Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.86 KB, 26 trang )


Đề tài:
"Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay"
MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế
tổng quát mà nước ta đã lựa chọn trong thời kì đổi mới. Nó vừa mang
tính chất chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù, được quyết
định bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự vận
dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển
kinh tế thị trường, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng trong quá trình lãnh
đạo nhân dân xây dựng đất nước. Đảng ta đã xác định một cách nhất
quán kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều
thành phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Qua đề tài:
“Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay”, chúng ta có thể xác định một cách rõ ràng và
nhất quán về vị trí, vai trò kinh tế của Nhà nước trong quá trình phát
triển kinh tế. Hơn nữa, ta có thấy được những mặt tích cực và hạn chế
của vấn đề, có thể đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò quản
lý kinh tế của Nhà nước trong đề tài trên Em cũng xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến GS_TS Phạm Quang Phan đã giúp đỡ em thực hiện đề tài
này.
1
I.Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước
Trước kia, với quan điểm “Bàn tay vô hình” và nguyên lý “ Nhà
nước không can thiệp” vào nền kinh tế, A.Smith(1723-1790) cho rằng
phát triển kinh tế cần tuân theo nguyên tắc tự do, sự hoạt động của nền
kinh tế là do qui luật khách quan tự phát phân phối. Thị trường vận
động là do quan hệ cung cầu … Song trên thực tế cho thấy rằng: nền
kinh tế muốn phát triển nhanh đòi hỏi đất nước phải có cơ sở hạ tầng
hiện đại. Người ta thấy rằng: nền kinh tế phát triển càng cao, xã hội hoá


mở rộng, càng cần có sự quản lý của Nhà nước. Vào đầu những năm 30
của thế kỉ XX, tình trạng khủng hoảng kinh tế xảy ra liên tục. Quan
điểm “ Bàn tay nhà nước” ra đời, theo Keynes và trường phái của ông
thì sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế sẽ khắc phục khủng
hoảng, thất nghiệp, tạo ra sự ổn định kinh tế. Nhưng những chấn động
lớn trong nền kinh tế, khủng hoảng, thất nghiệp vẫn xảy ra. Dẫn đến
xuất hiện tư tưởng phối hợp “Bàn tay vô hình” và “Bàn tay nhà nước”.
Và các nhà kinh tế đã thừa nhận: nền kinh tế hiện đại muốn phát triển
phải dựa vào cơ chế thị trường và sự quản lý của Nhà nước.
Trong hoàn cảnh của nước ta: Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa – giai đoạn tạo ra cơ sở vật chất của chủ
nghĩa xã hội, do đó trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nước ta còn
thấp và lạc hậu cho sự phát triển. Tình trạng này dẫn đến khuynh hướng
tư bản chủ nghĩa là điều không tránh khỏi, do đó Nhà nước cần phải vững
mạnh về mọi phương diện để huy động mọi tiềm năng cho sản xuất, phát
triển khoa học, tiến bộ xã hội. Kèm theo sự lạc hậu về kĩ thuật, nước ta
2
còn phải trải qua một loạt các bước quá độ với tính chất phức tạp của con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, cần phải có một Nhà nước không những
có quyết tâm, trung thành với con đường giải phóng nhân dân lao động
mà còn phải có kiến thức đầy đủ để xác định những mục tiêu, biện pháp
thích hợp với từng bước quá độ.
Bối cảnh lịch sử thế giới trong giai đoạn hiện nay cũng đặt ra nhiều
thách thức to lớn. Điều kiện quốc tế hoá nền kinh tế thế giới mở ra cho
chúng ta những cơ hội về vốn, kĩ thuật và kinh nghiệm quản lý để phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tuy nhiên đây cũng
chính là con đường mà những thế lực thù địch có dã tâm lợi dụng để
chống lại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của ta. Vì vậy, nếu không
có một Nhà nước vững mạnh và có tài trí thì khả năng mất độc lập tự chủ
và bị lệ thuộc dưới những hình thức mới có thể trở thành hiện thực.

Quá trình phát triển của nước ta từ khi giải phóng đến nay đã cho thấy
nước ta tất yếu phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường và mở cửa ra bên ngoài. Nền kinh tế này đã
thể hiện những mặt mạnh không thể phủ nhận của mình nhưng không
phải lúc nào nó cũng thống nhất với những yêu cầu mang tính định
hướng của chủ nghĩa xã hội, thậm chí đối lập với những định hướng ấy.
Hai khả năng phát triển chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đều tồn tại
khách quan. Vai trò Nhà nước ta ở đây là phải giải quyết thành công mâu
thuẫn giữa hai con đường, giành thắng lợi cho con đường xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực kinh tế, giũ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, đưa
nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, mọi Nhà nước dù thuộc chế độ
chính trị nào cũng đều phải can thiệp, quản lý nền kinh tế ấy trong một
giới hạn nhất định. Đây là vai trò có tính tất yếu khách quan của Nhà
3
nước, nó gắn với những nhiệm vụ mới mẻ và khó khăn phát sinh trong
từng giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội của nước ta.
II. Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam
Trong nền sản xuất hàng hoá phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, kế hoạch và thị trường đều được xem là những công cụ điều tiết
kinh tế khách quan mặc dù chúng là hai cơ chế hoạt động theo những
nguyên tắc khác nhau. Trong mối quan hệ này, thị trường vừa được coi là
căn cứ, vừa được coi là đối tượng của kế hoạch và phát triển theo sự điều
tiết và định hướng của kế hoạch vĩ mô. Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
động theo nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo những
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có những đặc trưng cơ bản sau:
1.Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường:
Đây cót thể coi là một trong những tiêu thức để phân biệt nền kinh tế

thị trường ở nước ta với nền kinh tế thị trường khác, nó nói đến mục đích
chính trị, mục tiêu kinh tế – xã hội mà Nhà nước và nhân dân ta đã chọn
làm định hướng chi phối sự vận động, phát triển nền kinh tế.
Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải
phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước
để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện
từng bước đời sống nhân dân. Chúng ta thực hiện theo tư tưởng của chủ
tịch Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng lấy sản xuất gắn liền
với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và
4
công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói
giảm nghèo.
2. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Từ đó hình hành nên nhiều
thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh: kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà
nước luôn giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên là những
bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội , nó trở thành tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy chúng ta mới
khai thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao được hiệu quả kinh tế,
phát huy được mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển
chung nền kinh tế của đất nước nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng
của nhân dân.
Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính
nguyên tắc, là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa. Nó được quyết định bởi định hướng xã hội chủ nghĩa của nền

kinh tế vì mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với
nó, kinh tế nhà nước với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội
mới – xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mặt khác, cần nhận thức rõ ràng rằng
mỗi thành phần kinh tế trong thời kì quá độ có bản chất kinh tế – xã hội
riêng, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng, do đó các thành
phần kinh tế bên cạnh sự thống nhất còn có những sự khác biệt và mâu
thuẫn, đưa đến những hướng phát triển khác nhau. Nhờ có vai trò chủ đạo
của mình, thành phần kinh tế nhà nước mới có thể xây dựng và phát triển
5
nền kinh tế theo đúng các chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước, đảm
bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều
hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là
chủ yếu
Thu nhập đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc sản xuất kinh
doanh của chủ thể kinh tế và đời sống dân cư. Tăng thu nhập là điều kiện
để mở rộng tích luỹ, tăng đầu tư tạo ra các nguồn lực cần thiết cho nền
kinh tế. Quy mô của thu nhập lớn sẽ quyết định sức mua hàng hoá và
dịch vụ, quyết định quy mô tích luỹ và tiêu dùng trong từng thời kì.
Thời kì quá độ ở nước ta tồn tại nhiều chế độ sở hữu, mỗi chế độ có
nguyên tắc (hình thức) phân phối tương ứng với nó tạo ra sự đa dạng về
hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo lao động, theo vốn hay tài
sản đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động hoặc phân phối thông
qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Sự phân phối này là một nội dung
rất quan trọng của quan hệ sản xuất, phản ánh kết quả của quan hệ sở
hữu, làm cho quan hệ sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế. Nhà nước đã
ban hành những chính chách để điều tiết phân phối thu nhập bao gồm:
chính sách thuế, chính sách phân phối lợi nhuận, chính sách lãI suất,
chính sách tiền lương, tiền công, chính sách bảo hiểm xã hội…
Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập chủ yếu

được thực hiện ở nước ta, là hình thức phân phối thu nhập hợp lý nhất,
công bằng nhất trong các hình thức phân phối đã có trong lịch sử. Nó là
đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường, được thực hiện về mặt kinh
tế của chế độ công hữu với những tác động rất tích cực như: Thúc đẩy
6
mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng suất lao động,
xây dựng được thái độ lao động đúng đắn, củng cố kỉ luật lao động, thúc
đẩy mọi người nâng cao trình độ, tác động mạnh đến đời sống vật chất và
văn hoá của người lao động… Mặt khác, như trên đã đề cập, mục tiêu
phát triển của nước ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tự do, có điều kiện để
phát triển toàn diện. Mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta được xác
định phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công
bằng xã hội. Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể
do đó cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này.
4. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nói đến cơ chế thị trường là nói đến một cơ chế tự vận động của thị
trường theo quy luật nội tại vốn có của nó mà A.Smith gọi là “Bàn tay vô
hình”. ở đây tồn tại một loạt quy luật kinh tế chi phối hoạt động của các
chủ thể kinh tế cũng như của toàn bộ nền kinh tế như quy luật giá trị, quy
luật cung_cầu, quy luật lợi nhuận, quy luật lưu thông tiền tệ. Chúng có
vai trò quyết định đối với việc phân phối nguồn lực kinh tế vào các
ngành, các lĩnh vực kinh tế. Chính vì vậy kinh tế thị trường tạo điều kiện
để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển
toàn diện của con người.
Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng có những mặt trái của nó, trước hết
là tình trạng khủng hoảng và thất nghiệp_căn bệnh nan giải của kinh tế
thị trường, thêm vào đó là

7
Tình trạng ô nhiễm môi trường bởi những mục tiêu lợi nhuận cá nhân
tàn phá tự nhiên. Cuối cùng là tình trạng độc quyền xoá bỏ tự do cạnh
tranh làm cho nền kinh tế mất tính hiệu quả. Tất cả những hạn chế đó đều
đòi hỏi có sự can thiệp của Nhà nước.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc kết hợp kế
hoạch với thị trường. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể
quản lý đối với nền kinh tế, còn cơ chế thị trường là sự điều tiết của bản
thân nền kinh tế. Kế hoạch và thị trường cần kết hợp với nhau nhằm tận
dụng những ưu điểm của cả hai phương tiện này: Đó là khả năng tập
trung nguồn lực cho những mục tiêu phát triển kinh tế, đảm bảo cân bằng
tổng thể, gắn mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội ngay từ đầu của kế
hoạch và tính nhanh nhậy, năng động, sáng tạo của các chủ thể kinh tế,
đáp ứng nhu cầu đa dạng của đời sống xã hội của cơ chế thị trường. Sự
kết hợp này được thực hiện ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô. ở tầm vi mô, thị
trường là cơ sở để đề ra kế hoạch sản xuất ra sản phẩm gì, sản xuất như
thế nào, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Còn ở tầm vĩ mô, tuy thị
trường không là căn cứ duy nhất quyết định kế hoạch của Nhà nước song
để có một kế hoạch vĩ mô tổng thể không thể thoát ly khỏi thị trường. Từ
đó ta có thể thấy được mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường trong sự
nghiệp phát triển kinh tế hiện nay.
5. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền
kinh tế mở, hội nhập
Đây là đặc điểm phản ánh rõ nét sự khác biệt giữa nền kinh tế nước ta
hiện nay với nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới, nó phù hợp với xu
hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điều kiện toàn cầu hoá kinh
tế.
8
Sự tác động mạnh của cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật đã dẫn đến
sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc với các quốc gia khác

bởi nó thúc đẩy quá trình giao lưu kinh tế giữa các nước nhằm thu hút
vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các
nước để khai thác các tiềm lực và thế mạnh của nước ta. Đây là con
đường rút ngắn để nước ta có thể phát triển nền kinh tế thị trường hiện
đại.
Nhận thức được đặc điểm này, từ khi đổi mới đến nay, nước ta đã mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá,
gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện
những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế nhựng vẫn đảm bảo độc lập
chủ quyền và lợi ích của quốc gia và dân tộc. Trong thời gian tới phương
hướng này vẫn tiếp tục được coi là phương hướng chủ yếu và hiệu quả
nhất để phát triển nền kinh tế, đồng thời cần có những đổi mới cho phù
hợp với hoàn cảnh mới của thế giới.
III. Mục tiêu và chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước:
1.Mục tiêu:
Hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô có vai trò rất quan trọng trong
quản lý kinh tế vĩ mô. Đó chính là mức độ trạng thái của nền kinh tế mà
chủ thể quản lý (nhà nước) mong muốn đưa hệ thống quản lý đạt tới trên
cơ sở đánh giá, phân tích tất cả các yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Hệ
thống mục tiêu kinh tế vĩ mô chính là những mục tiêu cụ thể hoá các mục
tiêu chung của toàn bộ xã hội (phát triển, ổn định, công bằng). Các nhà
khoa học và quản lý thường cho rằng trong quản lý kinh tế vĩ mô có bốn
mục tiêu cơ bản sau: tăng trưởng, việc làm, ổn định thị trường và cân
bằng cán cân thanh toán.
9
Mỗi một mục tiêu kinh tế vĩ mô lại có một loạt các mục tiêu cụ thể
(các chỉ tiêu) kèm theo, các chỉ tiêu này mang tính định lượng rõ rệt và
nhiều khi một chỉ tiêu có quan hệ nhiều mục tiêu vĩ mô.
Về mặt quản lý, các mục tiêu (và các chỉ tiêu kèm theo) được nhà
nước hoạch định ở cấp quốc gia trong các kế hoạch dài hạn, trung hạn và

ngắn hạn. ở cấp địa phương những mục tiêu này cũng được lựa chọn
hoạch định trong các kế hoạch phát triển tùy theo yêu cầu của quản lý.
Sau đây sẽ xem xét các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu
* Giải quyết việc làm cho lực lượng lao động. Mục tiêu này còn được
gọi là mục tiêu "toàn dụng nhân lực". Lực lượng lao động của quốc gia là
nguồn lực quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và phát triển. Giải quyết
việc làm cho lực lượng lao động vừa có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng
vừa giải quyết công bằng và ổn định xã hội. Ngược lại, nếu không giải
quyết việc làm đầy đủ cho lực lượng lao động, tỷ lệ thất nghiệp quá cao
sẽ trở thành gánh nặng xã hội, gây nên những hậu quả kinh tế - xã hội
xấu, rất khó giải quyết.
Vì vậy, nâng cao trình độ, kỹ năng lao động và cung cấp các cơ hội
làm việc cho những người có đủ khả năng, có nhu cầu làm việc là một
nhân tố chủ yếu làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập của người lao
động và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. ý nghĩa quan trọng của
mục tiêu toàn dụng nhân lực chính là cho phép một quốc gia có khả năng
tiến tới mức sản lượng lớn nhất có thể có của nền kinh tế. Tất nhiên, gắn
với sản lượng mong muốn ấy là không gây ra tình trạng gia tăng lạm
phát.
Các chỉ tiêu phục vụ mục tiêu giải quyết việc làm bao gồm: số lượng
việc làm mà nền kinh tế sẽ giải quyết trong một thời kỳ kế hoạch (1 năm,
10

×