính trị 1844” của C.Mac chỉ rõ trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa lao động của con người bị tha hóa. Người công nhân bị chế độ tư hữu bóc lột nặng
nề , bị coi rẻ. Đó là nỗi đau của con người trong xã hội có giai cấp.
→ Mục tiêu: Giải phóng giai cấp, giải phóng con người bằng việc xóa bỏ giai cấp,
xóa bỏ chế độ tư hữu.
- Trong tác phẩm “Chống Duyring chỉ rõ :”... Phương thức sản xuất tư bản tạo ra một
lực lượng buộc phải hoàn thành cuộc cách mạng ấy, nếu không thì sẽ bị diệt vong” và “
Thực hiện sự nghiệp giải phóng ấy, đó là sứ mệnh của giai cấp vô sản hiện đại”
→ Phải hiện ra sứ mệnh của giai cấp công nhân.
- Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”-1848 của C.Mac và Anghen:
+ Xem con người là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp giải phóng.
+ Chỉ rõ lực lượng, điều kiện và phương thức đấu tranh nhằm giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc thoát khỏi mọi áp bức bóc lột và nô dịch
đưa con người đến cuộc sống ấm no hạnh phúc, phát triển toàn diện.

+ Đảng Cộng sản là bộ phận không thể tách rời của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động để hoàn thành sứ mệnh lịch sử thủ tiêu TBCN, xây dựng xã hội chủ nghĩa tiến tới
cộng sản chủ nghĩa.
- Cách mạng dân tộc là bộ phận cách mạng vô sản:


+ Giải quyết các vấn đề dân tộc phải gắn liền với cách mạng vô sản và trên cơ sở
của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, vì lợi ích cơ bản, lâu dài của
dân tộc
2. Chủ nghĩa Lenin: CNXH thành hiện thực
- Là học thuyết chính trị do Lenin phát triển từ chủ nghĩa Mac, được coi là ý thức hệ
chính thức của Liên Xô từ giữa thập niên 1920. Học thuyết chính trị này được Lenin phát
triển trong mối quan hệ đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa đế quốc và cuộc cách mạng của
giai cấp vô sản, chủ trương giải phóng dân tộc bị áp bức.
- “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” - Lenin : Làm biến chuyển về chất
trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa Lenin, từ người
yêu nước thành người cộng sản.
+ Phân biệt thật rõ nét những dân tộc bị áp bức, phụ thuộc, không được hưởng
quyền bình đẳng, với những dân tộc đi áp bức, bóc lột, được hưởng đầy đủ mọi quyền
lợi”;
+ Khẳng định quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc không phân biệt
màu da, Người yêu cầu các đảng cộng sản cần phải “tố cáo những việc vi phạm thường
xuyên nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc và những sự đảm bảo quyền lợi của các dân
tộc thiểu số trong tất cả các quốc gia tư bản chủ nghĩa”
+ Các đảng cộng sản ở chính quốc và cả thuộc địa “cần phải thi hành một chính
sách thực hiện sự liên minh chặt chẽ nhất của tất cả các phong trào giải phóng dân tộc và
thuộc địa
+ Làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước
gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và

giai cấp tư sản. Bởi vì chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ nghĩa tư
bản, nếu không có chiến thắng đó thì không thể thủ tiêu được ách áp bức dân tộc và tình
trạng bất bình đẳng.
+ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con
đường cách mạng vô sản.
- Nhiều cuộc khởi nghĩa chống giai cấp tư sản như ở Anh 1836-1848, Đức 1848…
đều thất bại do chưa có đường lối đấu tranh khoa học chưa có tổ chức lãnh đạo.
→ Cách mạng giải phóng dân tộc phải do 1 chính đảng lãnh đạo, coi sự nghiệp cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng.
- Cách mạng tháng 10 Nga:
+ Đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa chủ.
+ Xây dựng 1 xã hội hoàn toàn mới, không còn tình trạng người bóc lột người.
+ Mở ra thời kì mới
→ Mô hình xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời
➤ Là ngọn đèn soi sáng cho con đường cách mạng Việt Nam


III- Thực tiễn ở Việt Nam ( Theo tư tưởng Hồ Chí Minh)
1. Tiến hành cuộc giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu
Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ bọn thực dân xâm lược với nhân dân các nước tư bản
chủ nghĩa . Người kêu gọi nhân dân các nước phản đối chiến tranh xâm lược thuộc địa,
ủng hộ cuộc đấu tranh giành dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc, quy định tính chất và nhiệm
hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
- Trong tác phẩm Đường cách mệnh , Người nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Người giải thích:
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo , xác định
những nhiệm vụ về chính trị , kinh tế, văn hóa- xã hội , nhưng nổi lên hàng đầu là nhiệm
vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Trong tư duy của Hồ Chí Minh , giải phóng dân
tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

- Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( tháng 5-1941) do Hồ Chí
Minh chủ trì đã kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc , nhấn mạnh đó là “
nhiệm vụ bức thiết nhất”, chủ trương tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” và chỉ
tiến hành nhiệm vụ đó ở một mức độ thích hợp nhằm phục vụ cho giải phóng dân tộc.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải đi theo con đường
cách mạng vô sản.
- Hồ Chí Minh thấy được cách mạng tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách
mạng vô sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng
về sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
- Trong bài Cuộc kháng chiến , Hồ Chí Minh viết “ Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản
thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”
Người khẳng định “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo
-Trong tác phẩm đường cách mệnh , Người khẳng định: “ Trước hết phải có Đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công , cũng như
người cầm lái thuyền mới chạy”.
- 3/2 /1930 : Người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam - một chính đảng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.


Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách mạng tiên phong ,phù hợp với thực
tiễn Việt Nam , gắn bó với nhân dân , với dân tộc, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân , được nhân dân , được dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình.
4. Toàn thể dân tộc tiến hành bằng bạo lực cách mạng
-Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng , người xác định lực lượng cách mạng

bao gồm cả dân tộc . Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai
trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân.
- Cách mạng tháng 8/1945 được tiến hành bởi toàn thể dân tộc
- Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến tháng 12 /1946 , Hồ Chí Minh đã khẳng
định : “ Bất kì đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ , không chia tôn giáo , đảng phái ,
dân tộc.Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp , cứu Tổ quốc…”


Phần 3: Chủ nghĩa Mác Lênin là chủ nghĩa chắc chắn nhất
Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống các quan điểm lý luận và phương pháp khoa
học được kết tinh và là đỉnh cao thành tựu trí tuệ của loài người, của tinh hoa văn hoá mà
nhân loại đã sáng tạo ra. Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã kế thừa có chọn lọc những
thành tựu khoa học, những giá trị tư tưởng và văn hoá, những tiền đề kinh tế, chính trị, xã
hội mà nhân loại đã đạt được
I. Cơ sở lý luận:
1.Chủ nghĩa Mác:
* Chủ nghĩa duy vật biện chứng:
- Chủ nghĩa Mác ra đời dựa rên sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại
trong đó trực tiếp là Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học cổ điển Anh và Chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
- Triết học cổ điển Đức với các đại biểu xuất sắc là L.Phowbach và G.W.PH.Heghen
đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học
của chủ nghĩa Mác.
+ Trên cơ sở phê phán quan điểm duy tâm thần bí trong triết học của
G.W.PH.Heghen,C.Mác và Ph.Angghen đã thừa kế phép biện chứng của ông để xây dựng
phép biện chứng duy vật.
+ Chủ nghĩa duy vật vô thần của L.Phobachđã tạo tiền đề cho sự chuyển biến của
C.Mác, Ph.Angghen từ thế giới quan duy tâm sang duy vật, từ lập trường dân chủ cách
mạng sang lập trường chủ nghĩa cộng sản.
- Mác hiểu các mâu thuân tinh thần trong chủ nghĩa duy tâm như là hình ảnh và biểu

hiện của những mâu thuẫn vật chất tức là các mâu thuẫn trong tồn tại xã hội chúng cũng
lệ thuộc lẫn nhau và tiếp tục ở trong trạng thái biến chuyển có tác động qua lại. Biến
chuyển này về toàn thể là tăng lên tức là đi từ đơn giản đến phức tạp và thông qua những
bình diện nhất định tương ứng với những thay dổi về chất lượng nhất định để thúc đẩy sự
phát triển.
- Theo Mác, việc giải quyết các mâu thuẫn cũng tác động đến tiến độ đi đến những
hình thái xã hội ngày càng cao hơn. Chúng tương tự như các tổng thể của Heghen nhưng
xuất phát từ những mâu thuẫn cơ bản ngày càng trầm trọng hơn và không bãi bỏ 1 cách
tổng thể.
* Chủ nghĩa duy vật lịch sử:


- Với học thuyết này Mác đã miêu tả tiến trình lịch sử là một chuỗi vận động mà các
sự kiện cơ bản xác định chuỗi vận động này lại được quyết định và thúc đẩy bởi những
nguyên tắc kinh tế.
- Kinh tế chính trị cổ điển Anh với các đại diện tiêu biểu như A.Smit,D.Ricacdo đã
góp phần tích cực vào sự hình thành quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác.
- C.Mác đã kế thừa những yếu tố hợp lý trong học thuyết giá trị và những tư tưởng
tiến bộ của các nhà cổ điển, giải quyết những bế tắc mà các nhà cổ điển không thể vượt
qua để xây dựng lý luận giá trị thặng dư, luận chứng khoa học về bản chất bóc lột của chủ
nghĩa tư bản và nguổn gốc kinh tế của sự diệt vong chủ nghĩa tư bản và sự ra đời khách
quan của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không tưởng đã có quá trình phát triển lâu ài
và đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XIX.
- Một trong những nhận thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử là “lịch sử của tất
cả các xã hội từ trước đến nay là lịch sửa của đấu tranh giai cấp, một lịch sử chấm dứt với
sự cải tạo cách mạng của toàn thể xã hội hay với sự suy tàn cùng một lúc của các giai cấp
đang đấu tranh”. Các biến đổi xã hội được lý luận dựa trên những học thuyết kinh tế.
- Theo quan điểm của Mác, cá nhân con người trong một xã hội có những mối quan
hệ quyền lực và phụ thuộc về mặt tinh thần, chính trị và kinh tế đa dạng. Trong đó các
quan hệ sản xuất, yếu tố vật chất sẽ quyết định phương thức sản xuất, yếu tố ý thức là

phương thức cơ bản trong sản xuất và sở hữu hàng hóa tư liệu, quyết định tất cả các quan
hệ khác trong xã hội và sản xuất.
2. Chủ nghĩa Lênin
* Lý luận về chủ nghĩ đến quốc và cách mạng vô sản trong thời đại dến quốc chủ
nghĩa:
- Trong giai đoạn này, các mâu thuẫn của xã hội tư bản chủ nghĩa đã sâu sắc đến tột
bậc. Kết quả của sự phát triển các mâu thuẫn sâu sắc ấy là phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhan dân lao động trog các nước đế quốc cũng như phong trào giải
phóng ở các nước thuộc địa bùng lên rầm rộ chưa từng thấy, cả hai hợp thành một làn
sóng cách mạng mạnh mẽ làm lung lay chủ nghĩa đến quốc đến tận gốc.
- Lenin đã nêu ra lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa “cách mạng xã hội chủ
nghĩa sẽ không chỉ là một cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cách mạng ở từng nước
chống lại giai cấp tư sản ở nước mình, đó sẽ là cuộc đấu tranh của tất cả các thuộc địa và
tất cả những nước bị chủ nghĩa đế quốc áp bức của tất cả các nước phụ thuộc chống lại
chủ nghĩa đến quốc.
* Lý luận về chuyên chính vô sản, xây dựng xã hội chủ nghĩa:
- Lênin khẳng định rằng thắng lợi của cách mạng vô sản nhất định sẽ dẫn đến
chuyên chính vô sản và bắt đầu thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.


- Mặt khác, phải xây dựng nên kinh tế mới, xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kỹ thuật
hiện đại để làm nền tảng vật chất cho xã hội mới.
* Lý luận hoàn chỉnh về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân:
- Trong thời dại đế quốc chủ nghĩa, khi nhiệm vụ chiến đấu cách mạng chống ách
thống trị của giai cấp tư sản và các thế lực phản động khác đã đặt ra một cách trực tiếp,
Lenin đã đề ra nhiệm vụ cấp thiết là phải xây dựng một chính đảng cách mạng kiểu mới
của giai cấp công nhân.
- Một đảng như thể là bộ tham mưu, đội tiên phong, đội quân có tổ chức và là hình
thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân.
II. Cơ sở thực tiễn:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng của C.Mác là kết quả của sự tổng kết những thành tựu
khoa học của nhân loại, nhất là ba phát minh trong khoa học tự nhiên: định luật bảo toàn
và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đác-uyn. Đây là cơ sở
khoa học để khẳng định vật chất và vận động của vật chất không do ai sáng tạo ra và
không thể bị tiêu diệt, chúng chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác, từ hình thức
này sang hình thức khác.
- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: cũng là một định luật nhiệt động
lực học (một trong bốn định luật của nhiệt động lực học), phát biểu rằng năng lượng
(hoặc đại lượng tương đương của nó là khối lượng tương đối tính) không thể tự nhiên
sinh ra hoặc mất đi.Trong toàn vũ trụ, tổng năng lượng không đổi, nó chỉ có thể chuyển
từ hệ này sang hệ khác. Người ta không thể "tạo ra" năng lượng, người ta chỉ "chuyển
dạng" năng lượng mà thôi, nên không có động cơ nào hoạt động "vĩnh cửu".
- Thuyết tế bào: học thuyết tế bào do Gs M.Slainden xây dựng năm 1838 đã mở
rộng học thuyết tế bào từ giới thực vật sang giới động vật, khiến loài người nhận thức
được rằng tế bào là đơn nguyên kết cấu chung của mọi cơ thể sinh vật.
- Thuyết tiến hóa của Đacuyn: đã đem lại cơ sở khoa học về phát sinh, phát triển
các giống loài mối liên hệ hữu cơ giữa cá loài thực vật, động vật trong quá trình chọn lọc
tự nhiên.
III. Sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh:
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh
đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đối với Người, đến với chủ nghĩa
Mác - Lê-nin cũng có nghĩa là đến với con đường cách mạng vô sản. Từ đây, Người thực
sự tìm thấy con đường cứu nước chân chính, triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân


tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" và "chỉ có giải phóng
giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là
sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại"

- Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm hoạt động
quân sự của thế giới và của các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn đấu tranh vũ trang, chiến
tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh đã
sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của Việt Nam. Trong đó, nổi bật là quan điểm về
chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ; về xây dựng lực lượng
vũ trang toàn dân với ba thứ quân chủ lực, địa phương, dân quân tự vệ; về nền quốc
phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại...
Như vậy, sự ra đời của chủ nghĩa Mác là hiện tượng hợp quy luật, nó vừa là sản phẩm
của tình hình kinh tế xã hội đương thời, của tri thức nhan loại trong các lĩnh vực khoa
học, vừa là sản phẩm năng lực tư duy và tinh thần nhân văn của những người sáng lập
ra nó.


Phần 4: Chủ nghĩa Mac-lenin là cách mạng nhất
I. Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mac – Lênin ra đời là sự kế thừa và phát triển đến đỉnh cao của hệ thống
tư tưởng trước đó, tạo ra một bước ngoặt mới cho sự phát triển hệ thống tư tưởng trước
đó, tạo ra một bước ngặt mới cho sự phát triển loài người, đánh thẳng vào các hệ tư tưởng
cũ của chế độ phong kiến cũng như chủ nghĩa tư bản. Đồng thời đập tan sự bế tắc về
phương hướng của các nhà tư tưởng yêu nước, mở ra một con đường mới.
1. Định nghĩa chủ nghĩa Mac-lenin là cách mạng nhất: Đó là xóa cái cũ xây dựng
cái mới, cụ thể Chủ nghĩa Mac- Lenin đã nêu nên phải xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Chỉ rõ quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng.
2. CN Mác nghiên cứu CNTB và khẳng định sự ra đời của CNXH
a. Tính tất yếu diệt vong của CNTB
Tình trạng nghèo đói, thất nghiệp của vo sản và lao đọng làm thuê
Chế độ TBCN không thể tự giải quyết được các mâu thuẫn ngày càng
gay gắt tồn tại gắn liền với nó.
 CNTB đã mở ra một trang lịch sử cho nhân loại, nó vừa mang đến những mặt tích

cực cho thế giới nhưng cũng đem lại những hậu quả vô cùng nặng nền cho xã hội, con
người thêm một bước tiến mới, tiến bộ hơn, tuy nhiên nó chưa triệt để, đến nơi đến chốn,
chưa chú trọng đến việc giải phóng con người.
 Chủ nghĩa tư bản tất yếu bị thay thế bởi một xã hội mới tốt đẹp hơn, XHCN
b. Sự ra đời của CNXH
* Mục tiêu:
- Đây là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành,
nhằm xóa bỏ chế độ CNTB, xây dựng chế độ XHCN vì hạnh phúc và quyền làm chủ của
nhân dân lao động.
* Tính chất:
- Là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc và toàn diện nhất trong lịch sử.
- Đưa nhân dân lao động từ địa vị nô lệ nên làm chủ nghĩa xã hội


II. Cơ sở thực tiễn
- Bối cảnh thế giới.
Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền đã
xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới.
Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
Từ cuộc đất tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế gưới với đỉnh cao là Cách
Mạng tháng Mười Nga năm 1917. Cuộc cách mạng vĩ đại này đã làm thức tỉnh tinh thần
dân tộc châu Á.
- Cách mạng tháng Mười Nga – Mô hình CNXH đầu tiên trên thế giới.
Dựa vào sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, cùng với việc tận dụng thời cơ khi đế
quốc đang tham chiến, cuộc khởi nghĩa vũ trang do Đảng Bôn sê vích và Lênin lãnh đạo
đã nhanh chóng giành thắng lợi. Thành công của cách mạng tháng Mười Nga đã chấm
dứt tồn tại song song hai chính quyền gồm giai cấp tư sản và vô sản, hình thành nhà nước
chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới, đưa nước Nga đi theo con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Với những người Cộng sản và các phong trào Giải phóng dân tộc, Cách

mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân và ở các nước thuộc địa mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp
bức, mở ra thời đại mới: Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới. Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản ra đời.
- Bối cảnh Việt Nam.
Rất nhiều sĩ phu yêu nước đã tìm con đường cứu nước tuy nhiên chưa ai tìm ra con
đường phù hợp với hoàn cảnh dân tộc, mọi cuộc nổi dậy đều thất bại.
Lênin đã khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản, bởi chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại bình đẳng bác ái, ấm no, làm cho mọi người hòa bình hạnh phúc.
 Đây là mục tiêu tiêu mà Việt Nam hướng tới
Người dân Việt Nam đã từng sống dưới chế độ phong kiến và chế độ thực dân Pháp
nên hiểu được bản chất của chế độ phong kiến và tư bản chủ nghĩa.


Việt Nam còn có những điều kiện cần thiết để lựa chọn con đường lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư sản đó là chúng ta có Đảng cộng sản lãnh đạo.
III. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu ở Việt Nam sau khi đã giành được độc lập theo
con đường cách mạng vô sản. Mục tiêu là nhà nước được độc lập, nhân dân được hưởng
tự do, sống cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Hồ Chí Minh đã hiểu được những đặc điểm, bản chất của CNXH, từ đó có những
nhận xét quan điểm đúng đắn.
- CNXH là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ
- CNXH là chế độ không còn bóc lột người, là một xã hội phát triển cao về văn hóa
đạo đức.
- CNXH được đặt trong một tổng thể chung về các mặt
=> Xuất phát từ tình hình thực tế Việt Nam Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường
cách mạng là tiến hành giải phóng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH.
-----------------------------------------------------Bằng thiên tài của trí tuệ cộng với sự lao động nghiêm túc, vượt lên mọi trở ngại, khó

khăn, những cám dỗ của vật chất và vòng cương toả hà khắc của chế độ chính trị đương
thời, các ông đã để lại cho nhân loại một di sản vô cùng quý báu, một cơ sở lý luận khoa
học để giải phóng con người, giải phóng xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, tự do và hạnh
phúc cho con người. Đó là học thuyết mở, không cứng nhắc, bất biến mà nó đòi hỏi luôn
được bổ sung, tự đổi mới, tự phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại. MácĂngghen cũng như Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông không phải là
cái đã xong xuôi, bất biến, không phải là giáo điều mà chỉ là kim chỉ nam cho hành động.
Nó gắn liền với sự phát triển của phong trào cách mạng, với thực tiễn vận động của lịch
sử, hay nói cách khác, học thuyết đó chỉ đưa ra cơ sở và phương pháp luận cho suy nghĩ
và hành động. Điều đó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều xơ cứng. Chủ nghĩa MácLênin là học thuyết về sự phát triển, bao hàm cả sự phát triển của chính học thuyết đó với
tinh thần phê phán và tự phê phán. Bởi lẽ, có nhiều vấn đề mà các ông chưa có điều kiện,
thời gian nghiên cứu, làm sáng tỏ hoặc do hạn chế của lịch sử nên những luận điểm của
các ông cần phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Các ông đòi hỏi những người
cách mạng đời sau bổ sung và phát triển làm cho học thuyết đó hoàn chỉnh. Toàn bộ học
thuyết Mác-Lênin có giá trị bền vững xét trong tinh thần biện chứng của nó, với bản chất
cách mạng, khoa học và nhân đạo, chủ nghĩa Mác-Lênin sống mãi trong sự nghiệp đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới và là nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.



×