ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRỊNH HUY ANH
QU¶N Lý TßA ¸N ë VIÖT NAM HIÖN NAY QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRỊNH HUY ANH
QU¶N Lý TßA ¸N ë VIÖT NAM HIÖN NAY QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380101.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐẶNG MINH TUẤN
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên
cứu riêng của tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất
cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trịnh Huy Anh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giảng viên PGS.TS. Đặng Minh Tuấn
đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn
thành Luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy
cô giảng viên của khoa Luật thuộc Đại học quốc gia Hà Nội và các thầy cô
cộng tác viên giảng dạy tại Khoa - những người đã tận tình dìu dắt và truyền
đạt những kiến thức khoa học pháp lý bổ ích cho tôi trong suốt khoá học.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thiện Luận văn bằng tất cả sự nhiệt
tình và năng lực của mình, nhưng cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót,
rất mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô.
Học viên
Trịnh Huy Anh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÒA ÁN Ở VIỆT NAM..........8
1.1.
Khái niệm quản lý Tòa án..................................................................8
1.2.
Nội dung quản lý Tòa án..................................................................13
1.2.1. Xây dựng, đề xuất, ban hành các chính sách pháp luật của ngành
Tòa án.................................................................................................13
1.2.2. Quản lý nguồn nhân lực và chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức ngành Tòa án và Hội thẩm................................................15
1.2.3. Bảo đảm các nguồn lực cần thiết phục vụ hoạt động của Tòa án..........21
1.2.4. Quản lý hoạt động nội bộ của Tòa án.................................................24
1.3.
Mối quan hệ giữa quản lý Tòa án với nguyên tắc độc lập của
Tòa án................................................................................................27
1.3.1. Quản lý Tòa án phải bảo đảm tính độc lập trong công tác xét xử
và thực hiện quyền tư pháp.................................................................27
1.3.2. Tư pháp độc lập chi phối quyết định đến tính chất, mô hình,
phương thức quản lý Tòa án...............................................................31
1.4.
Các yếu tố tác động đến quản lý Tòa án.........................................34
1.4.1. Tình hình chính trị - xã hội.................................................................34
1.4.2. Các quy định pháp luật có liên quan đến công tác quản lý Tòa án..........35
1.4.3. Năng lực của đội ngũ công chức, cán bộ ngành Tòa án.....................36
1.4.4. Sự phối hợp của chính quyền, của người dân.....................................36
1.5.
Lịch sử quản lý Tòa án ở nước ta....................................................37
Tiểu kết chương 1..........................................................................................41
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÒA ÁN QUA THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA..................................42
2.1.
Khái quát cơ cấu tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân
tỉnh Thanh Hoá.................................................................................42
2.2.
Thực trạng quản lý Tòa án qua thực tiễn Toà án nhân dân
tỉnh Thanh Hóa.................................................................................46
2.2.1. Những kết quả đạt được......................................................................46
2.2.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được.....................................57
2.2.3. Những hạn chế và tồn tại....................................................................58
2.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế và tồn tại........................................62
Tiểu kết chương 2..........................................................................................70
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN
LÝ TÒA ÁN.......................................................................................71
3.1.
Quan điểm về đổi mới quản lý Tòa án............................................71
3.1.1. Đổi mới quản lý Tòa án nhân dân nhằm đảm bảo tính độc lập
trong thực hiện quyền tư pháp của Tòa án..........................................71
3.1.2. Đổi mới quản lý Tòa án đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp................72
3.1.3. Kế thừa từ các mô hình quản lý Toà án trong lịch sử quản lý Tòa
án ở Việt Nam.....................................................................................74
3.2.
Các giải pháp đổi mới quản lý Tòa án............................................76
3.2.1. Các giải pháp chung............................................................................76
3.2.2. Các giải pháp cụ thể............................................................................83
Tiểu kết chương 3..........................................................................................96
KẾT LUẬN....................................................................................................97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................100
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCTP
Cải cách tư pháp
HĐXX
Hội đồng xét xử
HTND
Hội thẩm nhân dân
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
TAQS
Tòa án quân sự
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ nhu cầu chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ thành quả
cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân nên Tòa án nhân dân
là một trong những cơ quan Nhà nước được hình thành sớm nhất ngay sau khi
cách mạng Tháng Tám thành công. Trước khi Hiến pháp năm 1946 được
thông qua, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 33C - SL ngày 13/9/1945
thành lập hệ thống Tòa án ở nước ta. Với chức năng nhân danh Nhà nước tiến
hành các hoạt động xét xử nhằm mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quá trình phát triển của hệ thống Tòa án đã gắn liền với quá trình hoàn
thiện và củng cố nhà nước ta. Hoạt động xét xử của Tòa án - trung tâm của
hoạt động tư pháp, nơi thể hiện nền công lý, sự đối xử công bằng trong tất cả
các mối quan hệ - là một trong những hoạt động biểu hiện tập trung và được
Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể nhất việc thực thi quyền lực tư pháp.
Qua từng thời kỳ của quá trình đổi mới cơ chế, sắp xếp lại bộ máy quản
lý Nhà nước, hệ thống Tòa án nhân dân của Việt Nam đang dần được thay đổi
từng bước để phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay như: Từ
chế độ Thẩm phán bầu chuyển sang chế độ Thẩm phán bổ nhiệm, từ chỗ Chủ
tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán thì nay việc bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện
và cấp tỉnh do Chánh án TANDTC thực hiện; từ việc Bộ Tư pháp quản lý các
Tòa án ở địa phương thì nay TANDTC quản lý các Tòa án địa phương về mặt
tổ chức; một số Tòa chuyên trách được thành lập như Tòa lao động, Tòa hành
chính và Tòa kinh tế ở TANDTC và các Tòa án cấp tỉnh..v.v..
Hiện nay, Chiến lược CCTP đến năm 2020 đang được thực hiện và có
tác động mạnh mẽ tới quá trình xây dựng pháp luật và cải cách thể chế. Chiến
lược CCTP đã xác định: “Tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là hoạt động trọng
1
tâm”. Các hoạt động CCTP được thực hiện xoay quanh trục trung tâm là tổ
chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân. Các hoạt động cải cách,
hoàn thiện đối với Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra và các cơ quan tư
pháp khác đều phải dựa trên những cải cách và thực tiễn tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân.
Vấn đề quản lý Toà án là một vấn đề then chốt của việc tổ chức lại bộ
máy, cơ chế hoạt động của hệ thống Toà án. Thực tiễn ở Việt Nam từ năm
1945 trở lại đây cho thấy cơ chế và cách thức quản lý Tòa án về tổ chức có sự
thay đổi qua các giai đoạn lịch sử cụ thể, phụ thuộc vào yêu cầu chính trị, tổ
chức bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn quản lý cho thấy các mô hình này
đều chưa thật thành công và phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Mặc dù là
một cơ quan tư pháp nhưng cơ chế quản lý Tòa án hiện nay đã làm cho Tòa án
nhân dân trở nên giống một cơ quan hành chính như các Bộ, cơ quan ngang
Bộ thuộc hệ thống cơ quan hành pháp hiện nay. Chánh án TANDTC phải thực
hiện công tác quản lý tất cả đội ngũ cán bộ thuộc biên chế của TAND các cấp,
thường xuyên thực hiện các chính sách cán bộ như đề bạt, nâng lương, thi
đua, khen thưởng, kỷ luật,... quản lý cơ sở vật chất của ngành Tòa án từ Trung
ương đến địa phương, điều này làm cho Chánh án TANDTC không còn thời
gian để tập trung vào việc thực hiện nhiệm vụ chính là công tác xét xử và
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử
của các cấp Tòa án và trong nội bộ Tòa án.
Mô hình quản lý Toà án cần phải được tổ chức thích hợp để bảo đảm
hiệu quả của hoạt động xét xử. Đây là một vấn đề có tính thời sự, cần thiết và
cấp bách, nhất là khi Toà án đang nỗ lực xây dựng hình ảnh là một thiết chế
được người dân, doanh nghiệp tin cậy trong giải quyết tranh chấp. Đồng thời,
vấn đề quản lý Toà án cũng cần phải được nghiên cứu để thúc đẩy quyền tư
pháp trong mối quan hệ “phân công, kiểm soát và phối hợp” với các quyền
lập pháp và quyền hành pháp.
2
Với những lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài: "Quản lý Tòa án ở
Việt Nam hiện nay - qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa" để làm luận văn thạc sỹ
chuyên ngành luật hiến pháp - hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân nói chung hay quản lý Tòa án nói riêng, trong thời gian qua ở nước ta đã
có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu như: Báo cáo
khảo sát về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở
Việt Nam” năm 2012 do Văn phòng luật sư NHQuang & Cộng sự thực hiện
trong khuôn khổ của Dự án 00058492 “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo
vệ quyền tại Việt Nam”; Đề tài khoa học cấp Bộ “Hoàn thiện cơ chế quản trị
Tòa án để đảm bảo độc lập theo tinh thần Hiến pháp năm 2013” do TS.
Nguyễn Văn Hiển - Ủy viên thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội làm
chủ nhiệm, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, 2018; Luận văn “Đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp”
của Phan Đức Phương, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2007; Các luận
án tiến sĩ: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp theo hướng
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của Trần Huy Liệu, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2003; “Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay” của Lê Thành Dương, Viện nghiên cứu Nhà nước
và Pháp luật, Hà Nội, 2002.
Những công trình nghiên cứu kể trên đã cung cấp một khối lượng kiến
thức, thông tin lớn về đề tài. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quý báu cho học
viên thực hiện luận văn này. Mặc dù vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu đã
nêu đều chưa cập nhật những đổi mới trong pháp luật và thực tiễn quản lý Tòa
án trong thời gian gần đây. Thêm vào đó, chưa có công trình nào đề cập riêng
về thực trạng quản lý Tòa án ở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Vì vậy, luận
văn này vẫn cần thiết và có giá trị về lý luận và thực tiễn.
3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý Tòa án
và phân tích thực trạng công tác quản lý Tòa án trong thực tiễn hoạt động quản
lý của TAND tỉnh Thanh Hóa, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề
xuất những giải pháp đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý Tòa án ở nước ta đáp
ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, các nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác quản
lý Tòa án ở nước ta.
- Khảo sát, phân tích thực trạng trong hoạt động quản lý của TAND tỉnh
Thanh Hóa trong những năm trở lại đây, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện cơ chế
quản lý Tòa án ở nước ta đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền
và hội nhập quốc tế từ thực tiễn công tác quản lý của TAND tỉnh Thanh Hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, pháp lý cơ
bản và thực tiễn về quản lý Tòa án từ thực tiễn hoạt động quản lý của Tòa án
nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định cơ
bản của pháp luật Việt Nam về quản lý Tòa án. Về thực trạng quản lý Tòa án
tại tỉnh Thanh Hóa, thực tế từ trước đến nay cho thấy các nội dung về xây
dựng, đề xuất, ban hành các chính sách pháp luật của ngành Tòa án và Quản
4
lý hoạt động nội bộ của Tòa án không được thể hiện hoặc được thể hiện
nhưng không nổi bật ở cấp tỉnh. Do vậy, người viết chỉ tập trung tìm hiểu,
phân tích thực trạng quản lý Tòa án tại TAND tỉnh Thanh Hóa về các mặt:
quản lý nguồn nhân lực và chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức trong
Tòa án; quản lý Hội thẩm; và bảo đảm các nguồn lực cần thiết phục vụ hoạt
động của Tòa án.
Về không gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng trong hoạt
động quản lý của TAND tỉnh Thanh Hóa, không mở rộng đến các cấp toà án
khác ở Thanh Hoá cũng như TAND ở các địa phương khác.
Về thời gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng công tác quản
lý Tòa án trong thực tiễn hoạt động quản lý của TAND tỉnh Thanh Hóa trong
5 năm trở lại đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng, Nhà nước Việt Nam về tổ chức và hoạt động của TAND. Tác giả đồng
thời vận dụng một số lý thuyết về pháp quyền, kiểm soát quyền lực, độc lập
tư pháp và nhân quyền để làm cơ sở cho việc phân tích, giải quyết các câu hỏi
nghiên cứu của đề tài.
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của
khoa học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Cụ thể:
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu
hiện có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp lý
liên quan đến quản lý Tòa án trong thực tiễn quản lý của TAND ở nước ta
hiện nay (ở Chương 1).
- Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu,
5
báo cáo chuyên môn của TAND Tối cao, TAND tỉnh Thanh Hoá và phương
pháp quan sát thực tế để đánh giá thực trạng công tác quản lý Tòa án trong
thực tiễn hoạt động quản lý của TAND tỉnh Thanh Hóa trong những năm trở
lại đây (ở Chương 2).
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các quan
điểm, giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý Tòa án ở nước ta
đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế từ
thực tiễn hoạt động quản lý của TAND tỉnh Thanh Hoá (ở Chương 3).
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về cơ chế quản lý của
TAND được thực hiện ở tỉnh Thanh Hoá từ trước tới nay. Luận văn cũng là
một trong số không nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện từ
thực tiễn cơ sở về chủ đề này đã được thực hiện ở nước ta. Vì vậy, luận văn
cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất mới có giá trị tham
khảo với việc nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Tòa án ở tỉnh Thanh Hoá
và hoàn thiện cơ chế quản lý Tòa án ở nước ta trong thời gian tới.
Luận văn cũng góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng của độc lập xét xử
trong quá trình cải cách tư pháp, đổi mới, sắp xếp lại hệ thống Tòa án theo
thẩm quyền xét xử, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Qua đó đưa ra phương hướng hoàn thiện các quy định của Hiến pháp và
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở Việt Nam theo quan
điểm khoa học, hiện đại, đảm bảo tính độc lập tư pháp.
Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài liệu tham
khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu chuyên ngành luật hiến pháp và luật
hành chính ở Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo
khác của nước ta.
6
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý Tòa án ở Việt Nam
- Chương 2: Thực trạng quản lý Tòa án qua thực tiễn Tòa án nhân dân
tỉnh Thanh Hóa.
- Chương 3: Quan điểm và các giải pháp đổi mới quản lý Tòa án.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÒA ÁN Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm quản lý Tòa án
Khái niệm “quản lý Tòa án” là khái niệm thường xuyên được sử dụng
trong các văn bản pháp luật cũng như có đề cập khá phổ biến trong các báo
cáo nội bộ của ngành Tòa án. Trên thực tế, còn một số khái niệm khác có liên
quan được sử dụng với những nội hàm đan xen khác nhau về quản lý Tòa án
như “quản trị Tòa án”, “quản lý về mặt tổ chức của toà án”, “quản lý các
Tòa án địa phương” hoặc “hành chính tư pháp”...
Theo định nghĩa của Hiệp hội Quốc gia Quản lý Tòa án của Hoa Kỳ
(CORE), quản lý Tòa án (Court Administration) và quản trị Tòa án (Court
Governance) có nội hàm tương tự nhau về mặt nội dung, là tạo ra khuôn khổ
theo đó Tòa án hoạt động, quản lý hàng ngày các hoạt động và xây dựng các
chiến lược dài hạn. Theo tổ chức này, quản trị đặt ra các kế hoạch, sự chỉ đạo,
lãnh đạo và các chiến lược cho tổ chức (Tòa án) và chỉ tập trung vào “bức
tranh lớn”, bao gồm các hoạt động cơ bản như lập kế hoạch, xây dựng các
chiến lược, kế hoạch của Tòa án; thiết lập cơ cấu tổ chức của Tòa án; quyết
định các quy định về quản lý quy trình xét xử và xử lý công việc nội bộ; quyết
định các chính sách nhân sự đối với toàn bộ các nhân viên Tòa án; xây dựng
đề xuất và phân bổ ngân sách; quyết định các thỏa thuận hợp đồng với các
nhà cung cấp, nhà thầu và nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài [33], [35], [38].
Trong thuật ngữ tiếng Anh, cụm từ “Court Administration” được sử
dụng thường xuyên hơn so với cụm từ “Court Governance” còn trong ngôn
ngữ tiếng Việt, quản lý Tòa án được sử dụng thường xuyên và chính thức hơn
so với những khái niệm như “quản trị Tòa án”, “quản lý về mặt tổ chức của
toà án”, “quản lý các Tòa án địa phương” hoặc “hành chính tư pháp”.
8
Theo quy định tại Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì Tòa án nhân dân
Tối cao quản lý các Tòa án nhân dân về mặt tổ chức [24, Điều 18, 20].
Mặt khác, theo TS. Nguyễn Đức Khuê, Viện Khoa học pháp lý, Bộ
Tư pháp:
Quản lý về mặt tổ chức của Toà án là một hình thức quản lý
Nhà nước có nội dung là việc xây dựng các điều kiện cần thiết để
hình thành, vận hành các cơ quan xét xử và để đảm bảo việc thực
hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật. Các điều kiện cần thiết này chính là con người, tổ chức,
trụ sở, kinh phí, phương tiện hoạt động cho các Toà án mà những cơ
quan chức năng của Nhà nước phải bảo đảm [13].
Theo Luật Tổ chức TAND 2014 thì “Quản lý các Tòa án địa phương”
là việc TANDTC quản lý về mặt tổ chức đối với các Tòa án địa phương (các
Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện) gồm các hoạt động sau: Quyết định luân
chuyển, điều động, biệt phái Thẩm phán, trừ Thẩm phán TANDTC; Quyết
định việc tổ chức Tòa chuyên trách theo quy định; quy định cơ cấu tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị thuộc bộ máy giúp việc của TAND theo
quy định; Quyết định phân bổ biên chế, số lượng Thẩm phán, ngân sách chi
cho hoạt động của các TAND; Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức
danh Phó Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chánh
án và Phó Chánh án TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương; Trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm
phán các Tòa án khác; Trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành
lập, giải thể TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; TAND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tổ chức kiểm tra việc thực
hiện biên chế, quản lý cán bộ, quản lý và sử dụng ngân sách, cơ sở vật chất
của TAND; Tổ chức công tác đào tạo; bồi dưỡng Thẩm phán, Hội thẩm và các
chức danh khác của TAND [24, Điều 27].
9
Từ những quy định trên, có thể nhận thấy hoạt động quản lý Tòa án là
một hoạt động pháp lý, được tiến hành bởi chủ thể quản lý là cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, mà ở đây chính là Tòa án nhân dân tối cao. Khách thể
của hoạt động quản lý tòa án là những đối tượng mà chủ thể hoạt động quan
tâm, hướng tới, đó là việc xây dựng các điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo
nguyên tắc độc lập của Tòa án. Chủ thể và khách thể của hoạt động này chịu
sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, trong đó chủ yếu là Luật Tổ chức
TAND 2014.
“Hành chính tư pháp” trong hoạt động của Tòa án chưa được quy định
cụ thể tại một văn bản pháp quy nào. Một số nghị quyết đề cập đến công tác
hành chính trong hoạt động tư pháp thì đặt ra yêu cầu:
Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý… và
phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm,
quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng
quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm
phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập
và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố
tụng của mình… [3].
Theo Nguyên Chánh án TANDTC Trương Hoà Bình, thủ tục hành chính
tư pháp trong hoạt động của Tòa án được hiểu là các quy trình, thủ tục mang
tính chất hành chính hỗ trợ cho hoạt động xét xử tại Tòa án, giải quyết các yêu
cầu của người dân trước và sau các phiên tòa xét xử và các hoạt động quản lý,
chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Tòa án các cấp. Hoạt động này bao gồm việc
tiếp dân; tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, hồ sơ kháng cáo, kháng nghị, hồ
sơ do Viện Kiểm sát chuyển đến, đơn khiếu nại, công văn; phân công giải
quyết vụ án; cấp sao lục bản án, quyết định của Tòa án; quản lý số lượng án
đầu vào, đầu ra, án tồn; bố trí hội trường xét xử và thủ tục quản lý, trao đổi
10
thông tin phục vụ cho sự chỉ đạo, quản lý các lĩnh vực công tác của lãnh đạo
Tòa án các cấp [2].
Dựa trên những quan điểm nêu trên, có thể phân loại công tác Hành
chính tư pháp gồm hai nhóm chính là công tác hành chính tư pháp trong hoạt
động của Tòa án và công tác hỗ trợ hoạt động xét xử. Trong đó, công tác hành
chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án bao gồm những công việc như nhận
đơn khởi kiện, nhận đơn khiếu nại, hỗ trợ người dân thực hiện các thủ tục
hành chính tư pháp còn công tác hỗ trợ hoạt động xét xử gồm có việc phân
công án, theo dõi và bảo đảm thời hạn tố tụng và tổ chức phiên toà. Công tác
hành chính tư pháp tại Toà án không chỉ hỗ trợ cho các hoạt động tố tụng do
Toà án thực hiện, hỗ trợ các hoạt động quản lý, điều hành của Toà án mà công
tác này còn phải tạo điều kiện thuận lợi để người dân dễ dàng tiếp cận các
thông tin, dịch vụ của Tòa án [31].
Thuật ngữ “quản trị Toà án” rất ít khi được đề cập trong các tài liệu
chính thức tại Việt Nam, đặc biệt là trong ngành Toà án. Thuật ngữ này được
sử dụng lần đầu tiên trong Báo cáo khảo sát Thực trạng quản lý hành chính
Tòa án nhân dân địa phương ở Việt Nam năm 2012, “quản trị Tòa án” được
sử dụng khi tập trung khai thác, làm rõ mối quan hệ quản lý giữa cơ quan Tòa
cấp trên và cơ quan Tòa cấp dưới trong công tác quản lý của Tòa án [31]. Bao
gồm các hoạt động cụ thể sau đây: Tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán; chế độ
công tác (luân chuyển, đề bạt, khen thưởng và xử lý vi phạm, nguyên tắc độc
lập trong xét xử), điều kiện làm việc (quy chế quản lý nội bộ, đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ và phương tiện tác nghiệp) và các vấn đề có liên quan.
Theo những cách hiểu trên thì có thể thấy, quản lý Tòa án có nội hàm
đan xen với các khái niệm liên quan như quản trị Tòa án, quản lý hành chính
tư pháp, quản lý về mặt tổ chức của Tòa án hay quản lý các Tòa án địa phương.
11
Tuy nhiên, các khái niệm quản lý hành chính tư pháp, quản lý về mặt tổ chức
của Tòa án hay quản lý các Tòa án địa phương có nội hàm hẹp hơn so với
khái niệm quản lý Tòa án và khái niệm quản trị Tòa án. Bởi vì, quản trị hay
quản lý Tòa án không chỉ bao gồm các hoạt động “quản lý hành chính”,
“quản lý Tòa án địa phương”, “quản lý về mặt tổ chức của Tòa án” mà còn
bao gồm các vấn đề lớn hơn, quan trọng hơn như xây dựng, thực thi các chính
sách, chiến lược Tòa án.
Thực tế, các thuật ngữ “quản lý Tòa án”, “quản trị Tòa án”, “quản lý
hành chính tư pháp”, “quản lý về mặt tổ chức của Tòa án” hoặc “quản lý
các Tòa án địa phương”, được sử dụng không thống nhất, nhiều khi hay
nhầm lẫn vì mỗi thuật ngữ này có nội dung khác nhau tùy vào ngữ cảnh sử
dụng chúng. Việc sử dụng thuật ngữ nào cần căn cứ vào tính chất của mối
quan hệ mà Tòa án tham gia [17].
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hai thuật ngữ “quản trị Tòa án” và
“quản lý Tòa án” được dùng thay thế nhau, mặc dù về mặt pháp lý ở Việt
Nam chỉ sử dụng khái niệm quản lý Tòa án. Do đó, để bám sát yêu cầu nghiên
cứu và phù hợp về mặt pháp lý ở nước ta, luận văn này sử dụng thuật ngữ
công tác “quản lý toà án” nhằm tập trung phân tích về hoạt động quản lý Tòa
án ở nước ta chủ yếu về mặt tổ chức.
Từ các phân tích trên, có thể đưa ra một khái niệm khái quát đó là:
“Quản lý Toà án là một hoạt động pháp lý, được tiến hành bởi chủ thể là Tòa
án nhân dân tối cao, khách thể chung của hoạt động là việc xây dựng các
điều kiện cần thiết để hình thành và vận hành có hiệu quả các cơ quan xét xử.
Các điều kiện cần thiết này chính là con người, tổ chức, trụ sở, kinh phí,
phương tiện hoạt động cho các Toà án mà những cơ quan chức năng của Nhà
nước phải bảo đảm.”
12
1.2. Nội dung quản lý Tòa án
1.2.1. Xây dựng, đề xuất, ban hành các chính sách pháp luật của
ngành Tòa án
Trong việc xây dựng, đề xuất, ban hành các chính sách pháp luật của
ngành Tòa án gồm có hai nội dung cơ bản đó là việc xây dựng, đề xuất Quốc
hội thông qua các chính sách; và Tòa án tự quyết định, ban hành các chính
sách cho ngành Tòa án. Việc đề xuất, chiến lược chính sách pháp luật phải
yêu cầu đảm bảo tính độc lập của Tòa án.
Ở hầu hết các nước theo mô hình quản lý Tòa án Hội đồng tư pháp, Hội
đồng tư pháp có quyền đưa ra các đề xuất lập pháp liên quan đến bảo vệ công
lý và các chức năng của ngành tư pháp, luật tố tụng... (Bỉ, Bulgaria, Croatia,
Đan Mạch, Hungary, Ý, Latvia, Lithuania, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha,
Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha...). Ví dụ như ở Tây Ban Nha, Hội đồng tư
pháp có thẩm quyền đưa ra các ý kiến và khuyến nghị về các vấn đề pháp luật
liên quan đến tư pháp, thủ tục tư pháp, các quyền cơ bản, luật hình sự và luật
hình phạt tù. Tại Latvia, cơ quan lập pháp có trách nhiệm lắng nghe, tôn trọng
ý kiến của Hội đồng Tư pháp đặc biệt là những vấn đề về Tòa án theo nguyên
tắc phân chia quyền lực.
Tại Pháp, Bộ Tư pháp có chức năng quản lý thống nhất hệ thống Tòa
án, đề ra những định hướng lớn, xây dựng những khuôn khổ chung cho hoạt
động quản lý Tòa án các cấp, quản lý nhân sự, xây dựng và cấp ngân sách cho
Tòa án các cấp.
Nhìn chung, trong hệ thống tư pháp ở nhiều quốc gia trên thế giới cơ
quan quản lý Tòa án không thuộc hệ thống phân cấp của hệ thống Tòa án, do
đó, không chịu áp lực từ bên trong ngành tư pháp, đồng thời không can thiệp
vào chuyên môn mà chỉ là cơ quan bảo đảm độc lập tư pháp.
13
Ở Việt Nam, theo quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2015, cơ quan quản lý Tòa án là Tòa án nhân dân tối cao vừa trình
Quốc hội thông qua các chính sách của ngành Tòa án, vừa tự ban hành văn
bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
Điều 32. Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan, tổ chức
1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân
tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ
chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc
hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội thì có
quyền đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh.
2. Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải dựa trên các căn cứ
sau đây:
a) Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước;
b) Kết quả tổng kết thi hành pháp luật hoặc đánh giá thực trạng
quan hệ xã hội liên quan đến chính sách của dự án luật, pháp lệnh;
c) Yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội; bảo
đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh;
d) Cam kết trong điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên [25, Điều 32].
Điều 21. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành,
nghị quyết để hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật trong
xét xử thông qua tổng kết việc áp dụng pháp luật, giám đốc việc
xét xử [25, Điều 21].
14
Đi sâu vào nghiên cứu, quy định như vậy phần nào dẫn đến tình trạng
chưa rõ ràng, chưa thật khoa học trong việc “phân công” giữa quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp nói chung. Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập
pháp nhưng cơ quan hành pháp lại ban hành rất nhiều văn bản pháp quy theo
ủy quyền lập pháp hoặc thẩm quyền của mình; TANDTC cũng có thẩm quyền
ra văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Thẩm quyền hủy bỏ văn
bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành pháp lại giao cho cơ quan lập pháp
mà không phải cơ quan tư pháp... Do phân công quyền lực chưa thật hợp lý
dẫn đến việc xác định cơ chế “phối hợp” thiếu nhịp nhàng, trong nhiều trường
hợp không rõ trách nhiệm của cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, một số
trường hợp lại tạo ra khoảng trống quyền lực [11].
1.2.2. Quản lý nguồn nhân lực và chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức ngành Tòa án và Hội thẩm
* Đối với Thẩm phán: Vấn đề này, dù có nhiều mô hình quản lý Tòa án
khác nhau trên thế giới nhưng các mô hình đều có điểm chung là:
Thứ nhất, nhiệm kỳ của Thẩm phán phải được đảm bảo lâu dài, có thể
là suốt đời với chế độ lương bổng tương xứng và không thể bị các các yếu tố
chính trị chi phối, nhất là từ hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp.
Thẩm phán là một nghề đặc thù luôn phải chịu nhiều sức ép từ dư luận cũng
như bị đe dọa bởi các thế lực nguy hiểm trong xã hội, nếu chỉ được bổ nhiệm
với một nhiệm kỳ ngắn ngủi, chế độ lương bổng không tương xứng thì Thẩm
phán chắc chắn sẽ không có được một tinh thần độc lập và cương quyết. Một
chế độ lương bổng phù hợp, sẽ giúp họ làm việc công tâm, luôn giữ gìn phẩm
chất đạo đức và ý chí bảo vệ công lý, tránh mọi sự cám dỗ, chi phối bằng vật
chất bởi các thế lực tác động tiêu cực từ bên ngoài đối với các phán quyết của
họ, đủ để thu hút và giữ các Thẩm phán đủ điều kiện, giúp họ hỗ trợ gia đình
họ và sống trong một môi trường an toàn hợp lý mà không cần phải dựa vào
các nguồn thu nhập khác.
15
Thứ hai, đối với công tác tuyển chọn Thẩm phán, để Tòa án độc lập xét
xử, Thẩm phán cần phải được tuyển chọn trên cơ sở có đầy đủ năng lực, phẩm
chất và tính độc lập. Việc bổ nhiệm Thẩm phán phải bảo đảm người được bổ
nhiệm là những người có phẩm chất phù hợp nhất cho công tác xét xử.
Việc bổ nhiệm Thẩm phán để thực hiện chức năng xét xử là một vấn đề
quan trọng trong hoạt động quản lý hệ thống Tòa án. Nghiên cứu kinh nghiệm
một số quốc gia cho thấy, có nhiều các thức hình thành nên đội ngũ Thẩm
phán, và mỗi các thức cũng có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Có thể
khái quát các phương thức tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán chính sau:
- Theo chế độ bổ nhiệm Thẩm phán thì người được tuyển chọn làm
Thẩm phán do người có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm. Chế độ này có
những ưu điểm Thẩm phán được bổ nhiệm sẽ yên tâm công tác, có điều kiện
tích lũy kinh nghiệm xét xử, nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức pháp luật
và trách nhiệm cá nhân. Tuy nhiên, cơ chế bổ nhiệm này đòi hỏi có quy trình,
thủ tục bổ nhiệm chặt chẽ và cơ quan bổ nhiệm đảm bảo tính độc lập, khách
quan nhằm tránh tình trạng người có thẩm quyền bổ nhiệm sẽ can thiệp vào
hoạt động xét xử của Thẩm phán được bổ nhiệm.
Để có thể lựa chọn được đội ngũ Thẩm phán có năng lực, có trình độ
chuyên môn, có kinh nghiệm sống phong phú, phẩm chất đạo đức nhằm đảm
bảo thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử thì việc chọn xét và đề nghị bổ nhiệm
Thẩm phán trong bất kỳ mô hình nào cũng cần phải tuân theo một trình tự,
thủ tục chặt chẽ, khách quan, minh bạch, loại trừ những can thiệp sai trái tác
động vào quá trình tuyển chọn. Các tiêu chuẩn phải được quy định cụ thể từ
trước về chất lượng, năng lực, chuyên môn và phẩm chất cá nhân, sức khỏe,
tinh thần trách nhiệm, có kinh nghiệm thực tế,... ở nhiều nước trên thế giới,
đặc biệt là các nước thuộc EU đã hình thành Hội đồng tư pháp - một thiết chế
độc lập với các nhánh hành pháp, lập pháp và tư pháp có chức năng quản lý tư
16
pháp trong đó có các thẩm quyền khác nhau liên quan đến bổ nhiệm Thẩm
phán. Thành phần của Hội đồng tư pháp được lựa chọn khách quan, chủ yếu
được bầu với sự tham gia rộng rãi của các chủ thể trong giới Thẩm phán,
Công tố viên, các luật sư giỏi, các luật gia và có kinh nghiệm công tác...
- Phương thức tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán thông qua việc tổ
chức các kỳ thi quốc gia
Theo phương thức này, các ứng viên cho chức danh Thẩm phán phải
trải qua những chương trình đào tạo chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và
phải trải qua các kỳ thi để lựa chọn Thẩm phán. Điển hình áp dụng mô hình
này là Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc... Ví dụ như ở Đức, ứng cử viên Thẩm phán
phải là người đã vượt qua kỳ thi tư pháp quốc gia lần thứ hai, phải nộp đơn
lên Bộ trưởng Bộ Tư pháp đề nghị được làm Thẩm phán. Nếu được chấp
nhận, họ sẽ được bổ nhiệm làm “Thẩm phán thử việc”, thời gian thử việc là
05 năm kể từ ngày bổ nhiệm; nếu họ đã là công chức, thời gian thử việc là 02
năm. Sau khi kết thúc thời gian thử việc, Thẩm phán thử việc có thể được bổ
nhiệm làm Thẩm phán chính thức. Việc bổ nhiệm Thẩm phán ở các bang rất
khác nhau, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bang có vai trò quyết định trong việc bổ
nhiệm Thẩm phán của Tòa án thẩm quyền chung.
- Phương thức tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán thông qua cơ chế
Hội đồng tuyển chọn
Đây là phương thức hiện đang được khá nhiều quốc gia áp dụng, theo
đó, căn cứ vào các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp,
tiêu chuẩn đạo đức, uy tín, các ứng viên sẽ được thông qua tuyển chọn của
một Hội đồng. Thông thường các Hội đồng này bao gồm đại diện của các cơ
quan như Tòa án, Bộ Tư pháp, Hiệp hội Luật sư, một số cơ quan của Nghị
viện... Như mô hình của Thái Lan, Hội đồng Tư pháp gồm 13 thành viên,
Chánh án Tòa án tối cao là Chủ tịch, các Ủy viên hội đồng được bầu trong số
17
các Thẩm phán ở tất cả các cấp của Tòa án Công lý, trong đó 04 thành viên
còn lại được bầu trong số 100 Thẩm phán bậc cao của các Tòa sơ thẩm. Hội
đồng thực hiện việc tuyển chọn Thẩm phán để Nhà Vua bổ nhiệm, luân
chuyển, đề bạt và kỷ luật các Thẩm phán.
Phương thức tuyển chọn thông qua Hội đồng này có ưu điểm là hạn
chế được những yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài, đồng thời đảm bảo được sự
công khai, minh bạch cũng như tính đa dạng trong nguồn tuyển chọn và bổ
nhiệm Thẩm phán.
- Phương thức bầu cử
Cơ chế bầu cử được tiến hành thông qua cử tri trực tiếp hay gián tiếp
thông qua đại biểu cử tri lựa chọn. Chế độ này có ưu điểm là bảo đảm quyền
dân chủ trực tiếp của người dân trong hoạt động xét xử và Thẩm phán sẽ có
tính độc lập hơn so với quyền lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, cơ chế này
có những hạn chế sau: (i) cơ chế này thường nặng về hình thức bởi việc đánh
giá về trình độ chuyên môn pháp lý và phẩm chất đạo đức của người được
tuyển chọn khó chính xác; (ii) có thể dẫn đến tình trạng Thẩm phán không chú
trọng vào hoạt động tích lũy kinh nghiệm xét xử, nâng cao trình độ chuyên
môn mà có xu hướng ra các phán quyết phù hợp với dư luận, báo chí để lấy
lòng người dân trong lần bầu cử tiếp theo; (iii) nhiệm kỳ của Thẩm phán phụ
thuộc vào nhiệm kỳ bầu cử nên thường ngắn, không phù hợp với hoạt động
nghề nghiệp của Thẩm phán.
Theo phương thức này, các chức vụ quản lý của hệ thống Tòa án như
Chánh án, Phó Chánh án hoặc các Thẩm phán được giới thiệu và bầu. Những
người được bầu sẽ chịu trách nhiệm trước cơ quan bầu ra mình. Áp dụng mô
hình này có một số bang của Hoa Kỳ, Trung Quốc.
Thứ ba, kỷ luật, bãi nhiệm Thẩm phán là các hình thức xử lý đối với
những vi phạm của Thẩm phán với các hình thức khác nhau tùy theo nội
18