Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của việt nam vào các thị trường phi hạn ngạch.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.18 KB, 104 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

KHOÁ LUẬN

TỐT NGHIỆP
Đề tài:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH
XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM VÀO
CÁC THỊ TRƯỜNG PHI HẠN NGẠCH

GV hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Trung Vãn
Sinh viên thực hiện : Đồn Thanh Tú
Lớp : Trung 1
Khóa : 38E

Hà Nội 12/2003


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

LỜI NĨI ĐẦU
Trong q trình phát triển, các nước cơng nghiệp tiên tiến như Anh,
Pháp, Nhật... trước đây, cũng như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore... hiện nay
thường quan tâm phát triển sản xuất, xuất khẩu dệt may như một ngành xuất
khẩu chính.
Ở Việt Nam, ngành dệt may trong các năm qua cũng được quan tâm đầu
tư, mở rộng năng lực sản xuất, và cũng trải qua bao thăng trầm bởi thị trường
quốc tế và cơ chế quản lý trong nước. Đến nay, kim ngạch ngành dệt may năm


2002 đạt mức 2,7 tỷ USD, chiếm gần 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước,
chỉ đứng sau xuất khẩu dầu thô. Xuất khẩu dệt may đã tạo dựng được bước
phát triển khởi sắc đáng mừng.
Để thực hiện thắng lợi chiến lược cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước
hiện nay ngành cơng nghiệp nói chung cần duy trì tốc độ tăng trưởng bình
qn 15%/năm, trong đó ngành dệt may cần có tốc độ tăng trưởng cao hơn,
nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng chung, và tiến kịp các nước ASEAN
trong lộ trình hội nhập. Để đi xa hơn nữa, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
đang có nhiều việc cần làm: đổi mới cơng nghệ hàng loạt cơ sở sản xuất, nâng
cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh quốc tế, chuyển mạnh hơn
nữa hình thức gia cơng xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp, mở rộng hơn nữa
thị trường xuất khẩu v.v...
Ý thức được tình hình trên, em đã quyết định lựa chọn đề tài: " Một số
giải pháp chủ yếu nhằm đầy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào các
thị trường phi hạn ngạch" cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương sau:
2


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

Chương I: Tổng quan về một số thị trường dệt may phi hạn ngạch trên
thế giới
Chương II: Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam những năm qua
Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng
dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch
Do những hạn chế về thời gian, tài liệu và khả năng của người viết nên

nội dung khoá luận này chắc chắn khó tránh khỏi những thiếu sót. Em mong
nhận được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cơ và góp ý của đơng đảo bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 15 tháng 12 năm 2003

CHƯƠNG 1

3


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

TỔNG QUAN VỀ MỘT SỐ THỊ TRƯỜNG DỆT MAY PHI HẠN
NGẠCH TRÊN THẾ GIỚI
Hiện nay, thế giới đang tồn tại hai hình thái thị trường dệt may chủ yếu.
Đó là thị trường hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch (nếu căn cứ vào tiêu
chí có sự ấn định về mặt số lượng của nước nhập khẩu đối với nước xuất
khẩu). Thị trường hạn ngạch gồm những nước và khu vực như thị trường EU,
thị trường Canada,... Thị trường phi hạn ngạch gồm các nước và khu vực
không hạn chế mức nhập khẩu và chủ yếu phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh
của chính sản phẩm đó
Khố luận sẽ tập trung nghiên cứu nhưng thị trường phi hạn ngạch điển
hình là: Nhật Bản, SNG (chủ yếu là Nga) và Châu Phi. Ngồi ra khố luận cịn
nêu tóm tắt một số thị trường khác như ASEAN, Ơxtraylia và Trung Đơng.
1.

THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN, MỘT THỊ TRƯỜNG KHĨ TÍNH NHƯNG
ĐẦY HẤP DẪN


Thị trường Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ 3
của Việt Nam, chiếm 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam, chỉ đứng sau thị trường Mỹ và thị trường EU. Tuy nhiên nếu với thị
trường EU và thị trường Mỹ hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam bị hạn chế
bởi hạn ngạch thì khi chúng ta xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản lại
không phải chịu hạn ngạch. Như vậy, có thể khẳng định rằng Nhật Bản là thị
trường nhập khẩu hàng dệt may phi hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam cho đến
thời điểm hiện tại. Vậy thị trường Nhật Bản có những đặc điểm gì ?
1.1. Mức tiêu thụ
Nhật Bản là một thị trường mở, có quy mơ tương đối lớn đối với các nhà
xuất khẩu hàng may mặc nước ngoài. Với số dân là 126,9 triệu người và mức
thu nhập bình quân hàng năm vào khoảng 30.039 USD/người, Nhật Bản là
4


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

nước nhập khẩu hàng may mặc lớn thứ hai trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên
việc mua sắm của người Nhật Bản đối với các sản phẩm nói chung và các sản
phẩm may mặc nói riêng đều khác biệt với các thị trường như Mỹ và EU hay
bất kỳ một thị trường nào khác. Một trong những nguyên nhân là Nhật Bản
đang đối mặt với sự thay đổi giữa các nhóm tuổi trong xã hội theo hướng già
hố dân số tương đối nhanh chóng. Theo một nghiên cứu về xu hướng thay
đổi dân số Nhật Bản giai đoạn 1990-2025 cho thấy: năm 2000 nhóm tuổi từ
15-29 là 16 triệu người thì tới năm 2010 sẽ giảm xuống còn 12,3 triệu người
và đến năm 2025 chỉ cịn 10,8 triệu người. Số dân có độ tuổi từ 30-59 cũng có
mức giảm đáng kể qua các năm như năm 2000 có 42,7 triệu người, đến năm

2010 giảm xuống 42,2 triệu người, năm 2025 độ tuổi này chỉ cịn 38,7 triệu
người. Trong khi đó nhóm dân số có độ tuổi từ 60-64 lại tăng lên. Năm 2000
có 4,4 triệu người nhưng đến năm 2025 sẽ tăng lên 5,3 triệu người, nhóm dân
số có độ tuổi trên 65 cũng có mức tăng như vậy. (Tạp chí cơng nghiệp Việt
Nam số 12/2003)
Xu hướng già hoá dân số của Nhật Bản sẽ làm thay đổi mạnh mẽ cách
thức tiêu dùng hàng hố, sự lựa chọn, sở thích, thói quen, tâm lý tiêu dùng,
đồng thời nó cịn tác động đến mức chi tiêu của người Nhật Bản. Nếu như
trước đây, vào thập niên 80, các gia đình Nhật Bản đoạt ngơi vơ địch về tỷ lệ
gửi tiền tiết kiệm so với thu nhập nhưng giờ đây tỷ lệ này chỉ tương đương với
người Mỹ vốn quen thói tiêu hoang. Theo số liệu mới nhất của chính quyền
Nhật Bản cho thấy tỷ lệ tiền tiết kiệm so với thu nhập của các hộ gia đình
người Nhật giảm từ 23% năm 1975 cịn 14% năm 1990; 6,9% năm 2001; 4%
năm 2002 và 2% vào q I năm 2003 (Tạp chí cơng nghiệp Việt Nam số
31/2003). Tỷ lệ này thậm chí cịn thấp hơn cả tỷ lệ tiết kiệm 3,5% của người
Mỹ và thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 10% ở Liên minh Châu Âu (EU). Sự giảm
sút về tỷ lệ tiền tiết kiệm khiến cho mức chi tiêu so với thu nhập của người
5


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

Nhật Bản tăng lên. Do vậy sẽ không hề ngạc nhiên khi kết quả một cuộc điều
tra về người tiêu dùng Nhật Bản cách đây hai năm về tiêu chí mà họ quan tâm
nhất khi chọn mua hàng may mặc đã cho thấy: giữa hai tiêu chí là giá cả và
chất lượng, người tiêu dùng Nhật Bản có xu hướng ưu tiên giá cả hàng may
mặc hơn chất lượng hàng hoá một cách tương đối.
Vậy nhưng theo kết quả một nghiên cứu mới đây của các chuyên gia tổ

chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) cho biết, có đến 42% người tiêu
dùng chọn mua hàng may mặc dựa theo kiểu dáng; 25% khách hàng lựa chọn
theo chất lượng; 21% lựa chọn theo nhãn mác; 12% khách hàng lựa chọn theo
giá cả (Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 12/2003). Qua những con số trên
chúng ta có thể thấy rằng đã có một sự thay đổi trong xu hướng tiêu dùng của
người Nhật Bản một cách tương đối, từ quan tâm đến giá cả giờ chuyển sang
quan tâm nhiều hơn đến chất lượng mặc dù từ trước đến nay người Nhật Bản
vẫn luôn khắt khe và khó tính thậm chí cịn được đánh giá là thị trường khó
tính nhất thế giới. Đặc biệt đối với hàng dệt may, người Nhật chú ý đến từng
đường kim mũi chỉ, sản phẩm khơng được có sai sót gì dù là nhỏ nhất.
Vậy là với mức chi tiêu "thoáng" hơn, giờ đây người Nhật Bản sẵn sàng
trả giá cao để mua những sản phẩm chất lượng tốt, tính thời trang thẩm mỹ
cao. Sản phẩm còn phải thể hiện được những nét đặc trưng của nơi sản xuất về
truyền thống văn hoá, nguyên vật liệu bởi họ quan niệm rằng một sản phẩm
may mặc không chỉ đáp ứng nhu cầu thơng thường là để mặc, mà nó cịn là
một sản phẩm nghệ thuật làm đẹp cho người sử dụng. Họ trở nên tin tưởng và
dễ dàng bỏ tiền ra mua những sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng của Nhật
Bản như tiêu chuẩn công nghiệp Nhật (JIS) hoặc các tiêu chuẩn quốc tế như
ISO 9000, ISO 14000, SA 8000. Người tiêu dùng Nhật Bản cũng sẵn sàng từ
chối những sản phẩm làm theo kiểu dáng "hàng nhái" cho dù bán với giá rẻ
hoặc những sản phẩm có những vết xước, vết bẩn trên bao bì, những sợi chỉ
6


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

sợi bơng cịn sót lại trên bề mặt sản phẩm, kể cả sản phẩm sắp xếp không ngăn
nắp đẹp mắt, bị xô lệch. Đây có thể sẽ là những gợi ý để doanh nghiệp Việt

Nam tham khảo khi muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản vì
hiện tại nhiều chuyên gia kinh tế Nhật Bản đều có chung một nhận xét về hàng
may mặc xuất khẩu của Việt Nam: mặc dù hàng may mặc Việt Nam đạt chất
lượng tốt nhưng không đồng đều, không ổn định, kiểu dáng mẫu mã rất nghèo
nàn và chưa thể hiện được những yếu tố đặc trưng của sản phẩm may mặc
Việt Nam.
Ngoài ra, mức tiêu thụ hàng may mặc của người dân Nhật Bản còn chịu
ảnh hưởng bởi sự biến động của giá đồng Yên. Cịn nhớ cuộc khủng hoảng tài
chính- tiền tệ năm 98 đã làm cho nền kinh tế nước này bị ảnh hưởng nặng nề,
kinh tế suy thoái, sức mua giảm sút. Nhưng khi nền kinh tế nước này có dấu
hiệu phục hồi, đồng Yên tăng giá, giá hàng hóa giảm, do vậy người tiêu dùng
Nhật Bản thấy không cần phải tiết kiệm để giữ giá trị tài sản thực.
Mức tiêu thụ hàng may mặc của người Nhật
Đơn vị: triệu Yên
Chủng loại

1997

1998

1999

2000

2001

Hàng dệt kim

1.176.768


1.155.672

1.024.614

1.078.446

1.055.324

Hàng dệt thoi

1.638.039

1.565.785

1.372.379

1.500.833

1.498.793

Tổng

2.814.806

2.721.457

2.396.994

2.579.279


2.554.117

(Nguồn: Báocáo của JETRO)

Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy dấu hiệu phục hồi của
kinh tế Nhật Bản qua mức tăng của năm 2000 so với năm 1999. Tuy nhiên đến
năm 2001 kinh tế Nhật Bản cũng như nhiều nền kinh tế lớn khác như Mỹ đều
bị tác động bởi vụ khủng bố 11/9 nhưng sự suy giảm mức tiêu thụ của người

7


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

dân Nhật Bản khơng quá nhiều. Vậy nên chúng ta hãy tiếp tục tin tưởng vào
triển vọng sáng sủa của kinh tế Nhật Bản thời gian tới.
1.2 Cơ cấu tiêu thụ các sản phẩm dệt may
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn trên thế giới đồng
thời cũng là thị trường tiêu thụ rất nhiều hàng dệt may. Nhìn chung hàng dệt
may được tiêu thụ có thể phân thành hai nhóm chính nếu căn cứ theo phương
thức dệt là hàng dệt kim và hàng dệt thoi. Trong đó hàng dệt kim thường
chiếm tới 70% tổng khối lượng nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản.
Trong nhóm hàng dệt kim, những mặt hàng được người Nhật quan tâm
thường là các loại áo len, áo khoác nam, áo khoác nữ, sơ mi, quần áo trẻ em,
găng tay, bít tất, áo gile, T.shirt, quần áo dệt kim, quần áo thể thao, áo jacket.
Trong đó hàng dệt kim với chất liệu là len hoặc cotton được ưa chuộng hơn cả.
Bên cạnh đó, hàng dệt thoi mà chủ yếu là lụa tơ tằm, các loại áo sơ mi dệt
thoi chất liệu bơng, áo blouse, đồ lót, váy làm từ chất liệu tơ tằm cũng được

người Nhật Bản yêu thích.
1.3. Mức tự cung đảm bảo
Là nước nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ hai trên thế giới, khối lượng
nhập khẩu hàng may mặc của Nhật Bản tăng nhanh qua các năm. Mức nhập
khẩu có chững lại khi nền kinh tế Nhật Bản lâm vào cuộc khủng hoảng tài
chính-tiền tệ 1997-1998. Nhưng kể từ sau khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi
kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Nhật đang tăng trở lại. Ngược với xu
hướng nhập khẩu ngày càng nhiều, hiện nay mức sản xuất hàng dệt may trong
nước của Nhật Bản ngày một suy giảm, nhất là từ năm 1992 cả về mặt giá trị
và số lượng.
Một trong nguyên nhân chủ yếu khiến cho việc sản xuất tại thị trường
nội địa không được mở rộng là do sự suy giảm sức mua trên thị trường, áp lực
8


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

của nền kinh tế giảm phát những năm vừa qua, đơn giá sản phẩm bị hạ xuống
một cách đáng kể qua từng năm. Để đáp ứng địi hỏi hạ giá bán hàng hố, các
nhà bán lẻ đã buộc phải bán hàng hoá với giá rẻ, dẫn tới việc giảm tỷ suất lợi
nhuận trong ngành dệt may Nhật Bản. Và hệ quả tất yếu là các nhà sản xuất
hàng dệt may và các hãng buôn đã chuyển hoạt động sản xuất ra nước ngoài
nhằm đối phó với tình hình này.
Trong 5- 10 năm qua việc chuyển hoạt động sản xuất hàng dệt may ra
nước ngoài đã phát triển rất nhanh mà điểm đến thường là những nước đang
phát triển rất gần với Nhật Bản. Đầu tiên là sự chuyển dịch sang Hàn Quốc và
Đài Loan. Tiếp đó là thị trường Trung Quốc và thị trường Inđônêxia, hai trong
số nhiều nước thuộc khu vực Đông Á và Đông Nam Á với nguồn nguyên phụ

liệu dồi dào, nguồn lao động phong phú với giá tương đối rẻ. Hiện nay Trung
Quốc được xem là một "cơ sở" sản xuất lớn và là nguồn nhập khẩu quan trọng
của Nhật Bản.
Hiện tại mức sản xuất trong nước của Nhật Bản chỉ chiếm trên dưới 30%
tổng lượng tiêu thụ hàng dệt may của thị trường nội địa. Xu hướng này sẽ
được thể hiện rõ hơn qua bảng số liệu dưới đây.
Năng lực sản xuất nội địa
(Đơn vị:triệu Yên)
Chủng loại

1997

1998

1999

2000

2001

Hàng dệt kim

415.602

381.422

314.742

280.585


211.124

Hàng dệt thoi

660.404

585.595

484.036

502.190

377.956

Nguồn:Báo cáo của JETRO

Qua bảng số liệu trên có thể thấy rằng mức tự cung trong nước cả hai loại
hàng dệt kim và dệt thoi đều giảm nhưng hàng dệt kim giảm nhanh hơn hàng

9


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

dệt thoi từ năm 1998, hàng dệt thoi giảm nhưng tốc độ giảm tương đối ổn
định.
Nhưng việc chuyển sản xuất ra nước ngoài với nhịp độ nhanh trong 5-10
năm trở lại đây đã tác động xấu đến thị trường nội địa Nhật Bản. Thậm chí tại

Nhật Bản đã có nhiều đánh giá lại là xét cho cùng sản phẩm mà người tiêu
dùng Nhật Bản quan tâm nhiều nhất lại khơng có sẵn cho họ. Có thể việc
chuyển sản xuất hàng dệt may ra nước ngồi những năm tới sẽ khơng cịn
nhanh và nhiều như trước nữa.
1.4.

Nhu cầu nhập khẩu
Với mức tự cung đảm bảo chỉ đáp ứng được khoảng 30% tổng mức tiêu

thụ hàng dệt may trên thị trường nội địa nên kim ngạch nhập khẩu của Nhật
Bản thường rất lớn cả về mặt giá trị và khối lượng, chiếm xấp xỉ 70% tổng cầu
của thị trường đối với cả hai loại là hàng dệt kim và hàng dệt thoi. Một nguyên
nhân mà mục 1.3 đã nêu, đó là do xu hướng chuyển sản xuất ra nước ngồi
của các cơng ty Nhật Bản nhằm đối phó với tình trạng giảm tỷ suất lợi nhuận
trong ngành dệt may. Hình thức mà các cơng ty này hoạt động dựa trên sự liên
doanh liên kết với các công ty Trung Quốc. Do vậy những sản phẩm được làm
ra ở những thị trường như thế này dễ dàng được người tiêu dùng Nhật Bản
chấp nhận hơn bất kỳ sản phẩm nào được sản xuất ở các nước khác, những
hàng hoá được sản xuất ở Trung Quốc được đối xử như với hàng hoá được sản
xuất tại Nhật Bản vậy.
Hàng may mặc nhập khẩu của Nhật Bản bao gồm hàng dệt thoi và hàng
dệt kim. Dưới đây là bảng số liệu kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản trong
một số năm gần đây.

Kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản
10


Khố luận tốt nghiệp


Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E
(Đơn vị:triệu n)

Chủng loại

1997

1998

1999

2000

2001

Hàng dệt kim

770.412

782.895

719.019

808.410

853.171

Hàng dệt thoi

995.394


995.394

902.634

1.013.980

1.135.825

Nguồn:Báo cáo của JETRO

Ngồi ra cịn có một cách phân loại hàng dệt may nhập khẩu nữa là căn
cứ theo những đặc điểm khác biệt nổi bật nhất của hàng hoá nhập khẩu so với
hàng hoá của Nhật Bản người ta chia ra thành những loại sau:
- Những sản phẩm có sức thu hút, có tính thời trang, có chất lượng cao.
Đó là những sản phẩm đặc biệt hấp dẫn về cả màu sắc, kiểu dáng, chất
lượng sản phẩm, thiết kế cũng như sự khéo léo tinh tế trong từng
đường nét của sản phẩm. Với những đặc điểm nổi bật đó, loại sản
phẩm này thường được nhập khẩu từ những trung tâm thời trang nổi
tiếng trên thế giới tập trung chủ yếu ở Mỹ và các nước EU.
- Những sản phẩm làm từ những loại nguyên phụ liệu hiếm không thể
sản xuất được ở Nhật Bản như len cashmere, vải nỉ angora, hoặc một
số loại len ít phổ biến khác...
- Những sản phẩm đòi hỏi nhiều lao động, với nhiều khâu thủ công tỉ
mỉ thường được sản xuất ở các nước đang phát triển có nguồn lao
động dồi dào nhưng giá nhân công lại rẻ.
- Những sản phẩm thủ công mang đậm truyền thống dân tộc của nơi sản
xuất ra nó. Đó là những sản phẩm truyền thống được làm bằng tay.
Hầu như không phân biệt chủng loại, những sản phẩm như thế đều
được nhập khẩu vào Nhật Bản bởi người Nhật rất coi trọng những nét

đặc trưng cá biệt của sản phẩm, đặc biệt là những nét đẹp của từng
nền văn hoá mỗi dân tộc ẩn chứa trong sản phẩm đó.
11


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

1.5. Những nhà cung cấp chủ yếu của Nhật Bản
Hiện tại bạn hàng chính của Nhật Bản là các khu vực, các nước và vùng
lãnh thổ như: Trung Quốc, EU, Mỹ, ASEAN, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông.
1.5.1.Trung Quốc

Trung Quốc được xem là nhà cung cấp hàng dệt may lớn nhất của Nhật
Bản trên hai thị trường: thị trường đại chúng và thị trường hàng hoá cấp trung.
Theo thống kê xuất nhập khẩu hàng dệt may, Bộ Tài chính Nhật Bản cho biết
có tới 79,6% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt kim và 80,4% kim ngạch nhập
khẩu hàng dệt thoi năm 2001 của Nhật Bản là do Trung Quốc cung cấp. Nếu
xét về lượng nhập khẩu thì Trung Quốc cịn chiếm thị phần lớn hơn với hàng
dệt kim là 87,7% và hàng dệt thoi là 89,9%. Như vậy Trung Quốc đã chiếm ưu
thế tuyệt đối với cả hai nhóm hàng dệt thoi và dệt kim. Hiện tại khơng chỉ có
các cơng ty Nhật Bản mà cả các các doanh nghiệp Mỹ và các hãng kinh doanh
ở EU đã chuyển hoạt động sản xuất của mình sang Trung Quốc nhằm giảm giá
thành sản phẩm và để rút ngắn thời gian giao hàng.
Trung Quốc luôn chiếm ưu thế trên thị trường đại chúng với những mặt
hàng bình dân và thị trường sản phẩm cấp trung bởi nguồn nguyên phụ liệu
trong nước phong phú, lực lượng lao động dồi dào, mức lương khơng cao.
Chính vì vậy mức giá hàng hố Trung Quốc đưa ra ln có sức cạnh tranh lớn

trên thị trường Nhật Bản. Đó là những thuận lợi khiến Trung Quốc chiếm thế
thượng phong với hầu hết các mặt hàng trên hai thị trường kể trên. Trong
những năm vừa qua, với việc gia tăng hoạt động gia cơng xuất khẩu, Trung
Quốc càng tạo được cho mình một chỗ đứng vững chắc tại thị trường Nhật
Bản.
1.5.2.Hàn Quốc

12


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

Do vị trí địa lý gần kề Nhật Bản nên Hàn Quốc có được những ưu thế về
vận tải hơn các nước khác. Thực vậy hàng hố từ cảng Pusan của Hàn Quốc
có thể chuyên chở tới cảng Shimonoseki nằm ở phía Tây của Nhật Bản chỉ
trong vịng một ngày. Điều đó đã tạo cho Hàn Quốc những lợi thế nhất định.
Tuy nhiên với sự tăng giá của đồngWon thời gian gần đây và giá nhân công
cao đã làm khả năng cạnh tranh cuả hàng dệt may Hàn Quốc giảm đáng kể
nhất là những mặt hàng dành cho thị trường đại chúng. Vì thế, hiện nay Hàn
Quốc chủ yếu tập trung sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng cấp trung hơn
là những mặt hàng bình dân như trước kia.
1.5.3.EU
Tuy bất lợi cả về khoảng cách địa lý cũng như giá nhân công cao hơn
hẳn các nước ASEAN nhưng hàng dệt may của EU vẫn có thể đứng vững trên
thị trường Nhật Bản, bởi những mặt hàng xuất khẩu của EU sang thị trường
này thường là những mặt hàng cao cấp, hợp thời trang và đắt tiền. Đó là
những sản phẩm gắn với những tên tuổi lớn trong ngành công nghiệp thời
trang thế giới, nhưng số lượng cung cấp chỉ có hạn. Ngồi ra EU cũng được

coi là đã khéo léo sử dụng những ảnh hưởng của mình tại thị trường dệt may
Nhật Bản. Song một điều không thể phủ nhận là hàng dệt may của EU được
đánh giá rất cao bởi sự tinh tế trong việc sử dụng màu sắc sản phẩm, việc kết
hợp khéo léo hơn hẳn những sản phẩm của Nhật Bản. Nhưng từ cuối thập niên
80 phần lớn những những sản phẩm của các thương hiệu lớn của EU đều đã
được sản xuất tại Nhật Bản dưới hình thức license chứ khơng cịn được nhập
khẩu trực tiếp từ EU.
1.5.4. Mỹ

Việc nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản từ Mỹ bắt đầu tăng đáng kể
từ cuối những năm 80. Điều đó đã biến Mỹ trở thành một trong những nhà
13


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

cung cấp hàng may mặc quan trọng đối với Nhật Bản. Hầu hết các sản phẩm
nhập khẩu từ Mỹ là những loại quần áo thông thường, thứ đến là những mặt
hàng thời trang. Trên thực tế một trong những thế mạnh về hàng dệt may của
Mỹ là mặt hàng chất liệu cotton.
1.5.5.ASEAN

Bắt đầu từ giữa thập kỷ 80 khi việc xuất khẩu hàng dệt may của các nước
công nghiệp mới (NIEs) sang Nhật Bản có xu hướng giảm thì cũng là lúc các
nước ASEAN như Thái Lan, Inđơnêxia, Philippin từng bước tìm chỗ đứng cho
mình trên thị trường Nhật Bản. Mặc dù ngành dệt may tương đối phát triển
nhưng ASEAN vẫn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ những hàng hoá
của Trung Quốc. Gần đây hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam có dấu hiệu

tăng trưởng. Cho dù hiện nay những nước ASEAN vẫn còn cần phải giải
quyết nhiều vấn đề như nguồn nguyên phụ liệu, công nghệ thiết bị sản xuất,
giá nhân công nhưng chắc chắn xuất khẩu của ASEAN sang Nhật Bản sẽ tăng
trưởng trong tương lai.
2.

THỊ TRƯỜNG TRUYỀN THỐNG SNG

2.1. Đặc điểm của thị trường SNG
Đây là khu vực địa lý có diện tích lớn nhất thế giới, trải dài trên hai châu
lục Á-Âu, cùng với số dân hơn 300 triệu người, SNG hiện đang là cơ hội để
mở rộng thị trường không thể bỏ lỡ của mọi doanh nghiệp. Thị trường SNG
bao gồm cộng đồng các quốc gia độc lập chủ yếu sau:
-

Cộng hoà Liên Bang Nga với diện tích là 17.075.200 km2 và dân số là
143,5 triệu người.

-

Cộng hồ Belarutcia với diện tích là 207.600 km2 và dân số là 9,9
triệu người.

14


Khố luận tốt nghiệp
-

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E


Cộng hồ Moldova với diện tích là 33.700 km2 và dân số là 4,3 triệu
người.

-

Cộng hồ Ukraina với diện tích là 603.700 km2 và dân số là 48,2 triệu
người.

-

Cộng hồ Grudia với diện tích là 69.700 km2 và dân số là 4,4 triệu
người.

-

Cộng hoà Acmenia với diện tích là 29.800 km2 và dân số là 3,8 triệu
người.

-

Cộng hồ Azecbaizan với diện tích là 86.600 km 2 và dân số là 8,2
triệu người.

-

Cộng hoà Udơbêkixtan với diện tích là 447.400 km 2 và dân số là 28,4
triệu người.

-


Cộng hồ Tazikixtan với diện tích là 143.100 km2 và dân số là 6,3
triệu người.

-

Cộng hoà Kiecghikixtan với diện tích là 198.500 km2 và dân số là
5,0 triệu người.

-

Cộng hồ Kazacxtan với diện tích là 2.717.300 km2 và dân số là 14,8
triệu người.

-

Cộng hồ Tuyecmenia với diện tích là 488.100 km2 và dân số là 5,6
triệu người.(Niên giám thống kê 2002)

Tất cả các quốc gia trên được tách ra từ Liên bang Xô Viết trước đây
(Liên Xô cũ) cho nên đều giao lưu tốt một ngôn ngữ (tiếng Nga) bên cạnh một
nền văn hoá gần gũi tương đồng. Đây là một thuận lợi không nhỏ cho các
doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường đầy hứa hẹn này.

15


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E


Lâu nay, SNG vẫn được coi là thị trường truyền thống của Việt Nam bởi
mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp, sự hiểu biết sâu sắc giữa các nước anh em trong
khối các nước xã hội chủ nghĩa trước kia, bởi mối quan hệ kinh tế-thương mại
đã được tạo dựng trong quá khứ, và giờ đang trở thành nền móng vững chắc
giúp chúng ta nhanh chóng khơi phục thị trường này, tạo cho các doanh
nghiệp Việt Nam thêm thuận lợi trong việc hiểu rõ hơn nhu cầu, thị hiếu của
thị trường truyền thống này.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của nước ta trước đây chủ yếu là các mặt
hàng may mặc, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, dầu thô và hàng nông thuỷ
sản, đồng thời cũng là những mặt hàng chủ lực của nước ta hiện nay. Trong số
các mặt hàng đó, giá trị xuất khẩu dệt may thường chiếm 60-70% tổng giá trị
xuất khẩu sang thị trường này.
Sự phân chia thành nhiều thị trường các quốc gia độc lập hiện nay dẫn tới
những chính sách kinh tế thương mại của mỗi quốc gia khác nhau và các chính
sách ngoại thương cũng khác nhau. Chính vì thế việc xuất khẩu hàng hố của
nước ta sang thị trường các nước này đã thay đổi rất nhiều so với trước kia và
xuất hiện cách thức mới trong quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước SNG.
Do vậy muốn trở lại với thị trường này chúng ta cần phải dựa trên quan hệ
truyền thống làm nền tảng, trong việc tiếp cận thị trường SNG chúng ta cũng
cần xác định nên bắt đầu từ đâu và thị trường nào đóng vai trị quyết định
nhất. Trong thị trường SNG hiện nay, rõ ràng đóng vai trị quyết định nhất
trong quan hệ ngoại thương, đó là thị trường Nga.
Liên bang Nga là nước có diện tích lớn nhất thế giới trải dài trên hai lục
địa Âu và Á, có biên giới giáp với 14 quốc gia cũng như giáp với rất nhiều
biển và đại dương.

16



Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

Nga cũng là một nước đa sắc tộc đa tôn giáo. Tại Nga hiện có hơn 100
dân tộc cùng sinh sống trong đó dân tộc Nga chiếm 81,5%, người Tácta chiếm
3,8% và người Ukraina chiếm 3% dân số. Ngồi ra cịn gần 25 triệu người
Nga sống ở các nước Cộng hịa thuộc Liên Xơ cũ và gần 2 triệu người ở các
nước khác trên thế giới. Phần lớn dân Nga theo đạo Cơ đốc chính thống. Tuy
nhiên, một bộ phận dân số khơng nhỏ là gần 20 triệu người theo đạo Hồi sống
dọc biên giới phía Nam của Nga. Ngồi ra cịn có các tôn giáo khác như đạo
Phật, Do Thái, Thiên Chúa giáo La Mã.
Thị trường Nga đã từng đóng vai trị hết sức quan trọng đối với hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng dệt may nói
riêng. Những biến động về chính trị xã hội của Liên Xô cũ năm 91-92 đã
khiến cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này giảm mạnh,
xuất khẩu hàng dệt may cũng không phải là ngoại lệ. Sau khi Liên Xô tan rã,
kinh tế Nga lâm vào khủng hoảng sâu sắc, sản xuất đình trệ, giá cả leo thang,
đời sống nhân dân sa sút, nợ nước ngồi và nợ khó địi trong nội bộ nền kinh
tế chồng chất. Các chương trình, chính sách kinh tế thiếu thực tế đầu những
năm 1990 như chương trình tư nhân hố ồ ạt cộng với tình hình chính trị bất
ổn càng đẩy nền kinh tế sâu vào vịng xốy khủng hoảng. Khi bắt đầu có
những dấu hiệu phục hồi vào các năm 1996-1997 thì nền kinh tế Nga lại rơi
vào ảnh hưởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997-1998.
Những năm vừa qua, sau một loạt những chương trình cải cách của
Chính phủ thời tổng thống Nga Putin như chương trình cải cách về thuế, cải
cách trong những lĩnh vực "độc quyền tư nhân", cải cách pháp lý, cải cách luật
lao động, cải cách hành chính, cải cách trợ cấp xã hội.v.v. nền kinh tế Liên
Bang Nga đã từng bước thốt ra khỏi khủng hoảng và có những chuyển biến
tích cực: kinh tế đi vào ổn định do chuyển đổi cơ cấu đúng hướng, lạm phát

được kiềm chế, GDP năm1999 là 3,2% và năm 2000 đạt 7,9% tiếp đó trong
17


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

năm 2001 đạt hơn 5%, năm 2002 là 4,3%, trong sáu tháng đầu năm 2003 tăng
7,1% so với cùng kỳ năm 2001. Sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đều
tăng trưởng đáng kể thậm chí năm 2000 Nga đã trở thành nước xuất khẩu
lương thực. ( )
Mặt khác, Nga cũng đã giải quyết được nhiều vấn đề xã hội như: cơ bản
giải quyết nợ lương, từng bước tăng lương hưu, lương ngân sách và lương
quân đội, bước đầu cải thiện được đời sống nhân dân. Tuy vẫn cịn một số khó
khăn cần phải khắc phục như phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu nguyên nhiên
liệu, tỉ lệ thất thoát vốn lớn, khả năng cạnh tranh chưa cao, chưa đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng trong nước...nhưng nền kinh tế Nga đang phục hồi và tăng
trưởng một cách khả quan.
Như vậy Liên Bang Nga đã đạt được sự phát triển ổn định và đó là lý do
rất đáng để chúng ta tin tưởng về một tương lai tốt đẹp của đất nước này.
Hiện tại, kinh tế Nga đang đi theo hướng kinh tế thị trường hiện đại.
Trọng tâm của nền kinh tế Nga không phải là có chuyển hướng kinh tế hay
khơng mà là phải đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế như thế nào cho phù hợp nhất
với riêng nước Nga.
Với quy mô nhập khẩu tới 50 tỷ USD mỗi năm về hàng tiêu dùng, chủ
yếu là nông phẩm và đồ gia dụng, Nga thực sự là một thị trường đầy triển
vọng với Việt Nam. Mặt khác Nga mới chỉ chú trọng phát triển công nghiệp
nặng chứ chưa chú ý đầu tư phát triển sản xuất hàng tiêu dùng cỡ nhỏ như
quần áo, giày dép, nông sản và thực phẩm chế biến, đồ nhựa gia dụng, hàng

thủ công mỹ nghệ, gia vị, đông dược, gỗ ván sàn. Đó cũng là một lợi thế cho
Việt Nam xuất khẩu những hàng hoá tiêu dùng sang thị trường này.
Theo thoả thuận đã đạt được giữa hai nước trong tổng số nợ hàng năm
mà Việt Nam phải trả cho phía Nga, phần lớn trong số đó Việt Nam trả bằng
18


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

hàng hố. Đây là cơ hội tốt cho doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu
trực tiếp hàng hoá sang Nga. Quan trọng hơn là tạo chỗ đứng lâu dài trên cho
hàng hoá Việt Nam tại thị trường Nga.
2.2. Thị hiếu tiêu dùng
Tuy Liên Bang Nga được coi là thị trường truyền thống của ta nhưng sau
những biến động của lịch sử , chắc chắn thị hiếu tiêu dùng của người dân Nga
cũng khác. Trước đây doanh nghiệp Việt Nam khá quen thuộc với thói quen
và sở thích tiêu dùng của người dân Nga, đó là những người tiêu dùng khá dễ
tính khơng địi hỏi quá cao về chất lượng. Hiện nay, hàng may mặc tại thị
trường Nga đã có những thay đổi về cơ bản, tuy khơng khó tính như thị trường
Nhật Bản nhưng thị trường Nga đang tiếp cận ngày một nhanh với thị trường
các nước Châu Âu, các tập đoàn thương mại lớn trên thế giới đầu đã có mặt
tại Nga, ở Châu Âu có hàng hố gì thì Nga cũng có loại hàng đó. Do vậy, yêu
cầu về chất lượng cũng như hình thức sản phẩm ở mức cao với giá cả chấp
nhận được. Hàng có phẩm chất trung bình chỉ có thể tiêu thụ được ở các vùng
nơng thơn.
Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ là hai quốc gia có thị phần may mặc lớn
nhất tại thị trường Nga. Hàng may mặc Trung Quốc có giá rẻ hơn lại đa dạng
hơn về màu sắc cũng như mẫu mã sản phẩm. Hàng Thổ Nhĩ Kỳ có ưu thế về

vận chuyển và giao hàng.
Như vậy những khó khăn khi quay trở về thị trường truyền thống SNG
nói chung và thị trường Nga nói riêng vẫn cịn đang ở phía trước. Điều đó địi
hỏi doanh nghiệp Việt Nam cần có một cách nhìn biện chứng về thị trường
này.
3. THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI, MỘT THỊ TRƯỜNG TIỀM NĂNG CẦN
ĐƯỢC KHAI THÁC

19


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

Quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống Việt Nam- Châu Phi dựa trên
nền tảng vững chắc bởi những nét tương đồng về lịch sử và nguyện vọng thiết
tha về độc lập dân tộc đã được thiết lập từ nhiều năm về trước, trải qua biết
bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, mối quan hệ đó vẫn khơng ngừng được củng
cố và phát triển. Giờ đây trước những diễn biến mới của tình hình quốc tế,
việc tăng cường quan hệ với các nước Châu Phi càng có ý nghĩa quan trọng
trong chính sách đối ngoại "đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế,
chính trị" của Đảng và Nhà nước ta.
3.1.Những nét chung về thị trường Châu Phi
Châu Phi là một châu lục lớn thứ 3 trên thế giới (có diện tích khoảng 31
triệu km2) chia làm hai khu vực chính Bắc Phi và Nam Phi, với 53 quốc gia
Châu Phi chứa đựng trong mình một tiềm năng to lớn đang bắt đầu " thức
giấc". Trên thực tế thị trường Châu Phi rộng lớn với 800 triệu người tiêu dùng
đang trong giai đoạn tái thiết và phát triển, là lực hấp dẫn mạnh mẽ thu hút sự
quan tâm của giới kinh doanh trên tồn thế giới trong đó có Việt Nam.

Hầu hết các nước Châu Phi đều là những nền kinh tế đang phát triển, với
mức thu nhập bình quân ở nhiều nước xấp xỉ 400USD/người/năm. Tuy mức
thu nhập bình quân tính theo đầu người này cịn khá khiêm tốn nếu khơng
muốn nói là thấp nhưng lại có tiềm năng phong phú về tài nguyên thiên nhiên,
khoáng sản, với nguồn lao động dồi dào. Sự ổn định chính trị đang dần trở lại
với châu lục này lại cộng thêm sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế thì chắc chắn
trong một tương lai khơng xa Châu Phi sẽ có một diện mạo mới tươi sáng hơn.
Ngoài Ai Cập và Cộng hoà Nam Phi, Châu Phi vẫn chưa tự xây dựng
được cho mình những ngành cơng nghiệp quan trọng cần thiết để khai thác
nguồn nguyên liệu đa dạng của mình bởi lẽ thiếu vốn để xây dựng nhà máy,
lại chưa đào tạo được nhiều công nhân lành nghề, nhà quản lý và kỹ thuật viên
20


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

tốt nên khơng đủ sức cạnh tranh với nền kinh tế công nghiệp của Mỹ và Châu
Âu. Từ đầu thế kỷ XX và ngay đến hiện tại Châu Phi chỉ có một số ngành
cơng nghiệp tiêu dùng quy mô nhỏ như công nghiệp dệt, thuốc lá, nước giải
khát, giày dép và sản xuất linh kiện ô tô.
Hiện nay nền công nghiệp nhiều nước Châu Phi vẫn chưa tạo lập được vị
trí xứng đáng với ưu thế về tài nguyên. Do vậy ngoại thương đang đóng một
vai trị quan trọng trong việc phát triển kinh tế của lục địa này. Hiện có khoảng
1/4 sản phẩm của châu lục này được xuất khẩu, trong đó dầu khí là mặt hàng
xuất khẩu quan trọng hàng đầu, tiếp đến là cà phê, ca cao, bơng, khí đốt tự
nhiên... Bên cạnh đó, cơ cấu hàng nhập khẩu của các nước Châu Phi nổi bật là
những mặt hàng như máy móc các loại, hố chất, nhựa, hàng dệt may, các sản
phẩm hoá dầu, cao su tự nhiên, hàng tiêu dùng, hàng nông sản (gạo, chè, cà

phê), hàng thủ công mỹ nghệ.
Cơ cấu nhập khẩu trên cho thấy, phần lớn những mặt hàng mà Châu Phi
có nhu cầu nhập khẩu cũng là những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh.
Trong những năm gần đây với mục tiêu tăng cường và mở rộng quan hệ hợp
tác, Việt Nam và các nước Châu Phi đã trao đổi và ký nhiều thoả thuận, hiệp
định song phương trong khuôn khổ pháp lý. Đến nay Việt Nam đã ký với các
nước Châu Phi 15 hiệp định khung về hợp tác kinh tế, thương mại, văn hoá và
khoa học kỹ thuật, 14 hiệp định thương mại, 4 hiệp định khuyến khích và bảo
hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Uỷ ban hỗn hợp về hợp tác với 8
nước Châu Phi cũng đã được thành lập. Năm 1991 trao đổi thương mại hai
chiều mới chỉ đạt 15 triệu USD thì đến nay đã đạt trên 200 triệu USD và đang
tiếp tục trong chiều hướng phát triển. Hàng Việt Nam đã có mặt tại thị trường
44 nước trong khu vực này với nhiều sản phẩm có thế mạnh như gạo, nơng
sản, hàng may mặc, giày dép, hàng gia dụng.

21


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

Theo báo Đầu tư ngày 30/5/2003, 10 bạn hàng nhập khẩu lớn nhất tại
Châu Phi của Việt Nam năm 2001 là các thị trường Nam Phi, Ai Cập, Angola,
Senegan, Angieri, Tanzania, Nigieria, Ghana, Kenya, Gabơng. Trong đó kim
ngạch xuất khẩu sang Nam Phi đạt 29,1 triệu USD, thị trường Ai Cập là 28,6
triệu USD, hai thị trường xếp cuối bảng là Kenya và Gabông lần lượt là 4 triệu
USD và 3 triệu USD.
Như vậy Nam Phi là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam tại Châu Phi. Hiện
nay thị trường này được chúng ta đặc biệt quan tâm do nước này không áp

dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may nhập khẩu, đồng thời cũng mở rộng các
thị trường còn lại ở Châu Phi. Thị trường Nam Phi nói riêng và thị trường
Châu Phi nói chung nằm trong kế hoạch xúc tiến thương mại nhằm tìm kiếm
và khai thác thị trường mới của Nhà nước ta. Do vậy ngành dệt may Việt Nam
có rất nhiều cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu.
Ngoài những điểm chung với các nước còn lại của Châu lục đen, Nam
Phi cịn có những nét riêng biệt. Nam Phi là một thị trường lớn với diện tích
1.221.037 km2 và dân số là 43,7 triệu người. Với mức thu nhập bình quân theo
đầu người là 1200 USD/năm, Nam Phi được xếp vào hàng các nước có thu
nhập cao trong số các nước đang phát triển. Thị trường Nam Phi không phải là
thị trường khó tính vì nhu cầu rất đa dạng. Các sản phẩm cao cấp cũng như
bình dân đều có thể tiêu thụ được tại thị trường này. Trong vài năm trở lại đây,
những cải cách kinh tế được chú trọng như chính sách linh hoạt về ngoại hối,
cơ cấu lại nền kinh tế làm cho đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng, thị
trường nội địa không ngừng mở cửa cho cạnh tranh từ bên ngoài.
Bạn hàng lớn của Nam Phi là EU và Mỹ nhưng Châu Phi cũng là một đối
tác quan trọng của đất nước cực Nam Châu Phi này. Nam Phi hiện là thành
viên của SACU (Liên minh Thuế quan Miền Nam Châu Phi, gồm 5 nước:
Bôtsoana, Lêsôthô, Nammibia, Swaziland, Nam Phi). Thương mại giữa các
22


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

nước thuộc SACU hầu như khơng có cản trở gì và hồn tồn tự do. Cũng
trong khu vực Châu Phi, Nam Phi đã cam kết thành lập một khu vực thương
mại tự do với các thành viên của SADC (Cộng đồng phát triển Miền Nam
Châu Phi) gồm 14 nước Miền Trung và Miền Nam Châu Phi. Như vậy có thể

coi Nam Phi là một cánh cửa để đưa hàng hoá của Việt Nam vào thị trường
các nước Trung và Nam Châu Phi.
Ngoại thương đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước này. Năm
2000 kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 34,3 tỷ USD, đóng góp 45% GDP, nhập
khẩu khoảng 30 tỷ USD. Nam Phi là nước xuất khẩu vàng hàng đầu thế giới.
Ngoài ra, Nam Phi cũng xuất khẩu nhiều mặt hàng khác nhau như kim cương,
các sản phẩm kim loại (sắt, thép), đá q, nơng sản (ngơ, kê), thuốc lá sợi, hố
chất, than, uranium. Cùng với xuất khẩu, Nam Phi cũng nhập khẩu nhiều mặt
hàng như máy móc các loại, dụng cụ khoa học, nhựa, hàng dệt may, dầu
mỏ.v.v.
Hiện Nam Phi đang tuân thủ các hiệp định tự do thương mại với một số
nước như EU, Dimbabue. Trên cơ sở các hiệp định đó, Nam Phi xác định mức
thuế cho mặt hàng may mặc cũng như các mặt hàng khác. Nam Phi cũng đang
tiến hành đàm phán ký kết hiệp định tự do thương mại với Ấn Độ và Trung
Quốc, hai trong số các quốc gia có thế mạnh về ngành dệt may trên thế giới
hiện nay. Mức thuế chung thường dao động từ 20-60%.
Như vậy thị trường Châu Phi nói chung và thị trường Nam Phi nói riêng
là một cánh cửa còn bỏ ngỏ. Trước mắt việc hiệp định thương mại Việt NamNam Phi đã có hiệu lực, trong đó hai nước cam kết dành cho nhau chế độ ưu
đãi tối huệ quốc (MFN) về thuế quan có thể coi là thuận lợi bước đầu cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam có thể thâm nhập
được hay khơng và có thể trụ vững trên thị trường này khơng, điều đó phụ

23


Khố luận tốt nghiệp

Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

thuộc rất nhiều vào sự hiểu biết của doanh nghiệp về những "thượng đế" "lục

địa đen" mà trước hết là thị hiếu tiêu dùng của họ.
3.2. Thị hiếu tiêu dùng
Do chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện tự nhiên của vùng khí hậu nhiệt
đới cận xích đạo nhưng phần lớn đất đai là sa mạc nên hầu hết các nước Châu
Phi chịu ảnh hưởng của khí hậu sa mạc. ở hầu hết lục địa Châu Phi chỉ có hai
mùa là mùa hè và mùa đông. Mùa hè thường bắt đầu vào tháng 9 và kéo dài
cho đến tháng 2. Thời gian còn lại là mùa đơng. Vào mùa hè, nhiệt độ ban
ngày có thể lên tới 35-40 0C nhưng ban đêm nhiệt độ lại hạ xuống 5-7 0C. Vì
vậy, những người thuộc tầng lớp bình dân chủ yếu là người da đen khơng
nhiều tiền ở Châu lục này đều muốn có những chiếc áo lưỡng dụng, vừa có thể
khốc vào ban ngày nhưng cũng đủ ấm cho họ vào ban đêm, giúp họ chống lại
cái khắc nghiệt của những đêm sa mạc
Người da đen ở Nam Phi chiếm khoảng 77% dân số nước này. Nhìn
chung họ thích mặc những loại quần áo vừa túi tiền hoặc rẻ tiền, chủ yếu là
quần jeans, áo thun, áo phơng. Họ khơng phải là người kỹ tính về chất liệu
nhưng vải phải đủ độ bền, màu sắc càng màu mè, càng đậm thì càng được ưa
chuộng.
Người da trắng chiếm 14% dân số Nam Phi. Khác với người da đen, phần
đơng người da trắng thuộc tầng lớp có thu nhập khá cao. Do đó, với họ, tơng
màu được ưa chuộng hơn cả, đó là màu sáng. Người da trắng cũng tỏ ra sành
điệu hơn trong ăn mặc nhất là giới trẻ. Họ chuộng những màu cơ bản kiểu
dáng Châu Âu, nhưng đơn giản và tiết kiệm vẫn là tiêu chí được chú trọng.
Ngồi ra, hàng may mặc Châu Phi cịn phân theo mùa. Thường thì vùng
Đơng Bắc Châu Phi có khí hậu khắc nghiệt hơn cả. Vì vậy yêu cầu về độ bền

24


Khố luận tốt nghiệp


Đồn Thanh Tú-Trung 1-K38E

của vải, độ ấm của quần áo được đặt lên hàng đầu, những tiêu chí cịn lại như
màu sắc, kiểu dáng chỉ là thứ yếu.
Nhìn chung thị trường Châu Phi là thị trường khơng địi hỏi chất lượng
q cao và kỹ tính như thị trường Nhật Bản hay thị trường EU hoặc là thị
trường Mỹ. Những mặt hàng mà thị trường này có nhu cầu doanh nghiệp Việt
Nam hồn tồn có khả năng đáp ứng bởi trình độ phát triển của nước ta có
nhiều điểm phù hợp với các nước Châu Phi. Và thực tế là hầu hết hàng hoá
Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng Châu Phi. Thậm chí
tại thủ đơ Luanda của Angola các mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam như quần
áo, điện tử, xe gắn máy,.v.v được bày bán rộng rãi và có sức tiêu thụ manh tại
khu "Việt Nam town". Đây là một dấu hiệu rất đáng mừng cho hàng hố Việt
Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tìm
được chỗ đứng xứng đáng trên thị trường này tương xứng với tiềm năng mối
quan hệ hợp tác giữa Việt Nam- Châu Phi vì hịa bình và phát triển theo
nguyên tắc cùng có lợi.
4.

MỘT SỐ THỊ TRƯỜNG KHÁC

4.1. Thị trường một số nước trong khu vực
ASEAN là tên gọi tắt của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á được chính
thức thành lập vào ngày 8/8/1967. Ngày 28/7/1995 đã đi vào lịch sử khi Việt
Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN. Lào cũng trở thành thành viên
thứ 8 của hiệp hội vào tháng 7/97. Hiện tại ASEAN đã quy tụ được đầy đủ các
nước trong khu vực Đơng Nam Á làm thành viên của mình.
Cùng với việc ưu tiên thương mại nội khối, ASEAN đã thiết lập những
mối quan hệ kinh tế rộng rãi với các nước đối thoại của mình như: Mỹ, Nhật
Bản, EU, Ơxtraylia, Newzealand, Canada, Hàn Quốc, với các nước thứ 3 khác


25


×