Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Yếu tố tự truyện trong văn xuôi tô hoài sau năm 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THÙY LINH

YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG VĂN XUÔI TÔ HOÀI
SAU NĂM 1986

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THÙY LINH

YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG VĂN XUÔI TÔ HOÀI
SAU NĂM 1986

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN DIỆU LINH


Thái Nguyên - 2019


i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn Diệu Linh. Các kết quả, số liệu nêu trong luận
văn này là trung thực. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, ngày tháng 6 năm 2019
Người viết cam đoan

Vũ Thùy Linh


ii

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và làm luận văn tốt nghiệp cuối khóa, em đã
nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện và giúp đỡ tận tình của các thầy cô giảng
viên, các nhà nghiên cứu khoa học, Ban lãnh đạo khoa Báo chí – Truyền thông và
Văn học, Phòng Sau Đại học, Ban Giám hiệu trường Đại học Khoa học - Đại học
Thái Nguyên.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Diệu Linh đã
tận tình hướng dẫn em trong việc nghiên cứu, tìm hiểu và hoàn thành đề tài luận
văn này.
Em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, Ban Giám hiệu

trường Trung học phổ thông Gang Thép tỉnh Thái Nguyên đã nhiệt tình ủng hộ,
chia sẻ khó khăn, khích lệ, động viên tinh thần trong suốt thời gian học tập và hoàn
thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn

Vũ Thùy Linh


iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
MỤC LỤC ............................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 8
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 9
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 10
7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 10
NỘI DUNG ......................................................................................................... 11
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................. 11
1.1. Một số khái niệm cơ bản .............................................................................. 11
1.1.1. Yếu tố tự truyện ......................................................................................... 11
1.1.2. Thể loại hồi ký ........................................................................................... 14

1.2. Yếu tố tự truyện trong văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại ......................... 18
1.2.1. Yếu tố tự truyện trong văn học giai đoạn trước 1975 ............................... 18
1.2.2. Sự nở rộ của yếu tố tự truyện trong văn học đương đại ........................... 21
1.3. Quan niệm nghệ thuật của Tô Hoài về con người và văn chương ............... 26
Tiểu kết chương 1................................................................................................ 30
Chương 2: HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ SỰ THỂ HIỆN CÁI TÔI TRONG
VĂN XUÔI TÔ HOÀI SAU 1986 ...................................................................... 31
2.1. Sự tái hiện cuộc sống qua hồi ức ................................................................. 31
2.1.1. Bức tranh cuộc sống trong chiến tranh .................................................... 31
2.1.2. Hiện thực cuộc sống trong hòa bình ......................................................... 36
2.1.3. Dấu ấn phong tục tập quán trong quá khứ ............................................... 39


iv

2.2. Sự tái hiện các nhân vật qua hồi ức .............................................................. 47
2.2.1. Chân dung các nhân vật đời thường ......................................................... 47
2.2.2. Chân dung các văn nghệ sĩ ....................................................................... 51
2.3. Sự thể hiện cái tôi ......................................................................................... 62
2.3.1. Cái “tôi” sâu sắc, giàu cảm xúc ............................................................... 62
2.3.2. Cái “tôi” tài hoa và khéo léo .................................................................... 66
Tiểu kết chương 2................................................................................................ 69
Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN YẾU TỐ TỰ TRUYỆN ...................... 70
3.1. Điểm nhìn trần thuật ..................................................................................... 70
3.1.1. Trần thuật theo dòng hồi ức ...................................................................... 70
3.1.2. Trần thuật theo các sự kiện ....................................................................... 74
3.2. Ngôn ngữ tự truyện mang đậm chất đời thường .......................................... 79
3.2.1. Ngôn ngữ tự nhiên, dung dị, mang đậm tính khẩu ngữ ............................ 79
3.2.2. Sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ kể, tả, bình luận ................................. 83
3.3. Giọng điệu .................................................................................................... 86

3.3.1. Giọng điệu dí dỏm, hài hước thông minh ................................................. 86
3.3.2. Giọng điệu triết lý xót xa ........................................................................... 91
Tiểu kết chương 3................................................................................................ 94
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 97


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tô Hoài là nhà văn luôn hăng say sáng tạo nghệ thuật với tinh thần lao
động sáng tạo không ngừng nghỉ. Ông viết nhiều thể loại từ truyện ngắn, tiểu
thuyết, truyện thiếu nhi đến kịch bản phim với đề tài từ miền xuôi đến đề tài miền
núi…Tất cả đem đến cho người đọc một luồng không khí mới. Trong lời giới
thiệu Tô Hoài về tác gia tác phẩm, Hà Minh Đức đã nhận xét: “Dõi theo cuộc đời
sáng tác của ông gần nửa thế kỉ, người đọc thấy ở ông một ngòi bút tươi mới
không bị cũ đi với thời gian, không tự giới hạn mình trong một khuôn khổ hay
phạm vi hiện thực nào, không tự thu lại mình trong một giọng điệu văn chương
nào. Trước Cách mạng, giọng văn ông vừa da diết với cuộc đời chung vừa nhẹ
nhàng, châm biếm những cảnh đời ngang trái, đau khổ. Sau Cách mạng tháng
Tám, ngòi bút Tô Hoài lại xông xáo vào những miền đất mới, chan hòa với cuộc
đời mới. Tiếp nhận cái đa dạng và sinh động của cuộc đời, văn chương Tô Hoài
có sức vươn tỏa mới” [11, tr. 130].
1.2. Văn học Việt Nam từ sau năm 1986 đã có những thay đổi đáng kể trong
quan niệm về hiện thực, con người và quan niệm của nhà văn trong mối quan hệ
với tác phẩm, công chúng và với chính mình. Đây là cơ sở để yếu tố tự truyện
trong văn xuôi Việt Nam đương đại phát triển mạnh mẽ hơn so với văn học giai
đoạn 1945 - 1975. Văn học sau năm 1986 lấy chất liệu từ cuộc đời riêng tư của
tác giả và các nhân vật xung quanh cuộc đời tác giả…nhằm bộc lộ cái tôi cá nhân

rõ nét. Yếu tố tự truyện trong văn xuôi giúp bạn đọc không chỉ hiểu về con người
tác giả, thời đại, một xã hội mới hiện ra rõ nét và sinh động qua tiểu sử cuộc đời
thật mà còn qua những trải nghiệm sống, sự tự thú chân thành. Nếu như mục đích
của nhật ký là viết cho riêng mình, nó mang tính riêng tư và hướng nội thì hồi ký
và tự truyện lại có tính chất hướng ngoại để giãi bày bộc bạch với người khác.
1.3. Một trong những đề tài làm nên dấu ấn của Tô Hoài trong dòng văn
học Việt Nam hiện đại là mảng hồi ký mang yếu tố tự truyện, đánh dấu sự thành


2

công và bước chuyển mình của nhà văn vì đã có lần ông từng nói: “Tôi cho viết
hồi ký là khó khăn hơn cả sáng tác. Bởi đó là cuộc đấu tranh tư tưởng để viết ra.
Nó chân thành hay dối trá, nó thanh minh hay báo cáo, khoe khoang. Làm thế
nào cho khách quan nhất mà lại tình cảm nhất với dụng ý về chủ đề thật rõ ràng.
Đây là một cuộc mổ xẻ toàn diện, không phải nhẹ nhàng và chỉ có hứng thú [11,
tr. 131]. Ở mảng truyện này ta bắt gặp một Tô Hoài vừa dung dị vừa hóm hỉnh
vừa đời thường nhưng vô cùng sâu cay. Qua giọng văn của ông người đọc lại gần
hơn với những “nhân vật lớn” của nền văn học nước nhà để thấy được phần nào
con người thật của họ. Với tư cách là một chứng nhân, Tô Hoài giúp ta hiểu rõ
hơn về cuộc sống của những con người gần gũi bên ông, về một Hà Nội thời thuộc
Tây - một quá khứ mà khiến nhiều người còn lạ lẫm, bỡ ngỡ. Yếu tố tự truyện đã
làm nên thành công của Tô Hoài ở những sáng tác sau 1986, đồng thời góp phần
tạo nên một gương mặt mới, lạ mà quen với bạn đọc.
Xuất phát từ những lý do trên, với mong muốn có cái nhìn sâu sắc và toàn
diện hơn về những đóng góp của Tô Hoài đối với nền văn học hiện đại nước nhà
đặc biệt là mảng sáng tác mang tính chất tự truyện sau 1986 chúng tôi lựa chọn
đề tài Yếu tố tự truyện trong văn xuôi Tô Hoài sau năm 1986.
2. Lịch sử vấn đề
Người đầu tiên tìm hiểu về văn chương Tô Hoài là nhà nghiên cứu phê bình

Vũ Ngọc Phan. Trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại khi giới thiệu về Tô Hoài,
ông đã có cái nhìn đầy đủ chính xác và khách quan về phong cách viết văn xuôi
của Tô Hoài, Vũ Ngọc Phan cho rằng “Tô Hoài là nhà văn có biệt tài viết về
những cảnh nghèo nàn của dân quê” [57, tr.17]…Ông cũng sớm phát hiện chất
giọng “trào lộng và khinh bạc của Tô Hoài” [57, tr. 17]. Đồng quan điểm với Vũ
Ngọc Phan, Hà Minh Đức cũng cho rằng: “Tô Hoài có một năng lực phát hiện và
nắm bắt nhanh chóng thế giới khách quan để tìm hiểu, chọn lựa một hướng tiếp
cận hiện thực tiến bộ, cách mạng. Ông không lí tưởng hóa cuộc sống nhưng cảm
nhận cuộc sống có tính lí tưởng” [11, tr. 135]. Chính sự “nắm bắt nhanh chóng


3

thế giới khách quan” đã mang đến chất liệu riêng không giống ai trong các sáng
tác của Tô Hoài nói chung và các tác phẩm hồi ký, tự truyện nói riêng.
Nguyễn Đăng Mạnh khi nhận xét khái quát về tự truyện, hồi ký của Tô Hoài
đã khẳng định: “Hồi kí, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trường nhất của Tô
Hoài…Ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của người viết. Cho nên
sự hấp dẫn về văn phong của Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi ấy”
[48, tr. 3-4]. Nguyễn Đăng Mạnh đặc biệt chú ý tới Cỏ dại. Ông khẳng định:
“Nghiên cứu Tô Hoài, không thể không đọc Cỏ dại như một tài liệu cơ bản, vì tác
phẩm cho ta biết một cách cụ thể những gì đã tạo nên tâm hồn ấy, cây bút ấy...”
[46, tr. 53]. Điều này cho thấy vị trí vai trò của tác phẩm Cỏ dại trong sự hình
thành tư tưởng, phong cách của cây bút tài năng Tô Hoài. Phong Lê cũng nhận
định: “Có Tô Hoài nên Cỏ dại bỗng trở thành một bổ sung độc đáo, làm mặn mà
thêm cái dư vị buồn và mòn mỏi dần của xã hội người trong Nhà nghèo, Giăng
thề, Xóm Giếng” [41, tr. 38].
Phong Lê đã khẳng định sức hấp dẫn của yếu tố tự truyện trong văn xuôi
Tô Hoài đối với độc giả: “Đọc Tô Hoài tôi bỗng ngạc nhiên không hiểu sao người
ta có thể viết hay đến thế về mình, để qua mình mà hiểu người, hiểu đời, hơn thế

hiểu cả thời - nó là bầu khí quyển chung cho biết bao là thế hệ [41, tr. 39]. Hay
như “…Vẫn một trí nhớ tuyệt diệu. Một cảm hứng nhất quán. Một sự sống không
chút vơi cạn trong kho hồi ức. Và một cái nhìn, vừa ẩn náu bên trong vừa biểu lộ
ra ngoài mà cho thấy rõ nét đến thế, một người thật Tô Hoài và một nhân vật Tô
Hoài. Vừa sát gần lại vừa lùi xa, và với những cự li thích hợp, hồi ức Tô Hoài vừa
mời gọi ta đến lại vừa gợi lưu luyến lúc ta đi. Một hồi ức đọc với bao bâng
khuâng. Một hồi ức theo giá trị kép: Vừa chịu sự ràng buộc của một sự thật cá
biệt, vừa cho phép nới thêm các khoảng rộng của không gian và thời gian sống”
[41, tr. 40].
Tác giả Vân Thanh với bài viết Tô Hoài qua Tự truyện đã nói lên sự đổi
mới trong tư tưởng và phương pháp nghệ thuật tự truyện của Tô Hoài: “Tự truyện


4

được viết trên cả quá trình 30 năm, có bộ phận nói lên được sự đổi mới của tư
tưởng, phương pháp nghệ thuật của Tô Hoài…Điều kì lạ là các mảng sống và
chi tiết trước đây cũng như bây giờ, vẫn cứ gần như tươi rói trong kí ức nhà
văn” [65, tr. 400].
Sau năm 1986 Tô Hoài cho ra đời nhiều tác phẩm, cùng với đó số lượng
công trình nghiên cứu văn chương của ông không ngừng tăng. Những nhà phê
bình có tên tuổi yêu thích văn chương Tô Hoài như: Phong Lê, Nguyễn Đăng
Mạnh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vân Thanh, Nguyễn Văn Long, Vương Trí
Nhàn, Trần Hữu Tá, Nguyễn Đăng Điệp…đã có những đánh giá tinh tế, khách
quan về các tác phẩm của ông nói chung và những tác phẩm mang yếu tố tự truyện
nói riêng.
Trong cuộc trao đổi giữa Trần Đức Tiến và Xuân Sách về Cát bụi chân ai,
nhà văn Trần Đức Tiến nhận xét: “Cuốn hồi kí của ông ra đời chưa phải là quá
muộn. Có thể nói, bằng cuốn sách của mình, lần đầu tiên ông đã cho thế hệ cầm
bút chúng tôi nhìn một số “nhân vật lớn” của văn chương nước nhà từ một cự li

gần…Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng thì không nói làm gì - các ông
đã trở thành người thiên cổ từ khi chúng tôi chưa ra đời, hoặc còn bé xíu. Còn
Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng chúng tôi cũng hầu như không có cơ hội để gần gũi,
thậm chí để biết mặt. Không có nhịp cầu liên hệ nào khác giữa các ông với chúng
tôi, ngoài chính tác phẩm của các ông - những tác phẩm mà hàng chục năm mài
đũng quần trên ghế nhà trường, chúng tôi chỉ có việc ra sức tìm bằng được những
cái hay, cái tuyệt! Bây giờ qua Tô Hoài, chúng tôi được “nhìn” gần - một khoảng
cách khá tàn nhẫn, nhưng chính vì thế mà chân thực và sâu sắc…” [63, tr. 413].
Xuân Sách cũng nhận xét về tác phẩm này với những nhận xét xác đáng: “Tác
phẩm mang dấu ấn đậm nhất phong cách của Tô Hoài - từ văn phong đến con
người. Thâm hậu mà dung dị, thì thầm mà không đơn điệu nhàm chán, lan man tí
chút nhưng không cà kê vô vị, một chút “u mặc” với cái giọng khơi khơi mà nói,


5

ai muốn nghe thì nghe, không bắt buộc nghe rồi hiểu, đừng cật vấn…Và vì thế
đúng như anh nói, sức hấp dẫn chủ yếu là sự chân thật…” [74, tr. 414].
Trong bài Tô Hoài sáu mươi năm viết, Phong Lê cho rằng: “Ở đề tài
Hà Nội quê ông, tức Hà Nội ven đô, Hà Nội mà ông đã vừa trải rộng vừa đào
sâu vào thế giới bên ngoài và bên trong nó, Hà Nội ấy vẫn đi theo ông, dẫu
ông đi bất cứ đâu, để thành hành trang của ông, để mỗi lúc soi nhìn nó, ông
lại thấy bao điều mới lạ, cả trong ba chiều: quá khứ, hiện tại và tương lai.
Một Hà Nội - quê hương trong ba chiều thời gian, quả đã làm nên vóc dáng
một Tô Hoài, có giống và có khác với Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy
Tưởng - cái “bộ tứ” làm nên khuân hình và chất lượng “người Hà Nội - Văn
Hà Nội” [41, tr. 37].
Chiều chiều là cuốn hồi kí tiếp nối của Cát bụi chân ai và Chuyện cũ Hà
Nội. Với tác phẩm Chiều chiều, Phong Lê nhận xét: “Đọc Chiều chiều người đọc
luôn luôn được cuốn hút bởi những gì mới mẻ, không trùng lặp, không mờ nhạt,

không sút kém trong cái kho kỉ niệm của nhà văn. Chẳng lên giọng, cũng chẳng
cần ra bộ khiêm nhường. Tô Hoài cứ tự nhiên mà kể những gì mình đã biết, đã
trải (…)” [41, tr. 40 - 41], và điều này đã làm nên sức hút của văn hồi kí Tô Hoài.
Nhà văn Nguyễn Văn Thọ trong bài Vài cảm giác với Chiều chiều trên báo
Văn nghệ đã chỉ ra sức hấp dẫn của tác phẩm khi thể hiện yếu tố tự truyện là ở
giọng điệu trần thuật, với giọng điệu dân dã, hóm hỉnh, dí dỏm rất riêng mang
phong cách của Tô Hoài. Đó là “giọng bình thản, không câu nệ thứ tự thời gian,
thứ tự các tình huống, nhân vật, nhưng thấm đượm cái nhìn rất riêng, rất dí dỏm
của tác giả...Cái dòng chảy của Chiều chiều là dòng chảy tự nhiên. Là thứ văn
chương đạt tới mức tự nhiên. Tự nhiên, dung dị đạt được, phải là bậc thặng thừa
của văn chương” [69, tr. 13].
Tô Hoài viết hồi ký từ rất sớm. Đến tuổi xế chiều, ông vẫn còn nhiều hứng
thú với thể loại này. Tác giả Trần Hữu Tá trong cuốn sách Tô Hoài một đời văn
phong phú và độc đáo đã đánh giá về tài năng của Tô Hoài qua hồi ký như sau:


6

Về mặt thể loại, Cỏ dại có hai điều đáng để suy nghĩ. Một là trong văn chương,
vô số nhà viết hồi ký, nhưng ở tuổi hai mươi ít ai đã thành công như Tô Hoài. Hai
là chùm tác phẩm Cát bụi chân ai, Chiều chiều đã khẳng định ông là cây bút hồi
ký có hạng” [61, tr. 19].
Phong Lê đã nhận xét Những gương mặt - chân dung văn học của Tô Hoài
một cách rất sắc sảo: “Ở khu vực ký cũng rất phong phú này của Tô Hoài, theo tôi
phần đáng nhớ nhất là những chân dung văn học được ông gom lại trong tập sách
có tên Những gương mặt” [41, tr. 52].
Hoàng Thị Tâm trong bài Đặc điểm nghệ thuật tự truyện của Tô Hoài sau
1986 nhận định: “Tô Hoài là nhà văn duy nhất đã xây dựng cho mình một dòng
tự truyện riêng không thể lẫn. Tự truyện của ông là những câu chuyện bằng văn
xuôi kể lại dĩ vãng của chính tác giả, có thể gần trọn cuộc đời, có thể thời thơ ấu

hoặc thời thanh niên…người kể chuyện trùng với tác giả hoặc nhân vật
chính…Nhưng khác với tự truyện nói chung (lấy cái tôi vừa làm đối tượng, vừa
là mục đích của miêu tả), tự truyện Tô Hoài lấy đời sống, lấy người khác làm
“khách thể nhận thức” để qua đó tác giả bộc lộ quan niệm nhân sinh của mình”
[62, tr. 68].
Các tác phẩm của Tô Hoài viết sau 1986 những năm gần đây đã trở thành
đối tượng nghiên cứu của các luận văn, luận án. Tác giả Nguyễn Hoàng Hà (Đại
học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên) đã triển khai luận văn ở góc độ Cái nhìn
không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký Tô Hoài. Tác giả đã cho người
đọc thấy được hồi kí, tự truyện của Tô Hoài mang đậm tính chất lịch sử cả về thời
gian và không gian, song lại nghiêng về cuộc sống đời thường. Tác giả đã tiếp cận
và nghiên cứu văn học từ góc độ thi pháp để thấy được mối quan hệ giữa nội dung
và hình thức nghệ thuật nhằm làm nổi bật các tập hồi kí tự truyện của nhà văn:
“Qua hai cuốn hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều từ phương diện cái nhìn
không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký Tô Hoài, tác giả khẳng định hồi
ký của mình mang một đặc điểm riêng độc đáo để cho độc giả chiêm ngưỡng bức


7

chân dung tự họa của bản thân và chân dung các nhà văn tầm cỡ trong nền văn
học nước nhà. Tô Hoài đã xóa nhòa khoảng cách tiếp cận và không đi theo kiểu
hồi tưởng biên niên. Nhà văn lựa chọn lịch sử và đời tư mà nhà văn quan tâm và
có ấn tượng nhất để ghi lại. Những sự kiện sâu đậm ấy lại được hiện diện theo
dòng hoài niệm lan man nhưng vẫn có định hướng để phản ánh cuộc sống và con
người qua nhiều thời kì đầy sôi động của đất nước” [18, tr. 102].
Trong một luận văn khác, tác giả Trần Thị Thủy (Đại học Sư Phạm - Đại
học Thái Nguyên) lại có một cái nhìn mới lạ về văn xuôi Tô Hoài, đó là: Màu sắc
tự truyện trong sáng tác của Tô Hoài. Người đọc thấy được màu sắc tự truyện
thông qua việc sử dụng ngôn ngữ đặc tả chi tiết giúp nhà văn miêu tả thành công

chân dung nhân vật, sự kiện, hình ảnh. Ngôn ngữ đời thường mang tính khẩu ngữ,
giọng điệu trần thuật đa sắc điệu: “Màu sắc tự truyện trong Tự truyện và Cát bụi
chân ai của Tô Hoài càng trở nên đậm nét hơn với cách tái hiện đậm dấu ấn tiểu
thuyết, với việc sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, đặc sắc cộng thêm một quan điểm và
giọng điệu trần thuật hợp lí. Dấu ấn tiểu thuyết đã cho những trang văn tự truyện
của Tô Hoài trở nên gần gũi và đậm chất “Sống” hơn bao giờ hết” [73, tr. 84].
Năm 2017, Mai Thị Khánh Hòa (Đại học Khoa Học Xã Hội và NhânVăn Đại học Quốc Gia Hà Nội) dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Phạm Quang Long
đã tiến hành nghiên cứu thành công luận văn thạc sĩ với đề tài Giao thoa thể loại
trong hồi kí Tô Hoài (qua Cát bụi chân ai, Chuyện cũ Hà Nội, Chiều chiều).
Tác giả đã chỉ ra ngôn ngữ đậm chất phóng sự, kể tả hiện thực cuộc sống trong xã
hội: “Các tác phẩm Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Chuyện cũ Hà Nội có sự giao
thoa giữa phóng sự và hồi ký. Đọc các tác phẩm trên, chúng ta nhận thấy tính
chân thực trong nội dung phản ánh được thể hiện qua bức tranh hiện thực cuộc
sống cùng những vấn đề nóng hổi đang diễn ra lúc bấy giờ cùng với dấu ấn của
khảo cứu văn hóa dân tộc. Xét trên phương diện ngôn ngữ, chúng ta nhận thấy
chất phóng sự thể hiện trong hồi ký thể hiện qua việc vận dụng linh hoạt lối tả, kể


8

xen bình luận và những sáng tạo độc đáo. Các yếu tố trên góp phần làm nên thành
công cho bộ ba hồi ký nổi tiếng của Tô Hoài” [24, tr. 108].
Thông qua những tìm hiểu trên chúng tôi thấy được những vấn đề sau: Thứ
nhất, hồi ký Tô Hoài đã từng là đối tượng quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu
nhưng chưa có tác giả nào tập trung tìm hiểu riêng về yếu tố tự truyện trong văn
xuôi Tô Hoài sau năm 1986. Thứ hai, dù chưa trực tiếp và hệ thống trong việc tìm
hiểu về yếu tố tự truyện trong văn xuôi Tô Hoài sau năm 1986 nhưng các nhà
nghiên cứu đã đưa ra những nhận định khá chính xác về các vấn đề có liên quan
đến hồi ký, tiêu biểu là: nghệ thuật trần thuật, đặc trưng thể loại hồi ký, nhân vật
người kể chuyện…

Chúng tôi coi đây là những gợi ý sáng giá để triển khai nội dung luận văn.
Đặc biệt nhờ kết quả nghiên cứu của các tác giả chúng tôi nhận thấy hồi ký Tô
Hoài có một số đặc điểm của tự truyện, tiểu thuyết và phóng sự xét trên cả bình
diện nội dung và nghệ thuật. Từ đó kế thừa và phát triển kết quả nghiên cứu của
các tác giả trên, chúng tôi tiến tới tìm hiểu đề tài: Yếu tố tự truyện trong văn xuôi
Tô Hoài sau năm 1986.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào việc nghiên cứu: Yếu tố tự truyện trong văn xuôi
Tô Hoài sau 1986.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các tác phẩm mang yếu tố tự
tuyện của nhà văn Tô Hoài đặc biệt chú trọng đến bốn tác phẩm sau năm 1986:
Cát bụi chân ai (2015), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Chiều chiều (2015), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Chuyện cũ Hà Nội (2010), Nxb Thời Đại, Hà Nội.


9

Những gương mặt (2016), Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Chỉ ra những vấn đề cơ bản về yếu tố tự truyện trong một số sáng tác của
Tô Hoài sau 1986. Đồng thời làm rõ những nét đặc sắc riêng trong thế giới nghệ
thuật để có cái nhìn đầy đủ và toàn diện về những đóng góp và sáng tạo của Tô
Hoài trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở giải quyết những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài, luận văn
làm sáng tỏ yếu tố tự truyện trong một số tác phẩm của Tô Hoài qua các phương

diện cơ bản. Đồng thời chỉ rõ các đặc điểm nghệ thuật thể hiện yếu tố tự truyện
qua các tác phẩm tiêu biểu sau 1986.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp:
5.1. Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở phân tích tổng hợp những giá
trị nội dung và giá trị nghệ thuật chúng tôi chỉ ra được những nét đặc sắc trong
các tác phẩm của Tô Hoài nhằm góp thêm một tiếng nói để tiếp tục khẳng định
tài năng của nhà văn Tô Hoài trong sự nghiệp văn học của nước nhà.
5.2. Phương pháp khảo sát, thống kê: Trong quá trình triển khai đề tài, chúng
tôi sử dụng phương pháp khảo sát thống kê để có những ý kiến đánh giá, những
nhận xét, những dẫn chứng tiêu biểu phục vụ cho việc làm sáng tỏ vấn đề: Yếu
tố tự truyện trong văn xuôi Tô Hoài sau 1986
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu: Phương pháp này được sử dụng để làm
nổi bật sự khác biệt, độc đáo trong các sáng tác của Tô Hoài trong từng giai đoạn
sáng tác.


10

5.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Tìm hiểu hoàn cảnh văn hóa - lịch sử
ảnh hưởng đến nhà văn và tác phẩm.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ các yếu tố tự truyện nổi bật trong văn xuôi Tô Hoài sau
1986 qua đó khám phá những nét đẹp trong đời sống tâm hồn, cuộc sống của nhà
văn Tô Hoài cũng như những đối tượng thẩm mỹ trong văn Tô Hoài.
- Thông qua những kết quả nghiên cứu, luận văn cũng góp phần cung cấp
cái nhìn sâu sắc và toàn diện những giá trị nghệ thuật trong tự truyện của nhà
văn Tô Hoài để thấy được tài năng và vị trí của Tô Hoài trong nền văn xuôi
đương đại.
- Luận văn sẽ là nguồn tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy

nhà văn Tô Hoài trong nhà trường.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được triển
khai thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Hiện thực cuộc sống và sự thể hiện cái tôi trong văn xuôi Tô
Hoài sau 1986
Chương 3. Nghệ thuật thể hiện yếu tố tự truyện


11

NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Yếu tố tự truyện
Thuật ngữ tự truyện có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp nhưng lại vô cùng quen
thuộc với lí luận văn học và sáng tác văn chương ở nước ta từ trước đến nay. Sự
xuất hiện của nhiều tác phẩm tự truyện đã cho thấy rõ sự lên ngôi của cái “tôi”
với những biểu hiện mới mẻ và vô cùng độc đáo. Theo Từ điển thuật ngữ văn
học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên thì: “Tự truyện
là tác phẩm văn học thuộc thể loại tự sự do tác giả viết về cuộc đời mình” [20, tr.
389]. Còn theo Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu chủ biên: “Tự truyện thường là
những câu chuyện viết bằng văn xuôi, kể lại dĩ vãng của chính tác giả…bởi vì, về
quá khứ, kỷ niệm bị xóa mờ với thời gian, vì tư duy khi viết về tự truyện đã trải
qua biết bao cảnh đời, và vì các sự kiện được sắp xếp, bố cục lại, suy ngẫm lại,
nên khó mà trùng hợp với sự thật…Tự truyện không phải là một tập hợp những
kỷ niệm tản mạn, mà được bố trí như một truyện, một tiểu thuyết” [23, tr. 905906]. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn, cũng đưa
ra định nghĩa: “Tự truyện là tác phẩm văn học tự sự, thường được viết bằng văn

xuôi, trong đó tác giả tự kể và miêu tả cuộc đời của bản thân mình” [3, tr. 22].
Tác phẩm tự truyện hướng đến vấn đề lý giải cuộc sống đã qua của tác giả
để tạo ra những đường nét mạch lạc cho thực tế cuộc sống. Người viết tự truyện
đôi khi cũng thêm thắt, sắp xếp lại các chi tiết nhằm làm cho việc trình bày trở
nên hợp lý và nhất quán hơn. Nó ghi dấu thời gian đã lùi xa để nhớ về tuổi thơ,
tuổi trẻ và làm sống lại nhiều kỷ niệm nhất của cuộc đời mỗi con người. Thông
qua hồi ức, cái “tôi” hiện ra như một thực thể đang phát triển và lớn dần. Tự truyện
là một vấn đề được quan tâm của văn học phương Tây với mong muốn kể lại cuộc


12

đời mình từ những kỉ niệm tuổi thơ song nó chỉ thật sự được xuất hiện khi nền
văn học chuyển sang dòng văn học lãng mạn với chủ nghĩa cá nhân phát triển
mạnh mẽ. Năm 1974 trong tiểu luận Hiệp ước tự thuật (Le Pacte
Autobiographique), Philippe Lejeune trình bày một định nghĩa nổi tiếng nhằm
xác lập những dấu hiệu về mặt hình thức của tự truyện: Đó là “thể loại tự sự tái
hiện dĩ vãng, trong đó một con người có thật kể lại cuộc sống của mình, nhấn
mạnh về đời sống riêng tư, đặc biệt là về mặt lịch sử hình thành nhân cách” [39,
tr. 19]. Nhà văn đã biến cuộc đời nhân vật thành một bức chân dung tự họa khi
viết lại câu chuyện. Có thể bức chân dung ấy khác với bức chân dung thật hoặc
đôi khi có những nét tương đồng nhưng được tác giả sắp xếp nhào nặn thành một
sáng tạo nghệ thuật để từ đó hình thành nên cái “tôi” tác giả nhằm phát triển nhân
cách của nhân vật trong quá khứ với tư cách là hình tượng trung tâm của tác phẩm
và tính xác thực tương đối của cốt truyện.
Nguyễn Thành Thi trong Văn học thế giới mở đã viết: “Nhà văn khi sáng
tác tác phẩm bao giờ cũng sáng tác theo một mô hình thể loại xác định. Thể loại
tác phẩm văn học, thường được hiểu là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác
phẩm, trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất
định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể” [68, tr.12]. Nhà văn khi

sáng tác nên các tác phẩm luôn phải tuân thủ những quy định để tạo ra những nét
riêng biệt và những đặc trưng cơ bản của thể loại đó. Trong tác phẩm tự truyện
chúng ta hay gặp hai nhân vật “tôi” - một thuộc về quá khứ và một đang tồn tại
song song với người đọc để kể lại câu chuyện đã qua. Nhân vật “tôi” trong quá
khứ là thuộc về cái đã qua được tái hiện qua lời nói hành động của người kể
chuyện. Còn cái “tôi” của hiện tại là cái “tôi” nhà văn, nhà văn dùng suy nghĩ,
tình cảm của mình…để xây dựng nên tác phẩm mang yếu tố tự truyện. Từ đó,
hình ảnh nhân vật “tôi” xuất hiện bằng những xúc cảm khác nhau: Có lúc suy tư
trăn trở, có lúc lại mang những khát vọng lớn lao và đôi lúc là những kỉ niệm ào
ạt tràn về trong tâm trí nhà văn.


13

Do đó tự truyện là tác phẩm văn học tự sự mà tác giả viết về cuộc đời của
chính mình. Ở đây nhà văn đôi khi hư cấu thêm bớt các chi tiết của cuộc đời để
làm cho số phận nhân vật trở nên hợp lí hơn. Nhưng theo Hà Minh Đức trong Lý
luận văn học: “Trong tác phẩm tự sự, đời tư của nhà văn chỉ là chất liệu hiện
thực được tác giả sử dụng với những mục đích khác nhau…Tự truyện có thể bao
quát hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự, sử thi…”. Qua các
nhân vật được xây dựng trong truyện, người viết có dịp nhớ lại những kỉ niệm
tuổi thơ và tìm lại được những kinh nghiệm sống quý báu. Một tác phẩm tự truyện
hoàn hảo đó là khi người viết đạt được ba mục đích cơ bản, quan trọng: tự thú,
thể nghiệm và triết lí. Quay về quá khứ là để hướng đến tương lai để chiêm nghiệm
và nhìn rõ hơn những giá trị của cuộc sống hiện tại.
Văn học Việt Nam trước 1975 do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ
quan nên các nhà văn thường ít khi kể lại câu chuyện của đời mình. Nhưng, bước
vào giai đoạn văn học sau đổi mới, tự truyện dần trở thành một khuynh hướng
được nhiều nhà văn quan tâm. Điều cốt yếu làm nên sự thay đổi nhận thức này
chính là sự phát triển của ý thức cá nhân. Bên cạnh đó là ý thức về việc tái hiện

hiện thực và sự hư cấu trong sáng tác. Đỗ Hải Ninh khi nghiên cứu về yếu tố tự
truyện đã chia các tác phẩm văn xuôi tự truyện thành hai dạng thức cơ bản: Những
thể loại hư cấu và phi hư cấu. Người đọc dựa vào trình độ tiếp nhận của mình để
xác định đó là tác phẩm có hư cấu hay không? Và thực tế cho thấy sự phân chia
tác phẩm tự truyện là hư cấu hay phi hư cấu chỉ mang tính chất tương đối mà thôi.
Như vậy, trong tác phẩm mang yếu tố tự truyện, cốt truyện thường có mối
quan hệ chặt chẽ với tiểu sử, cuộc đời của nhà văn. Chất liệu đời tư được nhà văn
lựa chọn để xây dựng cốt truyện một cách có mục đích. Yếu tố thực từ cuộc đời
tác giả xuất hiện đậm đặc hơn, ít bị che khuất hơn. Những câu chuyện trong tự
truyện thường là những việc đã xảy ra trong quá khứ, vì vậy cái nhìn trong tự
truyện là cái nhìn hồi cố, giọng văn thể hiện sự chiêm nghiệm, từng trải. Trải qua
sự phát triển theo từng thời kỳ, tự truyện cũng có sự biến đổi nhất định để phù hợp


14

với từng giai đoạn. Các nhà nghiên cứu khi phân loại tự truyện có thể dựa vào
hình thức biểu đạt chủ thể trong tự truyện để chia thành hai nhóm: Tự truyện thuần
túy và tự truyện biến thể. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến cho rằng không thể có
tự truyện thuần túy vì khi viết ra câu chuyện của mình, các nhà văn đã có một
khoảng cách về thời gian, trí nhớ của người kể, mục đích của người kể đã có một
độ di lệch nhất định giữa câu chuyện kể và hiện thực. Tức là độ chính xác không
còn. Tuy nhiên, sự phát triển của văn học cũng đem lại những đặc tính riêng của
nó và mỗi thể loại đều có những ranh giới xác định một cách tương đối.
1.1.2. Thể loại hồi ký
Hồi ký thuộc thể loại ký, thường thiên về trần thuật từ ngôi tác giả. Nội dung
của hồi ký thường tái hiện lại các sự kiện có thực xảy ra trong quá khứ mà tác giả
đã từng chứng kiến. Đây là thể loại ra đời từ rất sớm qua những ghi chép về các
cuộc hành trình của người Hy Lạp thông qua những kí ức của Kxê - nô- Phôn và
Xô - cơ - rát (thế kỉ V tr. CN) và được xem là tác phẩm hồi ký xưa nhất. Hồi ký tự

bản thân nó đã thể hiện rất rõ sự biến động của cuộc sống của thời gian. Đặc biệt
là các sự kiện và sự thay đổi của lịch sử của thời đại, dân tộc. Hồi ký được coi là
một thể loại văn học có tính thời sự vì việc tìm hiểu về hồi ký với tư cách là một
thể loại văn học cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi đồng chủ biên. Các tác giả đã đưa ra khái niệm: “Hồi kí là một thể loại
thuộc loại hình kí, kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là
người tham dự hoặc chứng kiến” [20, tr. 152]. Họ còn cho rằng: “Xét về phương
diện quan hệ giữa tác giả với sự kiện được ghi lại về tính chính xác của sự kiện,
về góc độ và phương thức diễn đạt, hồi kí có nhiều chỗ gần với nhật kí. Còn về
phương diện tư liệu, về tính xác thực và không có hư cấu thì hồi kí lại gần với
văn xuôi lịch sử, tiểu sử khoa học” [20, tr. 152]. Hồi kí được tác giả suy nghĩ kỹ
trước khi viết và phải luôn đặt tính chân thật lên hàng đầu. Đó có thể là một câu


15

chuyện mà tác giả được chứng kiến hoặc lấy chất liệu từ chính cuộc đời của mình
để làm đối tượng khai thác.
Theo Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu chủ biên cho rằng: “Tác phẩm hồi
ký là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện có thực xảy ra trong
quá khứ mà tác giả tham dự hoặc chứng kiến” [23, tr. 648]. Đây là cách lý giải
ngắn gọn và dễ hiểu nhất cho mọi tầng lớp bạn đọc. Tuy nhiên nó lại thiếu độ mở
không phù hợp với tình hình phát triển của hồi ký hiện đại. Trong thực tế các tác
phẩm hồi ký ra đời vào những năm đầu thập niên của thế kỷ XXI luôn có sự đa
dạng về nghệ thuật tự sự và kết cấu. Nhiều tập hồi ký không chỉ là ghi chép những
sự kiện, ký ức những dòng hồi tưởng không theo dòng chảy thời gian tuyến tính
mà có sự đứt nối, chắp vá, đan xen giữa quá khứ và hiện tại vô cùng linh hoạt.
Xét về thể loại thì các nhà nghiên cứu phê bình đều cho rằng: Hồi ký là một
tiểu loại của ký. Quan niệm này thống nhất trong hầu hết các công trình lý luận

văn học. Công trình Lí luận văn học do tác giả Trần Đình Sử chủ biên lại phân
loại ký tự sự thành những tiểu loại và ghép chung nhật ký với hồi ký xem hồi ký
là “thể loại ghi chép các sự kiện quá khứ đã trải qua do đương sự thực hiện, cũng
là một hình thức văn học riêng tư, mình nói về mình, một dạng tự truyện của tác
giả. Hồi ký cung cấp những tư liệu của quá khứ mà đương thời chưa có điều kiện
nói được” [75, tr. 379 - 380].
Ta có thể thấy được sự thống nhất của các nhà nghiên cứu ở một số điểm
sau: Thứ nhất hồi ký là một bức tranh tái hiện quá khứ với người thật việc thật và
trong đó tác giả chính là người trong cuộc hoặc được chứng kiến...Thứ hai ở từng
chặng đường giai đoạn văn học, hồi ký có đời sống riêng luôn vận động thay đổi
tùy theo từng thời kỳ khiến cho các khái niệm quy ước có tính quy phạm không
thể lý giải hết sự đa dạng của nó. Vì vậy cần phân chia ranh giới rõ ràng giữa hồi
ký với các thể loại gần. Từ đó mà một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra điểm tương
đồng và khác biệt của hồi ký với những tiểu loại khác của ký. Nhóm tác giả trong
Từ điển Văn học (bộ mới) quan niệm: “Hồi ký gần nhật ký ở hình thức giãi bày,ở


16

chỗ không dùng thủ pháp cốt truyện, ở cách kể thường theo thứ tự thời gian, ở
việc chú ý đến các sự kiện mang tính tiểu sử” [56, tr. 646 - 647]. Lại Nguyên Ân
trong 150 thuật ngữ văn học có mở rộng so sánh: “Có những tác phẩm hồi ký rất
gần với văn xuôi lịch sử; lại có những tác phẩm gần với tiểu thuyết;…một dạng
hồi ký viết về các nhà văn, nghệ sĩ, nhà hoạt động xã hội, gọi là chân dung văn
học” [3, tr. 155].
Theo các nhà nghiên cứu phê bình thì hồi kí là một thể loại văn học luôn
đề cao tính chính xác và độ chân thực của các sự kiện. Tô Hoài - nhà văn rất
thành công trong thể loại hồi kí cũng đưa ra nhận định riêng của mình về: “Kí là
một thể loại mang tính cách riêng, tính cách của một lối viết ra những cảm xúc
trước sự việc mắt thấy, tai nghe. Kí có lối xây dựng chủ đề, nhân vật, kết cấu,

tình tiết, ngôn ngữ riêng biệt” [28, tr. 25], cái hấp dẫn của hồi kí là ở đó. Hồi ký
là cách viết đi sâu vào thời đại. Bên cạnh những câu chuyện của bản thân thì tác
giả còn viết về những câu chuyện của người khác. Trong khi đó tự truyện lại chỉ
tập trung vào cá nhân người viết. Sự khác biệt nhau còn được thể hiện ở chỗ: hồi
kí và nhật kí là thể kí chuyên ghi chép các sự kiện còn tự truyện thuộc về thể loại
tự sự. Mỗi tác phẩm tự truyện hiện ra thông qua trí tưởng tượng, sự sáng tạo xắp
xếp các chi tiết, nhân vật vô cùng hợp lí của nhà văn và ghi lại dấu ấn phong cách
nghệ thuật của người viết. Trong Từ điển Văn học (bộ mới), Đỗ Đức Hiểu phân
biệt: “Hồi ký có thể chỉ ghi lại những sự kiện về một thời kỳ lịch sử, mà tác giả
không phải là nhân vật chính; còn tự truyện kể chuyện của cái “tôi” tác giả. Tự
truyện không phải một tập hợp những kỉ niệm tản mạn, mà được bố trí như một
truyện, một tiểu thuyết” [56, tr. 906].
Tự truyện - hồi ký là thể loại được các nhà văn ưa chuộng và bạn đọc yêu
thích bởi đây là những tác phẩm mà bằng ký ức, các nhà văn đã ngược dòng thời
gian kể về những câu chuyện đã qua về bản thân, gia đình, bạn bè với “cái tôi
nhân chứng” rõ nét. Những tác phẩm như Cỏ dại, Tự truyện, Chiều chiều, Cát
bụi chân ai (Tô Hoài), Đời viết văn của tôi (Nguyễn Công Hoan), Hồi ký song


17

đôi (Huy Cận - Xuân Diệu), Cô bé nhìn mưa (Đặng Thị Hạnh), Nhớ lại (Đào
Xuân Quý)…là những cảm xúc chân thành và những trải nghiệm sâu sắc của mỗi
cá nhân nhà văn. Tuy nhiên, cái hay của tự truyện hồi ký là nhà văn không tập
trung vào việc kể lại cuộc đời mình mà thường mở rộng khái quát bức tranh xã
hội của cả một thê hệ, thời đại.
Trong bài Kí và giảng dạy Kí, Hoàng Như Mai viết: “Những điểm khác
nhau cơ bản giữa hồi kí và tự truyện là tự truyện thiên về kể lại những chuyện
thân mật, bình thường nhiều hơn mà hồi kí thì thiên về những sự kiện có tính lịch
sử. Cũng do đặc điểm này, mà sự hư cấu trong tự truyện có thể xảy ra ngoài ý

muốn chủ quan của người viết. Cho nên nói về giá trị lịch sử thì hồi kí hơn tự
truyện, nhưng đứng về tính chất văn học thì tự truyện có thể hơn hồi kí vì tự
truyện thuộc phạm trù của truyện” [44, tr. 218]. Tự truyện là một thể loại mang
nét tương đồng gần giống với các thể loại khác: hồi ký, nhật ký nên khó phân
biệt. Các thể loại này giống nhau ở chỗ đều là “chuyện đời tự kể”. Điểm khác là
tự truyện và hồi kí viết về quá khứ một cách trọn vẹn thì nhật ký lại viết về hiện
tại và tương lai đôi khi còn dang dở. Tự truyện và hồi ký là viết cho người khác
thì nhật ký lại viết cho chính mình mang tính thầm kín.
Các nhà nghiên cứu phê bình cho rằng hồi kí rất gần với nhật kí ở hình
thức giãi bày, ở cách kể theo trình tự thời gian đến các sự kiện mang tính chất
tiểu sử. Nhật ký là một dạng văn học tồn tại dưới hình thức trần thuật ở ngôi thứ
nhất và ghi chép các sự kiện diễn ra hàng ngày có ghi ngày, tháng, năm. Hơn hết
nhật kí ghi chép đầy đủ trung thành, không hư cấu. Nhật ký ghi lại những sự kiện
đời tư nhằm bộc lộ những cảm xúc suy nghĩ của bản thân. Trong khi đó hồi ký
là sự sắp xếp sự kiện rời rạc không liền mạch trong trí nhớ của tác giả và đặc biệt
là có thể có hư cấu: “Người viết hồi ký kể lại những điều mà mình có dịp quan
sát, hoặc nghe trực tiếp, những sự việc và con người để lại những ấn tượng sâu
sắc, gắn bó với những kỷ niệm riêng, nhưng đồng thời cũng có một nội dung xã
hội phong phú” [12, tr. 230]. Các trang hồi ký bao giờ cũng bộc lộ sự chiêm


18

nghiệm về cuộc sống để dần dần hé mở những bí mật của cuộc đời. Đó có thể là
bí mật riêng tư hoặc bí mật cộng đồng hay những khoảnh khắc lớn lao của thời
đại những trăn trở, suy ngẫm về con người và thời cuộc. Chính điều này làm cho
nội dung của hồi ký gắn với những kỉ niệm riêng nhưng lại có nội dung xã hội
phong phú. Câu chuyện xảy ra thuộc về quá khứ song có nhiều liên hệ và gắn bó
với hiện tại.
Hồi ký xuất hiện như một sự tổng kết về cuộc đời để làm sống lại một lần

nữa cuộc đời đã qua nhằm có cái nhìn khách quan và đánh giá lại chính cuộc đời
mình bằng sự trải nghiệm của bản thân. Viết hồi ký là nhu cầu để nhà văn giải tỏa
những ẩn ức được thôi thúc từ bên trong. Điều này khiến cho hồi ký phát triển
mạnh mẽ. Từ một thể tài còn non trẻ hồi ký đã đạt được những thành tựu lớn trong
văn học và trở thành một thể loại độc lập có đời sống riêng, diện mạo riêng. Nhờ
vậy mà các tác phẩm của Tô Hoài có những đặc điểm riêng không giống ai. Một
mặt ông luôn tuân thủ những yêu cầu riêng của hồi ký mặt khác ông luôn in đậm
cá tính sáng tạo của mình. Trong đó các tác phẩm Cát bụi chân ai, Chiều chiều,
Chuyện cũ Hà Nội và Những gương mặt là các tác phẩm tiêu biểu minh chứng
cho phong cách viết hồi ký của Tô Hoài.
1.2. Yếu tố tự truyện trong văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại
1.2.1. Yếu tố tự truyện trong văn học giai đoạn trước 1975
Với tác phẩm văn học, nhân vật luôn là yếu tố quan trọng khi nó đại diện
cho ý thức của tác giả. Trong các thể loại văn học, cái “tôi” tác giả vừa là chủ
thể sáng tạo đồng thời cũng là đối tượng phản ánh đầu tiên. Tác phẩm mang yếu
tố tự truyện phản ánh trực tiếp và rõ nét nhất ý thức về cái “tôi” của nhà văn. Sự
phát triển của yếu tố tự truyện trong văn học Việt Nam là tấm gương phản chiếu
chân thành nhất về hành trình ý thức của cái “tôi” qua các giai đoạn, thời kì.
Trong giai đoạn 1930 - 1945 thể loại hồi kí và tiểu thuyết phát triển mạnh
trên văn đàn. Sự phát triển của các thể loại mang yếu tố tự truyện giai đoạn này


19

là do có sự du nhập của văn hóa phương Tây vào Việt Nam, làm thay đổi hoàn
toàn về đời sống xã hội cũng như những nhận thức tư tưởng của con người. Tuy
nhiên văn học Việt Nam giai đoạn này phát triển trong một hoàn cảnh vô cùng
khó khăn nên nội dung tư tưởng của nhiều tác phẩm chưa thật sự sâu sắc, cách
nhìn đời nhìn người vô cùng đơn giản, phiến diện. Văn học chưa có nhiều điều
kiện để tìm hiểu sâu hơn những khó khăn phức tạp của cuộc sống, những tổn thất

mất mát trong chiến tranh. Bởi vậy, chất lượng nội dung và nghệ thuật của nhiều
tác phẩm còn non kém, sự sáng tạo của nhà văn còn mờ nhạt…
Đến thời kì 1945 - 975 khi đất nước bước vào cuộc kháng chiến thì các
tác phẩm hồi ký mang yếu tố tự truyện phát triển theo một hướng khác. Xã hội
lúc này đang xảy ra sự xung đột dân tộc và giai cấp nên văn học chuyển hướng
sang thể kí sự, bút kí nhằm kịp thời phản ánh các sự kiện dồn dập diễn ra trên
khắp đất nước. Đặc biệt là sự xuất hiện trở lại của hồi kí cách mạng, đây là dòng
hồi tưởng của những chiến sĩ cách mạng, của các sĩ quan quân đội về những năm
tháng hoạt động cách mạng đầy gian khổ với những chiến công oanh liệt mà họ
và đồng đội đã trải qua. Hồi kí, tự truyện cách mạng luôn đề cao chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng để bồi đắp tình cảm yêu nước, lòng tự
hào về truyền thống cách mạng của các thế hệ cha ông đi trước mở đường. Những
cuốn hồi kí Hai lần vượt ngục của Trần Đăng Ninh; Bất khuất của Nguyễn Đức
Thuận; Những năm tháng không thể nào quên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
do Hữu Mai thể hiện; Nhân dân ta rất anh hùng của Hoàng Quốc Việt (nhà báo
Thép Mới ghi); Không còn con đường nào khác (Nguyễn Thị Định);…là những
minh chứng rõ nét cho sự phát triển của yếu tố tự truyện trong văn học Cách mạng.
Nhân vật trong hồi kí là những con người gắn liền với các biến cố trọng đại của
Cách mạng của dân tộc. Họ là những con người hi sinh hết mình chiến đấu vì
nước vì dân.
Ở thời kì này hồi ký phong phú hơn thời kì 1930 - 1945 do độ lùi của thời
gian đủ để nhiều nhà văn nhìn lại quá khứ. Diện mạo văn học đa dạng hơn, đội


×