Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Vai trò của viện kiểm sát trong việc kiểm sát hoạt động xét xử của tòa án ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.3 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VIỆT DŨNG

VAI TRß CñA VIÖN KIÓM S¸T
TRONG VIÖC KIÓM S¸T HO¹T §éNG XÐT Xö
CñA TßA ¸N ë N¦íC TA HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VIỆT DŨNG

VAI TRß CñA VIÖN KIÓM S¸T
TRONG VIÖC KIÓM S¸T HO¹T §éNG XÐT Xö
CñA TßA ¸N ë N¦íC TA HIÖN NAY
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380101.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Việt Dũng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Chức năng thực hành quyền công tố.........................................................14
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng......................16

LỜI
CAM
ĐOAN
.............................................................................................................................
i
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của
Khoa
Luật
Đại
học
Quốc
gia

Nội.
.............................................................................................................................
i
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ
Luận
văn.
.............................................................................................................................
i
Tôi

xin

chân

thành

cảm


ơn!


.............................................................................................................................
i
NGƯỜI
CAM
ĐOAN
.............................................................................................................................
i
MỤC
LỤC
.............................................................................................................................
ii
Trang
.............................................................................................................................
ii
Trang
phụ
bìa
.............................................................................................................................
ii
Lời
cam
đoan
.............................................................................................................................
ii
Mục
lục
.............................................................................................................................

ii
.............................................................................................................................
ii
MỞ
ĐẦU
.............................................................................................................................
1
Chương
1
.............................................................................................................................
6
1.1. Khái quát về vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân


.............................................................................................................................
6
1.2. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố,
kiểm sát xét
xử các vụ án hình sự của tòa án
.............................................................................................................................
9
1.2.1. Khái quát một số quy định của pháp luật về công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
.............................................................................................................................
9
1.2.2. Vai trò của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát hoạt động xét xử vụ án
hình
sự
của
Tòa

án
.............................................................................................................................
19
1.3. Khái quát một số quy định của pháp luật về kiểm sát hoạt động xét xử vụ,
việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính
và những việc khác theo quy định của pháp luật của Tòa án
.............................................................................................................................
24
1.4. Vai trò của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát hoạt động xét xử vụ, việc
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính và
những việc khác theo quy định của pháp luật của Tòa án
.............................................................................................................................
31
KẾT
LUẬN
CHƯƠNG
1
.............................................................................................................................
36
Chương

2


.............................................................................................................................
37
THỰC
TRẠNG
VAI
TRÒ

CỦA
VIỆN
KIỂM
SÁT
.............................................................................................................................
37
TRONG KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
.............................................................................................................................
37
2.1. Thực trạng vai trò của Viện kiểm sát trong kiểm sát xét xử án hình sự của
Tòa
án
.............................................................................................................................
37
2.1.1.
Thực
trạng
.............................................................................................................................
37
2.1.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động thực hành quyền công
tố

kiểm
sát
xét
xử
hình
sự
.............................................................................................................................
42

2.2. Thực trạng vai trò của Viện kiểm sát trong kiểm sát xét xử án dân sự
.............................................................................................................................
48
2.2.1. Thực trạng về vai trò Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà dân sự
theo
Bộ
luật
tố
tụng
dân
sự
năm
2015
.............................................................................................................................
48
2.2.2. Hạn chế, bất cập của Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa dân sự
.............................................................................................................................
52
Chương

3


.............................................................................................................................
57
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
.............................................................................................................................
57
CÔNG
TÁC

KIỂM
SÁT
XÉT
XỬ
CÁC
VỤ
ÁN
.............................................................................................................................
57
3.1.
Một
số
giải
pháp
.............................................................................................................................
57
3.2.
Một
số
đề
xuất
.............................................................................................................................
67
KẾT
LUẬN
.............................................................................................................................
71
DANH
MỤC
TÀI

LIỆU
THAM
KHẢO
.............................................................................................................................
73


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân có vị trí quan trọng trong việc bảo đảm xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, người phạm tội,
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và việc xét xử của
Toà án nhân dân đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời là một trong những
nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều Nghị quyết của Đảng về cải
cách tư pháp. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
“một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” nhấn mạnh:
“Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh
tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” tiếp tục nhấn mạnh: “Nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất các các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, việc kiểm sát hoạt động xét xử
của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian từ năm 2015 đến những tháng đầu
năm 2018 đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong việc đấu tranh
phòng chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, củng cố và tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của
công dân. Tuy nhiên, so với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm của
Đảng, Nhà nước và nhân dân thì công tác kiểm sát hoạt động xét xử còn nhiều

tồn tại, hạn chế thể hiện rõ nhất là sự yếu kém của Kiểm sát viên trong việc
thực hiện các thao tác nghiệp vụ kiểm sát hoạt động xét xử dẫn đến chất
lượng của công tác này chưa cao.

1


Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã chỉ rõ: “Đòi hỏi của công dân và xã
hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật
sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng
thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa,
đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm”. Bởi vậy, việc nâng
cao chất lượng kiểm sát hoạt động xét xử của Viện kiểm sát nhân dân đã trở
thành vấn đề thời sự và là yêu cầu bức thiết trong cải cách tư pháp của Đảng
và Nhà nước ta.
Để góp phần vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm
sát hoạt động xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp trong các Nghị quyết của
Đảng, người viết lựa chọn đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát trong kiểm sát
hoạt động xét xử của Tòa án ở nước ta hiện nay” nhằm đánh giá khái quát
những ưu điểm, hạn chế của kiểm sát hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân
sự; Nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế trong kiểm sát hoạt động xét
xử. Trên cơ sở đó, người viết đề xuất một số các giải pháp góp phần nâng cao
vai trò Viện kiểm sát trong kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án nhằm thực
hiện tốt công cuộc cải cách tư pháp do Đảng và Nhà nước đề ra.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu những nội dung chính
sau đây:
- Hệ thống hóa nhận thức lý luận cơ bản về vai trò của Viện kiểm sát
trong kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án và chỉ ra tính đặc thù của Viện

kiểm sát trong việc kiểm sát hoạt động xét xử ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn vai trò của Viện kiểm sát
trong kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, các yếu tố tác động tới việc kiểm
sát hoạt động xét xử của Viện kiểm sát.

2


- Xác định các quan điểm để nâng cao vai trò kiểm sát hoạt động xét xử
của Viện kiểm sát ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao vai trò Viện kiểm sát trong
kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án.
3. Tính mới của đề tài nghiên cứu
Với các nghiên cứu có tính chất toàn diện và có hệ thống, các kết quả
nghiên cứu của Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của Viện kiểm sát
trong kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án ở nước ta hiện nay, qua đó đề ra
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử. Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho Kiểm sát viên hai cấp (cấp tỉnh và cấp huyện) trong công
tác kiểm sát hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận chung về vị trí,
vai trò của Viện kiểm sát trong kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, đồng
thời đi sâu nghiên cứu những quy định pháp lý hiện hành có liên quan đến vị
trí, vai trò của Viện kiểm sát trong kiểm sát hoạt động xét xử.
Thực trạng về Viện kiểm sát, luận văn giới hạn phân tích các số liệu
thực tế của Viện kiểm sát nhân dân các cấp từ năm 2015 đến nay về vai trò
của Viện kiểm sát trong kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án để minh hoạ
cho những vấn đề mà luận văn nghiên cứu.
5. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Vấn đề vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
và vụ án dân sự đã được nhiều người nghiên cứu, có tính chuyên sâu như
Luận văn thạc sỹ luật học năm 2002 của tác giả Tôn Thiện Phương viết về
“Vai trò của Viện kiểm sát trong xét xử vụ án hình sự”, Luận văn thạc sỹ Luật
học năm 2012 của tác giả Lê Thắng viết về “Vị trí, vai trò và chức năng của

3


Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” hay như Luận
văn thạc sỹ Luật học năm 2012 của tác giả Nguyễn Vĩnh Tá viết về “Vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong phiên tòa sơ thẩm dân sự”, bài viết ở Thông
tin khoa học kiểm sát của tác giả Nguyễn Quốc Việt (2010) viết về “Nghiên
cứu các chủ trương của Đảng về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự và sự thể chế hóa trong pháp luật tố tụng dân sự qua các thời
kỳ”, bài viết ở Tạp chí luật học đặc san BLTTDS của tác giả Trần Văn Trung
(2005) “Về việc tham gia phiên tòa dân sự của VKSND”....Tuy nhiên, qua
khảo cứu các tài liệu khoa học nói trên, các tài liệu này chủ yếu đề cập đến
vài trò của Viện kiểm sát trong kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án ở một
lĩnh vực cụ thể, hơn thế nữa những nghiên cứu đó đã được thực hiện trước khi
Hiếp pháp 2013, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Bộ Luật tố tụng
hình sự 2015, Bộ Luật tố tụng dân sự 2015, Luật Tố tụng hành chính 2015 có
hiệu lực, hơn thế nữa, các công trình nghiên cứu trước đây chỉ đi sâu nghiên
cứ 1 lĩnh vực (hình sự hoặc dân sự, hành chính) nên với vấn đề vai trò của
Viện kiểm sát trong việc kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án ở nước ta hiện
nay thì có rất ít người làm rõ, hơn nữa cũng chưa có tính thống nhất. Vì vậy,
đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn cũng như bổ sung
hoàn thiện các tri thức khoa học về vai trò của Viện kiểm sát trong kiểm sát
hoạt động xét xử của Tòa án ở nước ta hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch
sử để giải quyết các vấn đề thuộc mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn.

4


7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
03 chương như sau:
Chương 1: Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát
hoạt động xét xử của Tòa án.
Chương 2: Thực trạng vai trò của Viện kiểm sát trong kiểm sát hoạt
động xét xử của Tòa án.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm
sát xét xử.

5


Chương 1
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
1.1. Khái quát về vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
Hệ thống cơ quan Công tố được tách dần khỏi hệ thống cơ quan Tòa án
và sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 quy định sự thành lập của Viện kiểm sát
trong hệ thống cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước. Thực hiện nghị

quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III năm 1960 và Hiến pháp 1959,
ngày 27 tháng 7 năm 1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh công bố Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân khai sinh ra hệ thống cơ quan Viện kiểm sát
nhân dân ở Việt Nam. Đây là hệ thống cơ quan nhà nước chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; độc lập với hệ thống cơ quan
xét xử và các cơ quan hành chính khác. Viện kiểm sát có nhiệm vụ thực hành
quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự như cơ quan Công tố
trước đây, đồng thời kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc
Hội đồng chính phủ, cơ quan nhà nước ở địa phương, các nhân viên Nhà nước
và công dân. Tiếp đó tại các bản Hiến pháp 1980, 1992, 2013 và các văn bản
pháp luật có liên quan từng bước có quy định rõ ràng hơn về tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát. Đó là Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của các cơ quan tư pháp; thực hành quyền công tố và bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất.
Điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi chức năng của các cơ quan nhà nước
cũng phải thay đổi cho phù hợp với hoạt động trong tình hình mới. Trong đó
hệ thống cơ quan Viện kiểm sát cũng không phải là ngoại lệ, sự thay đổi lớn
nhất về chức năng từ trước tới nay. Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013 ghi nhận:
6


"Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp" [29]. Trong đó chức năng của Viện kiểm sát được điều chỉnh
theo hướng đề cao chức năng công tố so với giai đoạn trước đây và thu hẹp
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Theo đó Điều 107 Hiến pháp
2013 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp" [29]. Trên cơ sở của Hiến pháp, Khoản 1 Điều 2 Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định "Viện kiểm sát nhân dân là

cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [30].
Theo tiến trình cải cách tư pháp của Bộ Chính trị trong đó cải cách hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân là một trong những nội dung quan trọng của cải
cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách các cơ quan tư pháp nói riêng
nhằm mục đích xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với việc ra đời của Nghị quyết số 08/2002 của Bộ Chính trị về những nhiệm
vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Đặc biệt Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó nêu rõ: "Trước mắt, Viện kiểm
sát vẫn giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp" [14].
Như vậy sự ra đời của Viện kiểm sát với tư cách là một cơ quan nhà
nước là một đòi hỏi tất yếu khách quan của quá trình bảo vệ và xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ở từng giai đoạn cụ thể mà Viện
kiểm sát có các chức năng khác nhau.
Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân được xác lập trong Hiến pháp. Vị trí
của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được thể hiện thông qua các nguyên tắc tổ chức hoạt động

7


của Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung,
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ
chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa

phương, các Viện kiểm sát quân sự là các cơ quan thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Quốc hội, hoặc trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và
Chủ tịch nước trong thời gian Quốc hội không họp.
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
địa phương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện trưởng,
Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương
đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự Trung ương đều do Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
- Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống thống nhất, bao
gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương,
các Viện kiểm sát quân sự. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo.

8


Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Viện kiểm sát nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác là công cụ
hữu hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ

chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần bảo vệ công lý, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội
nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, có thể thấy vai trò của VKS trong kiểm sát hoạt động xét xử
của Tòa án là một trong những công cụ hữu hiệu để bảo vệ pháp luật và pháp
chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm
pháp luật, góp phần bảo vệ công lý cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo môi
trường ổn định cho sự phát triển kinh tế cũng như xây dựng, bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa và tăng cường hợp tác quốc tế.
1.2. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành
quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của tòa án
1.2.1. Khái quát một số quy định của pháp luật về công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014, Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát là cơ quan tiến
hành tố tụng; Viện trưởng, Phó Viện trưởng và kiểm sát viên là người tiến

9


hành tố tụng (Điều 34, Bộ luật tố tụng hình sự). Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra
trước Toà án. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ

luật tố tụng hình sự quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ
quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát
hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội,
pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp
thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội,
pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội (Điều 20, Bộ luật tố tụng
hình sự). Ở giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm
thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các
vụ án hình sự, nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh kịp
thời (Điều 18, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân).
Từ các quy định nêu trên cho thấy, hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân giữ vai trò
quan trọng và quyết định trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự. Viện kiểm
sát nhân dân là cơ quan duy nhất truy tố người phạm tội ra xét xử trước Tòa
án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Bất luận trong mọi trường hợp
Viện kiểm sát nhân dân không truy tố thì Tòa án không xét xử. Bởi vậy, việc
truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử có đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật hay không phụ thuộc vào hoạt động thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân. Mặt khác, Viện kiểm sát nhân dân đồng thời còn

10


là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa
án nhân dân, của những người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm việc xét xử của
Tòa án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, các quyền và nghĩa vụ của bị
cáo, của những người tham gia tố tụng được tôn trọng và thực hiện đầy đủ.

Tòa án có chấp hành đúng quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự
hay không, bản án của Tòa án có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay
không và quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng có được đảm
bảo, tôn trọng và thực hiện hay không phụ thuộc rất lớn vào hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự,
Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn: Tham gia phiên toà; đọc
cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải
quyết vụ án tại phiên toà; tham gia xét hỏi; xem xét tại chỗ vật chứng không
thể đưa đến phiên tòa; xem xét nơi đã xảy ra tội phạm; thực hiện việc luận
tội đối với bị cáo; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà
án nhân dân, của những người tham gia tố tụng; kiểm sát các bản án và
quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật; kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy
định của pháp luật; kiến nghị với Toà án nhân dân cùng cấp khắc phục vi
phạm trong việc xét xử… (Điều 267 Bộ luật tố tụng hình sự và các Điều 18,
19 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân).
Phạm vi hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ
án hình sự được bắt đầu từ khi Viện kiểm sát chuyển bản cáo trạng hoặc quyết
định truy tố theo thủ tục rút gọn cùng hồ sơ vụ án sang Toà án để xét xử và
kết thúc khi Tòa án ra bản án.
Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình

11


sự của Viện kiểm sát nhân dân còn được thể hiện qua các quy định về nhiệm
vụ và quyền hạn của Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, của
Kiểm sát viên với tư cách là những người đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân

trực tiếp thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
Trước hết là đối với Viện trưởng Viện kiểm sát là người đứng đầu thực
hiện chức năng quản lý, điều hành hoạt động tố tụng hình sự của Viện kiểm
sát nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử nói
riêng. Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 41 Bộ luật tố tụng hình sự
thì Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn như: Tổ chức
và chỉ đạo các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự; quyết định phân công Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự; kiểm tra
các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tố tụng của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp
luật của Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên; quyết định thay đổi Kiểm sát viên;
giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm các bản án, quyết định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, Viện trưởng có thể phân công cho một Phó Viện trưởng
phụ trách khâu hình sự tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Theo khoản 3 Điều 41 Bộ luật tố tụng
hình sự khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền hạn và trách nhiệm giải quyết vụ án
như Viện trưởng Viện kiểm sát.
Cùng với việc quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Viện trưởng, Phó
Viện trưởng, Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của

12


Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Kiểm sát viên có nhiệm vụ và

quyền hạn: Tham gia phiên toà; đọc bản cáo trạng, quyết định của Viện kiểm
sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; xét hỏi, đưa ra những chứng cứ và
thực hiện việc luận tội (Điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự); tranh luận với người
bào chữa và người tham gia tố tụng khác (Điều 42 và Điều 267 Bộ luật tố
tụng hình sự); kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của
Toà án, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát bản án, quyết định của
Toà án (Điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự).
Như vậy, các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên nêu trên cho thấy Viện kiểm sát giữ
vai trò rất lớn, quyết định trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát xét xử. Hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên toà không chỉ bảo đảm cho
việc truy tố, xét xử mà còn là bảo đảm cho bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác thực hiện đầy đủ quyền năng tố tụng của họ. Bởi vậy, sự có mặt của
Kiểm sát viên tại phiên toà là bắt buộc để Toà án tiến hành xét xử; nếu Kiểm
sát viên vắng mặt thì Toà án phải hoãn phiên toà (Điều 289 Bộ luật tố tụng
hình sự).
Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể hơn về chức
năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự: Viện kiểm sát "thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự" [36]. Đây là
chức năng hiến định, đặc trưng cơ bản của Viện kiểm sát. Nó quy định chức
năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình
sự từ khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự. Ở giai đoạn điều
tra vụ án hình sự thì chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố
đồng thời kiểm sát các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra hoặc một số cơ
quan được giao hoạt động điều tra, các chủ thể khác tham gia vào công việc

13


điều tra cũng như hỗ trợ cho công tác điều tra nhằm mục đích đảm bảo cho

hoạt động điều tra được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, kịp thời.
Trong công tác kiểm sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát có chức năng phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật của Cơ quan điều
tra, Điều tra viên và các chủ thể khác để kiến nghị, sửa chữa, hủy bỏ các
quyết định không có căn cứ pháp luật của Cơ quan điều tra qua đó tìm ra
nguyên nhân, điều kiện phạm tội để áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội
phạm và các vi phạm pháp luật của các cá nhân, cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội. Từ sự phân tích trên cho thấy: Chức năng của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự là thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong xét xử vụ án hình sự. Để hiểu rõ chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đặc biệt là chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử trước hết cần phải nghiên
cứu khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể thực hành quyền công tố và kiểm
sát xét xử trong tổng thể của cả quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hay nói
cách khác là nghiên cứu chức năng của Viện kiểm sát trong bộ máy nhà
nước nói chung, chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự nói
riêng. Như vậy, có thể khẳng định rằng trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát
đồng thời thực hiện hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật.
Chức năng thực hành quyền công tố
Công tố là quyền lực thuộc về Nhà nước, là quyền nhân danh Nhà
Nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện
hành vi bị coi là tội phạm. Quyền này được Nhà nước giao cho một cơ quan
thực hiện trong việc phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố có
trách nhiệm bảo đảm việc thu thập chứng cứ để xác định tội phạm và đã thực

14



hiện hành vi bị coi là tội phạm ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó tại
phiên tòa. Qua đó có thể xác định được đối tượng, nội dung, phạm vi của
quyền công tố. Đối tượng công tố là yếu tố mà quyền lực công tố tác động
vào nhằm đạt mục đích cụ thể của quyền công tố, đó có thể là mục đích buộc
tội được người phạm tội để trừng phạt, khôi phục trật tự pháp luật đã bị xâm
hại, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị…Do vậy quyền công tố là quyền lực nhà nước, do Nhà nước đứng ra thay
mặt xã hội thực hiện việc buộc tội nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người đã thực hiện hành vi phạm tội và đối tượng của quyền công tố nhắm tới
chính là tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Nội dung của quyền
công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm.
Phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra thì quyền công
tố cũng bắt đầu xuất hiện và kết thúc khi bản án hình sự của Tòa án có hiệu
lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc vụ án bị đình chỉ theo các
quy định của pháp luật. Nó có hiệu lực đối với bất kỳ người thực hiện hành vi
tội phạm nào kể cả tội phạm ẩn nếu còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự. Do vậy các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ áp dụng các quyền năng pháp lý
khác nhau để phát hiện tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, tìm ra
các chứng cứ buộc tội, thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Khi cơ quan tiến hành tố tụng dùng các quyền năng pháp lý của mình
được Bộ luật Tố tụng hình sự giao cho để khởi động quyền công tố thì cũng
xuất hiện khái niệm thực hành quyền công tố. Đây là khái niệm có liên hệ mật
thiết với nhau bởi lẽ khi có hành vi phạm tội xảy ra, mối quan hệ giữa Nhà
nước với người thực hiện hành vi phạm tội phát sinh. Trách nhiệm của Nhà
nước là truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm
tội. Điều đó có nghĩa là phát sinh quyền công tố và có cơ quan dùng các quyết
định cụ thể để thực hiện quyền công tố. Cơ quan được giao thực hiện quyền

15



công tố chính là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố. Vậy thực
hành quyền công tố là thực hiện hóa các quyền công tố trong đời sống xã hội.
Việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở mỗi quốc gia khác nhau thì được giao
cho các cơ quan khác nhau, từ đó vị trí, vai trò, phạm vi hoạt động của cơ
quan thực hành quyền công tố ở mỗi nước khác nhau là khác nhau.
Việc xác định rõ khái niệm, phạm vi thực hành quyền công tố là cơ sở
xác định nội dung thực hành quyền công tố. Đó là hoạt động của Viện kiểm
sát trong việc ban hành các quyết định tố tụng, trực tiếp tiến hành một số hoạt
động điều tra, đề ra các yêu cầu điều tra đối với Cơ quan điều tra…trong việc
giải quyết một vụ án hình sự nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
thực hiện hành vi bị coi là tội phạm, bao gồm các hoạt động cụ thể của quyền
công tố như khởi tố vụ án, khởi tố bị can; ban hành các lệnh, quyết định, yêu
cầu hay trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra; đọc cáo trạng, xét hỏi,
tranh luận, luận tội…
Như vậy: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
Thuật ngữ "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" lần đầu tiên trong lịch sử
lập hiến nước ta tại Hiến pháp năm 1959, sau đó là Hiến pháp năm 1980,
được cụ thể hóa trong các văn bản luật: Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1981, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 1992, Bộ luật Tố tụng hình sự 1988. Đến thời điểm năm 2013, đã
xuất hiện cụm từ "kiểm sát hoạt động tư pháp" - Điều 107 Hiến pháp 2013
quy định: "Viện kiểm sát nhân dân (Viện kiểm sát nhân dân tối cao) thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp

16



luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất" [29]. Điều 1 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật" [30]. Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 lại tiếp tục sử dụng cụm từ
"kiểm sát việc tuân theo pháp luật". Mặc dù là những thuật ngữ được ghi nhận
trong nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước và trên thực tế đã
được các cơ quan có thẩm quyền thực hiện, nhưng cho đến nay vẫn chưa có
một văn bản pháp lý chính thức nào định nghĩa về "kiểm sát việc tuân theo
pháp luật" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Như vậy, trong lĩnh vực tố
tụng hình sự, tồn tại đồng thời hai thuật ngữ rất dễ bị nhầm lẫn: "kiểm sát việc
tuân theo pháp luật" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp".
Có quan điểm cho rằng kiểm sát các hoạt động tư pháp: "Là một dạng
giám sát đặc thù chỉ gắn với duy nhất một loại chủ thể kiểm sát - Viện kiểm sát,
với quyền năng kiểm sát và phương thức kiểm sát riêng biệt. Tuy nhiên, kiểm sát
ở tầng nghĩa phổ thông, là kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nước" [7].
Nếu theo cách hiểu như vậy, trong tố tụng hình sự, còn có rất nhiều chủ thể
khác cũng có quyền và nghĩa vụ "kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà
nước" và có thể coi là hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự.
Do vậy, có thể xác định hoạt động tư pháp là: Hoạt động thực hiện
quyền lực nhà nước về tư pháp, có chủ thể là các cơ quan tư pháp, bao gồm:
Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án, gắn với quá
trình giải quyết vụ án, vụ việc cụ thể và tuân theo những nguyên tắc đặc thù,
những quy trình, thủ tục tố tụng chặt chẽ, bảo đảm việc việc giải quyết được
chính xác, khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Bên
cạnh đó còn xuất hiện khái niệm "kiểm sát việc tuân theo pháp luật".

17



×