Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Luận văn Nghệ Thuật Phóng Sự Trong Tiểu Thuyết Lều Chõng Của Ngô Tất Tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.29 KB, 66 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

HÀ THỊ QUỲNH

NGHỆ THUẬT PHÓNG SỰ
TRONG TIỂU THUYẾT LỀU CHÕNG
CỦA NGÔ TẤT TỐ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

HÀ THỊ QUỲNH

NGHỆ THUẬT PHÓNG SỰ
TRONG TIỂU THUYẾT LỀU CHÕNG
CỦA NGÔ TẤT TỐ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. THÀNH ĐỨC BẢO THẮNG

HÀ NỘI - 2018




LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện đƣợc khóa luận này, tác giả khóa luận đã nhận đƣợc sự
giúp đỡ thƣờng xuyên tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn –
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô giáo trong tổ Văn
học Việt Nam và TS. Thành Đức Bảo Thắng – ngƣời hƣớng dẫn trực tiếp.
Tác giả xin đƣợc bày bỏ lòng biết ơn và gửi lời cám ơn trân trọng nhất
tới các thầy cô!
Hà Nội, ngày 01 tháng 05 năm 2018
Tác giả khóa luận

Hà Thị Quỳnh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: khóa luận tốt nghiệp Nghệ thuật phóng sự trong tiểu
thuyết Lều chõng của Ngô Tất Tố là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố
trong bất cứ công trình nào.
Hà Nội, ngày 01 tháng 05 năm 2018
Tác giả khóa luận

Hà Thị Quỳnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3

3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Đối tƣợng, pham vi nghiên cứu .................................................................... 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 4
6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 4
7. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 4
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 6
1.1. Khái niệm phóng sự ................................................................................... 6
1.1.1. Sự ra đời của phóng sự ........................................................................... 6
1.1.2. Quá trình phát triển của phóng sự Việt Nam .......................................... 9
1.1.3. Một số quan niệm về phóng sự.............................................................. 11
1.1.4. Đặc trưng của phóng sự ........................................................................ 13
1.1.4.1. Phóng sự luôn phản ánh sự thật ........................................................ 13
1.1.4.2. Phóng sự sử dụng bút pháp miêu tả, tường thuật kết hợp với nghị luận14
1.1.4.3. Ngôn ngữ phóng sự chính xác khách quan ........................................ 16
1.2. Vị trí của phóng sự Lều Chõng trong sự nghiệp của Ngô Tất Tố............ 17
1.2.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Tất Tố ............................ 17
1.2.2. Tiểu thuyết Lều chõng của Ngô Tất Tố ................................................. 20
CHƢƠNG 2. BIỂU HIỆN CỦA CHẤT PHÓNG SỰ TRONG TIỂU
THUYẾT LỀU CHÕNG .............................................................................................. 25
2.1. Vấn đề phản ánh đậm chất thời sự ........................................................... 25
2.2. Nghệ thuật trình bày tƣ liệu ..................................................................... 33


2.2.1. Ngôn ngữ mang “cái tôi” trần thuật của tác giả.................................. 34
2.2.2. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................................ 36
2.2.3. Ngôn ngữ giàu tính thời sự và tính chiến đấu....................................... 39
CHƢƠNG 3. GIÁ TRỊ CỦA NGHỆ THUẬT PHÓNG SỰ TRONG TIỂU
THUYẾT LỀU CHÕNG ................................................................................. 46
3.1. Những giá trị mang tính truyền thống...................................................... 46

3.1.1. Giá trị văn hóa vật thể .......................................................................... 46
3.1.2. Giá trị văn hóa phi vật thể .................................................................... 47
3.2. Những đóng góp về nội dung .................................................................. 49
3.2.1. Góp phần hoàn thiện bức tranh hiện thực về chế độ khoa cử phong kiến 50
3.2.2. Phê phán phong trào “phục cổ” của thực dân ..................................... 53
3.2.3. Thể hiện tinh thần nhân đạo ................................................................. 55
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngô Tất Tố đƣợc coi là một trong những nhà văn hàng đầu của trào lƣu
văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam trƣớc 1945. Các tác phẩm nổi tiếng
của ông nhƣ Tắt đèn, Việc làng và khi nhắc đến Ngô Tất Tố ta không thể
không nhắc đến tiểu thuyết Lều chõng. Ngô Tất Tố đƣợc nhắc tới là một nhà
Nho lão thành, thấm sâu nền văn hóa cũ, và chính ông cũng đã từng mang lều
chõng đi thi, từng thi hỏng và từng đỗ đạt. Ngô Tất Tố - nhà văn giao thời, đó
chính là cái tên mà không ít ngƣời đã quan sát và đặt cho ông, khi họ thấy
đƣợc tính chất giao thời đƣợc thể hiện rõ nét trong tiểu thuyết Lều chõng.
Lều chõng ra mắt độc giả lần đầu trên báo Thời vụ năm 1939, xuất bản
thành sách năm 1941, đƣợc coi là một trong hai kiệt tác văn chƣơng làm nên
tên tuổi của ông trong dòng văn học hiện thực 1930 – 1945. Tiểu thuyết là câu
chuyện kể về con đƣờng tiến thân thông qua thi cử của kẻ sĩ sống dƣới thời
phong kiến. Tác phẩm đã cung cấp cho chúng ta một kho tài liệu vô cùng quý
giá, trung thực, tỉ mỉ về chế độ khoa cử đã lỗi thời. Bên cạnh đó, tác giả cũng
bộc lộ thái độ phê phán, quyết tâm từ bỏ song không phải không day dứt. Tái
hiện đƣợc những mặt trái của hiện thực xã hội qua chế độ khoa cử cũ là sự
thành công của Ngô Tất Tố khi kết hợp nhuần nhuyễn thể loại tiểu thuyết với
thể văn tƣ liệu - nghệ thuật phóng sự. Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu gọi

Lều chõng là cuốn tiểu thuyết phóng sự với thái độ trân trọng tài năng, phẩm
chất của Ngô Tất Tố. Đây cũng chính là đặc điểm của văn học Việt Nam giai
đoạn này: sự đan xen giữa các yếu tố thể loại trong một tác phẩm, tác giả.
Đúng nhƣ M. Bakhtin nhận định trong công trình nổi tiếng của mình (Lý luận
và thi pháp tiểu thuyết) khi đề cao vai trò của tiểu thuyết trong hệ thống thể
loại văn học thời hiện đại: “Tiểu thuyết là thể loại văn chƣơng duy nhất luôn

1


luôn biến đổi, do đó nó phản ánh sâu sắc hơn sự biến chuyển của bản thân
hiện thực. Chỉ kẻ biến đổi mới hiểu đƣợc sự thay đổi. Tiểu thuyết sở dĩ đã trở
thành nhân vật chính trong tấm kịch phát triển văn học thời đại mới, bởi vì nó
là thể loại duy nhất do thế giới mới ấy nảy sinh và đồng chất với thế giới ấy
về mọi mặt. Tiểu thuyết về nhiều phƣơng diện đã và đang báo trƣớc sự phát
triển tƣơng lai của toàn bộ nền văn học. Vì thế một khi đã có đƣợc vị trí thống
ngự, nó xúc tác làm đổi mới tất cả các thể loại khác, nó làm chúng lây nhiễm
tính biến đổi và tính không hoàn thành. Nó lôi cuốn chúng một cách đầy
quyền lực vào quỹ đạo của mình, chính bởi vì quỹ đạo ấy trùng hợp với
phƣơng hƣớng phát triển cơ bản của toàn bộ nền văn học” [1, 27 – 28].
Phóng sự xuất hiện ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX và
đƣợc biết tới là thể loại của báo chí. Đặc trƣng của thể loại này là tính chính
xác của hiện thực, tính thời sự cấp bách và có cả tính chính trị - xã hội. Khi tái
hiện hiện thực cuộc sống, không ít các nhà văn đã vận dụng hài hòa, hiệu quả
thể văn tƣ liệu này và tạo đƣợc những hiệu ứng tích cực: vừa giúp ngƣời đọc
thấy đƣợc hiện thực khách quan một cách chân thực nhất, vừa bộc lộ tình
cảm, thái độ trƣớc cuộc sống, xã hội. Đó là những yếu tố cần thiết để làm nên
sự thành công của tiểu thuyết Lều chõng khi tái hiện diện mạo của xã hội
đƣơng thời qua chế độ khoa cử. Ngô Tất Tố nắm bắt và kết hợp thành công
thể loại tiểu thuyết với nghệ thuật phóng sự, thể hiện tài năng, cái nhìn sắc

bén và vô cùng nhạy cảm với thời cuộc.
Việc chọn và thực hiện đề tài: Nghệ thuật phóng sự trong tiểu thuyết
Lều chõng của Ngô Tất Tố, tác giả khóa luận coi đó là một công việc nghiên
cứu khoa học thực sự và vô cùng cần thiết cho sinh viên năm cuối. Từ đó,
giúp cho tác giả trau dồi kiến thức bổ sung thông tin để phục vụ công việc
giảng dạy sau này.

2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về tiểu thuyết của Ngô Tất Tố, qua việc tìm hiểu chúng tôi thấy rằng
đến thời điểm hiện tại đã có không ít những bài viết đề cập đến những tác
phẩm của ông. Có thể kể đến các nhà phê bình nhƣ: Kiều Thanh Quế, Vũ
Ngọc Phan, Trần Văn Minh, Nguyễn Đăng Mạnh...
Nhà nghiên cứu Kiều Thanh Quế trong bài phê bình tác phẩm “Lều
chõng của Ngô Tất Tố” đã xác định đặc trƣng thể loại và đánh giá ý nghĩa nội
dung hiện thực: “Lều chõng của Ngô Tất Tố là một phong tục tiểu thuyết
nhƣng lại có tính cách lịch sử - lịch sử khoa cử ngày xƣa! Các nhân vật của
lịch sử không có trong đó; nhƣng cả một thời đại khoa cử của quá khứ trong
đó, đƣợc tiểu thuyết hóa bởi một nhân vật của lịch sử khoa cử Việt Nam: ông
đầu xứ Ngô Tất Tố... Đọc Lều chõng, nhiều ngƣời chỉ để ý đến chỗ khả quan
của một chế độ khoa cử phiền phức ngày xƣa thôi. Chớ mặt trái chế độ còn
chứa biết bao nhiêu là chi tiết đáng thƣơng tâm: nào là phải đóng quyển văn
viết bài thi cho hợp phép; nào là không đƣợc đồ, di, câu, cải, nếu không,
phạm trƣờng qui! Ngoài ra còn các ngoại hạn, ngoại hàm, khiếm trang, khiếm
tị, phạm húy... Kể sao cho xiết những điều vô lý ấy? Nó chỉ tổ làm khổ, làm
mờ tối niên lực sáng tạo của sĩ phu thuở trƣớc thôi!” [16, 10 – 11].
Trong bài phê bình tác phẩm “Lều chõng” nhà nghiên cứu Vũ Ngọc
Phan nhận xét: “Cho nên vào thời điểm Lều chõng ra đời, có ngƣời đã nhận

định Lều chõng thuộc vào loại tiểu thuyết phóng sự. Nghệ thuật phản ánh hiện
thực cũng có những chỗ tinh vi, đánh dấu hẳn một giai đoạn lịch sử: vào giữa
thế kỉ XIX” [5, 344]
Tóm lại, phân tích các bài viết về tiểu thuyết Lều chõng, chúng tôi nhân
xét, những lời phê bình về tác phẩm ở trên chỉ quan tâm tới đặc trƣng về thể
loại tiểu thuyết, còn nghệ thuật phóng sự, nghệ thuật mà chúng tôi cho là chủ

3


đạo làm nên diện mạo tiểu thuyết Lều chõng của Ngô Tất Tố thì không đƣợc
đề cập tới nhiều và đặt nó ở vị trí xứng đáng.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ việc khám phá và tìm hiểu chất phóng sự trong tiểu thuyết Lều
chõng của Ngô Tất Tố. Chúng tôi rút ra những thành công của tác giả trong
nghệ thuật phóng sự. Những sáng tạo đó đã góp phần tạo nên sức ảnh hƣởng
của nhà văn với nền văn học dân tộc.
4. Đối tƣợng, pham vi nghiên cứu
Nghiên cứu nghệ thuật phóng sự trong tác phẩm Lều chõng của Ngô Tất
Tố.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp phân tích
Phƣơng pháp thống kê
Phƣơng pháp đối chiếu – so sánh
6. Đóng góp của khóa luận
Đề tài nghiên cứu đi sâu khám phá nghệ thuật phóng sự trong tiểu
thuyết Lều chõng nhằm tăng thêm nguồn tài liệu về nghệ thuật phóng sự trong
tác phẩm này; nêu bật đặc sắc nghệ thuật phóng sự đƣợc sử dụng trong cuốn
tiểu thuyết. Từ đó, đã làm nên một kiệt tác văn chƣơng – Lều chõng của Ngô
Tất Tố.

Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho học sinh hoặc sinh viên
chuyên ngành văn khi nghiên cứu về nhà văn Ngô Tất Tố.
7. Bố cục khóa luận
Khóa luận bao gồm các phần: mở đầu, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội
dung và kết luận.
Phần nội dung của khóa luận đƣợc cấu tạo thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung

4


Chƣơng 2: Biểu hiện của nghệ thuật phóng sự trong tiểu thuyết Lều
chõng.
Chƣơng 3: Giá trị của nghệ thuật phóng sự trong tiểu thuyết Lều chõng

5


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm phóng sự
1.1.1. Sự ra đời của phóng sự
Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX – nền văn học viết Việt Nam hình
thành và phát triển trong môi trƣờng xã hội phong kiến trung đại, đã đạt đƣợc
những thành tựu to lớn, nhƣng ít có những giai đoạn diễn ra sự biến đổi mạnh
mẽ và mau lẹ. Bƣớc sang đầu thế kỉ XX, cơ cấu xã hội và môi trƣờng văn hóa
– tƣ tƣởng có nhiều biến đổi quan trọng, nền văn học dân tộc đã chuyển dần
từ phạm trù văn học trung đại sang văn học hiện đại.
Từ những năm 30 của thế kỷ XX, văn học Việt Nam đƣợc đánh giá là

phát triển mau lẹ. Sự phát triển mau lẹ ấy thể hiện ở cả sự tăng trƣởng về số
lƣợng, cả về nhịp độ kết tinh và ở trên mọi thể loại, mọi khuynh hƣớng văn
học. Nói về tốc độ phát triển của văn học Việt Nam trong thời kỳ này, nhà phê
bình Vũ Ngọc Phan, trong bộ Nhà văn hiện đại đã nhận xét: “Một năm ở ta kể
nhƣ ba mƣơi năm của ngƣời” [12, 22]. Nhiều thể loại mới lần lƣợt ra đời và
đã đóng góp cho sự phát triển của văn học Việt Nam với nhiều tác giả và tác
phẩm tiêu biểu. Trong những thể loại đó thì thể phóng sự chiếm một vị trí lớn
trên diễn đàn văn học. Có đƣợc vị trí đó là nhờ vào những ƣu thế riêng, vô
cùng hữu ích cho việc phục vụ nhu cầu cấp thiết của thời đại mà phóng sự
mang lại: tính xác thực, tính thời sự, tính chính trị, xã hội. Dƣới ngòi bút và
lối viết của các tác giả có thực tài, phóng sự thể hiện thành công chức năng
vốn có.
Phóng sự từ khi xuất hiện đã làm chấn động dân chúng báo chí, còn các
nhà cầm quyền thì ra lệnh đóng cửa các tòa soạn báo, vì tính chất nguy hiểm
của các bài phóng sự. Leonard Ray Teel – Ron Tay đã viết: “Phóng sự có thể

6


là vị trí quyến rũ hơn cả trong nghề báo” [11, 7], còn GS, TS Karel Storkal
(Tiệp Khắc) nhận định là: “Phóng sự là một trong những thể loại báo chí đƣợc
ngƣời đọc yêu thích nhất và cũng là một trong những thể loại khó nhất đối với
ngƣời viết” [11, 7]. Nhiều tài liệu nghiên cứu đã cho rằng thể phóng sự xuất
hiện lần đầu ở Châu Âu vào cuối thế kỉ XIX, khi đó độc giả đã bắt đầu chán
ngấy sự hƣ cấu và khát khao những điều chân thực đang hoặc đã diễn ra trong
xã hội, về những hiện thực đen tối, thối nát của cả một hệ thống chính trị.
Cùng với đó, sự tham gia tích cực của các nhà văn vào địa hạt báo chí đã thúc
đẩy thể loại phóng sự xuất hiện trên thế giới vào cuối thế kỉ XIX.
Ở Việt Nam, phóng sự ra đời khá muộn. Có một số ý kiến cho rằng
phóng sự bắt đầu manh nha từ những tác phẩm ngƣời thực, việc thực nhƣ:

Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái. Trong công trình nghiên cứu
Phóng sự báo chí của nhà xuất bản Lí luận chính trị lại cho rằng: Phóng sự đã có
mặt ở Việt Nam vào những năm 30 của thế kỉ XX, mặc dù báo chí Việt Nam có
từ năm 1863, với nhiều dẫn chứng rất khách quan và thuyết phục nhƣ sau:
Thứ nhất: Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp thực hiện
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, chúng đã thay “chính sách đồng hóa”
bằng “chính sách hợp tác”, chúng đã tung ra những khẩu hiệu mang tính chất
lừa bịp nhƣ “Pháp – Việt đều hều”. Từ khẩu hiệu này của thực dân Pháp,
chúng ta đã đƣa rất nhiều thanh niên trí thức lên đƣờng du học tại các nƣớc
Nhật, Pháp. Trong đó có không ít những ngƣời làm nghề báo, sau một thời
gian họ trở về nƣớc và đem theo những ánh sáng mới của phƣơng Tây về. Có
thể kể đến một số tên tuổi là Tạ Đình Bích, Phùng Bảo Thạch, Đỗ Văn... Họ
đã cùng nhau thực hiện một cuộc cải cách quan trọng trong nghề báo: áp dụng
vào Việt Nam lối viết báo và cách trình bày báo hiện đại đã học đƣợc từ Châu
Âu, với lối hành văn gọn gàng, sáng sủa của ngƣời Pháp. Tác phẩm Bản án
chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc xuất bản ở Pari năm 1925 có thể

7


coi là một thiên phóng sự chính luận giàu tính chiến đấu và sôi nổi tinh thần
yêu nƣớc. Giai đoạn 1930 – 1945 phóng sự nở rộ với nhiều cây bút tài năng
cùng với những tác phẩm xuất sắc và đã có đƣợc tiếng vang rộng rãi trong dƣ
luận. Có thể kể tới phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang, đƣợc đăng trên tờ
Đông Tây vào tháng 8/1932, do Hoàng Tích Chu và Đỗ Văn, hai ngƣời có
công lớn trong việc thay đổi báo chí nƣớc ta. Cuộc thay cũ, đổi mới này đã
tạo điều kiện cho các thể loại báo chí mang phong cách hiện đại du nhập dần
vào Việt Nam, trong đó có phóng sự. Năm 1942, nhà nghiên cứu phê bình Vũ
Ngọc Phan viết: “Ở nƣớc ta, nghề viết báo là một nghề mới có, nên những
thiên phóng sự xứng đáng với cái tên của nó, cũng chỉ mới ra đời trong vòng

mƣơi năm trở lại đây” [15, 520]. Nguyễn Đăng Mạnh có viết: “Vào đầu
những năm 30 của thế kỉ này (tức thế kỉ XX) cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của báo chí, một thể văn mới ra đời; thể Phóng sự” [7, 63].
Thứ hai: Hoàn cảnh đất nƣớc ta trong thời kỳ này, liện tục xảy ra hàng
loạt các sự kiện. Trƣớc tiên, có thể kể đến cơn bão khủng bố trắng 1930 –
1931. Xã hội Việt Nam thời kỳ này tồn tại những mâu thuẫn gay gắt. Sự áp
bức bóc lột của thực dân, những bất công của xã hội đã đẩy dân nhân vào tình
trạng vô cùng khổ cực. Thực trạng xã hội với hình ảnh cùng quẫn của tầng
lớp nghèo hèn dƣới đáy xã hội; sự “phất” lên của những tên quan lại, địa chủ
theo Pháp... là mảng đề tài hiện thực nóng bỏng, đƣợc các nhà văn lựa chọn
để “mổ xẻ”, bằng “một lối tả thực nhƣ kí sự, trào phúng nhƣ văn châm biếm,
cảm ngƣời ta nhƣ văn tiểu thuyết, mà lại bao gồm tất cả lối bút chiến về việc,
nói tóm lại dùng cái lối tạo nên một thể linh hoạt và có hiệu lực vô cùng: thể
Phóng sự” [15, 519].
Thứ ba: Vào đúng thời gian này, nền giáo dục của nƣớc ta đã có những
khởi sắc đáng kể. Hệ thống trƣờng học ngày càng đƣợc mở rộng trên cả nƣớc.
Đó là điều kiện tốt để tạo ra một lƣợng độc giả lớn. Độc giả đòi hỏi phải có

8


những tác phẩm báo chí vừa phản ánh cụ thể chính xác về hiện thực cuộc
sống đa dạng, chân thực, vừa có thể gợi cảm xúc trong lòng ngƣời đọc. Điều
đó thúc đẩy phóng sự ra đời và nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí: là đứa con đầu
lòng của nghề viết báo.
Tóm lại, có thể khẳng định phóng sự bắt đầu manh nha xuất hiện ở Việt
Nam từ khoảng những năm 30 của thế kỉ XX, do tình hình đất nƣớc ta lúc bấy
giờ kết hợp với các cây bút tài hoa vào địa hạt báo chí và do công chúng báo
chí đòi hỏi.
1.1.2. Quá trình phát triển của phóng sự Việt Nam

Phóng sự là thể văn mới đƣợc du nhập vào nƣớc ta, ngay khi ra đời
phóng sự đã tồn tại, và khẳng định vị trí của mình. Nó đã làm đảo lộn, tạo nên
những “cú sốc” trong công chúng báo chí. Có thể xác định ba giai đoạn phát
triển của phóng sự nhƣ sau:
Giai đoạn 1: Từ đầu những năm 30 của thế kỷ XX đến cách mạng
tháng Tám năm 1945
Ở giai đoạn này, phóng sự tuy mới bắt đầu manh nha xuất hiện ở Việt
Nam nhƣng cũng đã cho công chúng thấy rõ đƣợc vai trò quan trọng của thể
tài này. Phóng sự thời kỳ đƣợc đánh dấu bằng tác phẩm “Tôi kéo xe” của
Tam Lang Vũ Đình Chí, đăng lần đầu trên tạp chí Đông Tây. Với tác phẩm
này đã cho thấy phóng sự vừa ra đời đã đạt tới đỉnh cao về nội dung và hình
thức thể loại. phóng sự giai đoạn này đƣợc chia làm nhiều khuynh hƣớng
khác nhau. Theo nhƣ sự tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy phóng sự giai đoạn này
đi theo một số khuynh hƣớng cơ bản dƣới đây:
Khuynh hướng thứ nhất: Ở khuynh hƣớng này, các nhà báo đã dùng
ngòi bút của mình để ca ngợi chế độ thực dân bảo hộ, chính những lời lẽ ca
ngợi đƣợc sử dụng trong lối viết này đã làm tan rã tinh thần chống ngoại xâm
của một bộ phân công chúng. Phóng sự “Tôi buôn lậu” đăng trên báo Dân

9


Nói, Sài Gòn, tháng 2/1938, của Đồng Phƣơng, hoặc những phóng sự mang
tính chất mua vui rẻ tiền, đã đầu độc tâm hồn của thanh niên đến nỗi khiến
Ngô Tất Tố phải thốt lên: “Họ không cần thuốc mê, chỉ dùng những văn thơ
khêu gợi để đầu độc những óc ngây thơ của phụ nữ” [15, 26].
Khuynh hướng thứ hai: Ở khuynh hƣớng này các tác giả lại tập trung đi
vào việc tái hiện lại cuộc sống bần cùng của con ngƣời, đề cập đến những đau
khổ của ngƣời dân, những bất công ngang trái hiện hữu trong xã hội. Các tập
phóng sự ra đời cùng với những tên tuổi tài hoa, chúng ta có thể kể đến tác

giả Trọng Lang với những thiên phóng sự đã góp phần tái hiện lại tình trạng
thanh niên với cuộc sống trụy lạc ở nơi thành thị; Vũ Trọng Phụng với hàng
loạt các thiên phóng sự: Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934); Ngô
Tất Tố với những thiên phóng sự về nạn cƣờng hào, hủ tục hƣơng thôn và chế
độ khoa cử thời phong kiến nhƣ: Lều chõng (1939), Việc làng (1940)...
Những phóng sự này đã phần nào phản ánh đƣợc nỗi thống khổ của một dân
tộc thuộc địa, bên cạnh đó các tác giả cũng đã phần nào thể hiện đƣợc rõ quan
điểm, thái độ và tình cảm của cá nhân mình đối với những ngƣời dân nghèo
khổ lam lũ – những con ngƣời sống ở dƣới đáy xã hội.
Khuynh hướng thứ ba: Là khuynh hƣớng của báo chí cách mạng. Các
nhà phóng sự đi theo khuynh hƣớng này hoạt động bí mật, làm nhiệm vụ
chính là tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin và lí tƣởng cách mạng nhằm
khợi gợi lòng yêu nƣớc và kêu gọi nhân dân tham gia cách mạng. Thể loại
phóng sự trên báo chí cách mạng đã bám sát cuộc chiến đấu chống kẻ thù của
dân tộc ta. Từ mục đích mà lối viết phóng sự này muốn hƣớng tới, chúng ta
có thể nhận định đây là một khuynh hƣớng tiến bộ, và vô cùng cần thiết cho
đất nƣớc ta trong việc kêu gọi toàn bộ quần chúng nhân dân đi theo con
đƣờng chân chính – con đƣờng cách mạng.

10


Giai đoạn 2: Từ sau cách mạng tháng Tám đến trƣớc đại hội Đảng
lần thứ VI (1986)
Phóng sự thời điểm này đƣợc coi là một trong những thể tài đứng hàng
đầu, nó tái hiện một cách chân thực hiện thực đƣơng thời qua các dấu mốc
lịch sử trọng đại của dân tộc. Phóng sự thời kỳ này tuy đƣợc đề cao và là thể
báo chí hàng đầu nhƣng do sự chi phối của hiên thực xã hội đƣơng thời lên
không có sự thăng hoa nở rộ mà đã tạm thời lắng xuống. Nhà nghiên cứu Lã
Nguyên có viết: “Phóng sự - thể loại từng phát triển mạnh mẽ trƣớc cách

mạng, nay bỗng thiếu vắng trên văn đàn” [9, 208].
Giai đoạn 3: Từ đầu những năm 1980 đến nay
Phóng sự giai đoạn này có nhiều khởi sắc. Với chủ chƣơng mở cửa và
chính sách đổi mới, dân chủ hóa đời sống chính trị. Trong điều kiện thuận lợi
nhƣ vậy phóng sự đã thể hiện rõ vai trò xung kích của mình và luôn có vị trí
trang trọng trên trang nhất của nhiều tờ báo. Các thiên phóng sự nổi tiếng
nhƣ: Vua lốp của Trần Huy Quang (1987); Vẫn phải tin vào những giọt nƣớc
măt (1996) của Xuân Ba... Phóng sự giai đoạn này có một bƣớc phát triển
vƣợt bậc vì nó mở rộng cả ở phạm vi đề tài trên cả tầm vĩ mô và vi mô. Từ đề
tài chiến tranh, kinh tế đến vấn đề an ninh chính trị.
Nhƣ vậy, thể loại phóng sự mới xuất hiện ở nƣớc ta khoảng hơn 70
năm, thế nhƣng thể tài này đã nhanh chóng khẳng định đƣợc vị trí của mình,
không ngừng vận động và phát triển trƣớc mọi sự đổi mới của lịch sử.
1.1.3. Một số quan niệm về phóng sự
Nói đến phóng sự, các nhà nghiên cứu đã có rất nhiều sự phân tích và ý
kiến cũng nhƣ quan điểm khác nhau. Có thể kể tới hai quan niệm chính nhƣ sau:
Quan niệm thứ nhất: Họ khẳng định phóng sự là việc tái hiện lại một
vấn đề hoặc một sự việc có thật một cách súc tích, chuẩn xác, các tình tiết bên
trong nhằm cho ngƣời đọc hiểu: vấn đề gì? Diễn ra tại nơi nào? Diễn ra thế

11


nào? Vấn đề có ảnh hƣởng đến ai không? Lý do mà sự việc đó lại diễn ra? Ở
quan điểm này, các nhà nghiên cứu chỉ quan tâm tới thông tin trong ở bài viết.
Một nhà báo Mỹ, Mark Twain khẳng định: “Phóng sự chỉ là một sự ghi chép
máy móc đơn thuần các sự việc chứ không phải là một công việc sáng tạo”. Ở
quan niệm này ta có thể nhận xét đây là một cái nhìn không chuẩn xác về thể
phóng sự. Từ chức năng vốn có của thể loại này ta thấy nó ngoài việc tái hiện
lại một cách chân thực hiện thực cuộc sống, mà còn cho ngƣời đọc thấy đƣợc

nguồn cội của vấn đề, đôi khi nó còn đƣa ra một hƣớng đi mới tiến bộ hơn.
Quan niệm thứ hai: Ở quan niệm này, các nhà nghiên cứu nhận định ở
phóng sự có sự hội tụ của khá nhiều thể loại nhƣ đàm thoại, tƣờng thuật... có
cả văn học ở trong đó. Từ đó mà phóng sự có thể tái hiện lại mọi mặt của
cuộc sống, từ những sự việc nhỏ lẻ nhất đến những vấn đề mang tầm vóc
quốc gia, đại sự. Ở quan niệm này ta thấy ngƣời viết có quyền đƣợc bày tỏ
quan điểm của riêng cá nhân mình vào trong bài viết. Ngƣời đọc có thể cảm
nhận đƣợc những vấn đề mà bài phóng sự đề cập tới một cách chân thực hơn.
Vũ Trọng Phụng, “ông vua phóng sự đất Bắc” đã viết: “Phóng sự là một
thiên truyện kể với cơ sở mà nhà báo đã từng mắt thấy tai nghe, trừ khi là một
thiên “Phóng sự trong buồn” nhà báo nghe ngƣời ta kể lại cái mà mình chƣa
biết bằng tai, bằng mắt. Tôi hết sức trách cái kiểu viết Phóng sự nhƣ vậy” [11,
33]. Có nghĩa là Vũ Trọng Phụng đề cao tính chất hiện thực trong phóng sự.
Cái hiện thực đó là do tự ngƣời viết khám phá hoặc tự mình phải nhập vào
cuộc sống ấy đề mà tái hiện lại những gì chuẩn xác nhất.
Giáo trình nghiệp vụ báo chí của trƣờng tuyên huấn Trung ƣơng – Tập
II, năm 1977, có viết: “Phóng sự là một trong những thể tài thông tin quan
trọng của báo chí có ít nhiều đặc trƣng văn học, phản ánh quá trình xảy ra có
quá trình diễn biến, bằng phƣơng pháp miêu tả tự thuật, lại có thể kết hợp
nghị luận, nhằm nêu lên phẩm chất và tinh thần của ngƣời và bộ mặt xã hội
theo một hệ thống quan điểm và đƣờng lối chính trị nhất định”

12


Tóm lại có thể thấy, tuy góc độ tiếp cận phóng sự không giống nhau, và
các quan niệm về phóng sự có phần khác nhau, nhƣng ta thấy ở hai quan niệm
đều có điểm tƣơng đồng. Đó là phóng sự đều cần có sự chuẩn xác, chân thật
và có liên quan trực tiếp đến cộng đồng ngƣời.
1.1.4. Đặc trưng của phóng sự

Từ việc nghiên cứu thể loại phóng sự, các nhà nghiên cứu đã đƣa ra khá
nhiều đặc trƣng của thể tài này. Dƣới đây là một số đặc trƣng mà chúng tôi
tìm hiểu đƣợc:
1.1.4.1. Phóng sự luôn phản ánh sự thật
Vấn đề mà phóng sự đề cập tới luôn luôn phải là những vấn đề có thực,
đã từng hoặc đang diễn ra trong đời sống xã hội. Phóng sự ngoài việc tái hiện
lại hiện thực đƣơng thời, nó còn đi vào phản ánh chân thực những số phận bất
hạnh, một cá nhân điển hình hoặc cả một lớp ngƣời trong xã hội. Ở Lều chõng
Ngô Tất Tố đã tái hiện một cách thẳng thắn, chân thực việc giáo dục và chế
độ thi cử của xã hội phong kiến vào lúc suy tàn. Và sự ra đời của cuốn tiểu
thuyết đã hoàn thiện cái nhìn đầy đủ, toàn diện của Ngô Tất Tố và xã hội.
Ngoài việc tái hiện lại một cách chân thực, hiện thực cuộc sống ngƣời
viết phóng sự còn phải tự mình khảo sát hiện thực, đôi khi còn phải đƣa ra
những định hƣớng nhất định để giải quyết vấn đề một cách đúng đắn hợp lý.
Phóng sự ngoài việc đƣa ra những thông tin chuẩn xác mà còn đi vào mổ xẻ
từ ngọn ngành đến nguồn gốc của vấn đề. Ngƣời viết lấy “con ngƣời” là đối
tƣợng phản ánh chính thì “việc” chỉ đƣợc coi là tình tiết nhỏ nhặt đƣợc chắp
ghép lại để tái hiện lại những biến cố trong cuộc đời của nhân vật. Nhân vật
nhƣ một hình tƣợng mang tính khái quát và đại diện cho một lớp ngƣời hoặc
cả cộng đồng ngƣời, hay chứng minh cho một phong tục tập quán, hoặc nối
suy nghĩ, hay một truyền thống lịch sử nào đó.

13


Vũ Ngọc Phan cũng từng nhận xét nhƣ sau: “Lều chõng là một tiểu
thuyết miêu tả một bi kịch của những ngƣời trí thức thời phong kiến mà Vân
Hạc, nhân vật chính trong truyện là ngƣời tiêu biểu. Vân Hạc là một anh học
trò thông minh, có lƣơng tri và học giỏi. Về mặt tƣ tƣởng, anh không có cái gì
đặc biệt, anh cũng “đi học đi hiệc, đi thi đi thiếc” nhƣ trăm nghìn ngƣời khác.

Anh hơn các bạn ở chỗ qua sách vở của thánh hiền, qua những lề lối phức tạp
của thi cử và thái độ của quan trƣờng về lựa chọn nhân tài, anh đã có một số
nhận thức về học tập, về thi cử không giống các bạn của anh. Những trƣớc sự
mơ ƣớc “làm bà nghè, bà thám” của vợ anh, anh đã bị cuốn vào thi cử, cho
đến khi bị cầm tù vì “phạm húy” và bị cách tuột thủ khoa, anh mới thật vỡ
mộng” [5, 341 – 342]. Nhƣ vậy, có thể thấy bức chân dung về nhân vật Vân
Hạc và những tình huống xảy ra với Vân Hạc đã nói lên toàn bộ hiện thực của
một chế độ thi cử đầy ngang trái, bất công.
Không những thế khi viết phóng sự ngƣời viết còn phải sắp xếp các sự
kiện, sự việc theo tiến trình lịch sử, quá trình phát sinh phát triển giúp cho ngƣời
đọc dễ dàng theo dõi và nắm bắt đƣợc vấn đề mà phóng sự đang đề cập tới.
1.1.4.2. Phóng sự sử dụng bút pháp miêu tả, tường thuật kết hợp với nghị luận
Việc sử dụng bút pháp miêu tả và tƣờng thuật vẫn luôn đứng vị trí trọng
yếu trong phóng sự. Sự kết hợp này giúp cho ngƣời đọc dễ dàng cảm nhận
cũng nhƣ có thể hình dung đƣợc các sự kiện hay con ngƣời ở trong phóng sự
nhƣ đang diễn ra trƣớc mắt họ.
Miêu tả là dùng lời, hình ảnh để mô tả không gian, thời gian, hình dáng
con ngƣời, diễn biến của câu chuyện, các xung đột trong hành động. Miêu tả
giúp cho các thông tin trong phóng sự đƣợc chuyển tải một cách mềm mại,
uyển chuyển dễ đi vào lòng ngƣời.
Ở chƣơng II, cuốn tiểu thuyết, nhà văn đã miêu tả một cách tỉ mỉ đám
rƣớc cả nhà cậu Khóa Trần Đăng Khoa về làng, có đoạn: “... Dân phu hàng

14


tổng ai nấy sắc mặt đỏ gay, mồ hôi thấm ra ngoài áo. Chừng đã khó chịu với
sự nóng nực, mấy ngƣời đi đầu se sẽ giục nhau bƣớc rảo cho chóng đến nhà.
Nhƣng ông thủ hiệu trống cố muốn kéo cho công việc của mình thêm dài,
chốc chốc lại tiến ngũ bộ, thoái ngũ bộ, giạng tay múa dùi, nháy trống, để

diễn một trận “tùng hứ”, làm cho cả đám đều phải dừng lại.” [7, 37]. Trong
đoạn văn trên, qua phƣơng thƣc miêu tả của Ngô Tất Tố, ngƣời đọc không
thấy sự nghiêm túc hay đúng đắn của việc cả làng, cả tổng phải đi rƣớc ngƣời
đăng khoa thi đỗ về làng. Từng câu từng từ của tác giả nhƣ đang thể hiện sự
châm biếm, mỉa mai hủ tục đƣơng thời.
Tƣờng thuật là việc kể lại câu chuyện có thật, các sự việc ở trong đó
phải chính xác, và có luận điệu riêng của ngƣời viết. Ngƣời viết có thể thuật
lại nhanh gọn sự việc hoặc cũng có thể diễn tả tỉ mỉ từng chi tiết. Để phóng sự
có sức hấp dẫn ngƣời viết thƣờng kết hợp hài hòa giữa việc tả thực với tƣờng
thuật và nghị luận. Ngƣời viết còn tự mình bày tỏ những quan điểm cá nhân
đúng lúc và đúng với từng sự việc xảy ra trong phóng sự.
Nhƣ trong Cỗ oản tuần sóc của Ngô Tất Tố, ta thấy bọn cho vay nặng
lãi, bọn địa chủ, bọn cƣờng hào, cùng nhau xúm vào bóc lột ngƣời nông dân
lao động đến tận sƣơng tủy. Vợ chồng ông Phúc chịu thƣơng chịu khó làm ăn,
nhƣng từ ngày bà Phúc bị bệnh chết, những món tiền tiêu tốn cho ma chay đã
làm ông Phúc lâm nợ. Ông suốt ngày phải đi gánh thuê để nuôi con. Ông
Phúc tâm sự về cái nghề gánh mƣớn: “Hồi tôi còn đi cày ruộng, hai vai cũng
vẫn nhẵn nhụi nhƣ vai các ông. Từ khi bắt đầu xoay sang cái nghề gánh
mƣớn, vì chiếc đòn gánh đè xuống nặng quá, thớ thịt đều phải dập nát và sƣng
u lên, lúc ấy đặt chiếc đòn gánh lên vai, ngƣời tôi thấy buốt từ đầu đến gót,
tƣởng nhƣ chết điếng đi đƣợc...” [1, 352].
Một trong những yếu tố làm nên thành công cho các nhà văn là khả
năng quan sát cuộc sống, nhờ khả năng đó mà nhà văn đi sâu vào từng ngõ

15


ngách của cuộc sống, để tái hiện lại chân thực hiện thực cuộc sống. Trong Lều
chõng, tác giả cũng chú tâm vào miêu tả cảnh trƣờng thi một cách sâu sắc, có
khi đoạn miêu tả kéo dài vài trang sách, việc tác giả thuật lại sự việc nhƣ vậy

đã giúp cho ngƣời đọc hình dung và cảm nhận về những mảng hiện thực cuộc
sống rõ nét hơn.
1.1.4.3. Ngôn ngữ phóng sự chính xác khách quan
Chức năng chính của những thiên phóng sự là tái hiện lại hiện thực một
cách chính xác, khách quan, từ đó mà phƣơng tiện ngôn ngữ trong phóng sự
thƣờng chân thực và khách quan. Ngôn ngữ trong phóng sự đƣợc biểu hiện ở
tính chính xác, tính hàm xúc và biểu cảm cao.
Thứ nhất là tính chính xác: Ngôn ngữ phóng sự phải biểu đạt đúng bản
chất của vấn đề, từng sự việc phải đƣợc tái hiện trong thời gian và không gian cụ
thể chính xác, để ngƣời đọc có thể dễ dàng nắm bắt đƣợc nội dung của bài viết.
Thứ hai tính hàm xúc: Đó là sự nảy sinh từ mục đích của phóng sự là
phải đƣa ra một lƣợng thông tin nhất định về ngƣời và sự việc ở bài viết, từ đó
yêu cầu ngƣời viết phải sử dụng từ ngữ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu đạt
cao, thực hiện đƣợc chức năng giao tiếp lí trí có hiệu quả cao nhất.
“Cái mạnh, cái sắc của Ngô Tất Tố ở chỗ dám nhìn thẳng vào sự thật,
căm giận, chửi rủa và phá bỏ. Trong Lều chõng, cuốn tiểu thuyết dày đặc của
Ngô Tất Tố, sự ngay thẳng của một ngòi bút đã dõng dạc cất tiếng chửi vào
những cái “hay”, cái “đẹp” mà bọn thống trị đƣa ra và cổ vũ” [3, Nguyên
Hồng, Tạp chí Văn nghệ. Số 54, 8 – 1954]. GS, Nguyễn Đăng Mạnh viết:
“Giá trị căn bản của Lều chõng là chỗ tác giả dùng ngòi bút châm biếm sắc
sảo, bóc trần thực chất thối nát của chế độ giáo dục và tổ chức khoa cử thời
phong kiến. Thành công của Lều chõng dĩ nhiên phụ thuộc vào kinh nghiệm
sống của tác giả, nhƣng đó còn là sản phẩm của một ngòi bút tài hoa, một tâm
hồn nghệ sĩ” [7, Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục 1973].

16


Ngay ở đầu cuốn tiểu thuyết, có đoạn: “Gần nửa tháng rồi, trong làng
Văn Khoa, lúc nào cũng náo nức, rộn rịp nhƣ sắp kéo hội. Đình Trung, điếm

sở cũng nhƣ quán nƣớc hàng quà, chỉ làm chỗ hội họp của các ông già, bà già
và những cây gậy trúc mũi sắt, những gói trầu cau lớn bằng cái đầu. Chuyện
lớn, chuyện cũ, luôn luôn theo những bãi cốt trầu, những làn khói thuốc đồng
thời tuân ra và nổ nhƣ bỏng rang” [1, 15]. Chỉ cần một đoạn văn ngắn tác giả đã
vẽ ra một khung cảnh hết sức bình dị quen thuộc của làng quê Việt Nam xƣa.
Tóm lại, có thể nói để cho ra đời một thiên phóng sự đắt giá thì tác giả
phải kết hợp rất nhiều yếu tố khác nhau nhƣ: Phóng sự phải phản ánh đúng sự
thật; thƣờng sử dụng bút pháp miêu tả và tƣờng thuật kết hợp với nghị luận;
ngôn ngữ phải luôn chính xác và thể hiện tính khách quan từ ngƣời viết.
1.2. Vị trí của phóng sự Lều Chõng trong sự nghiệp của Ngô Tất Tố
1.2.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Tất Tố
Ngô Tất Tố đƣợc đánh giá là cây bút ƣu việt tính từ năm 1945 đổ về
trƣớc. Hai ông Nguyễn Đức Đàn và Phan Cự Đệ đã viết: “... Ở Ngô Tất Tố,
chúng ta thấy trong việc phản ánh trung thành hiện thực xã hội, nhà văn đã
biểu thị một thái độ rõ rệt, thái độ căm ghét những cái bất công, căm ghét bọn
chuyên sống bằng áp bức bóc lột” [19, 181]. Ngô Tất Tố là một cây bút giàu
tâm huyết, đầy bản lĩnh và nổi tiếng ở nhiều lĩnh vực; ông vừa là làm văn, làm
báo, cả khảo cứu và triết hoc... Ông đƣợc coi là một cây bút có bản lĩnh trong
trào lƣu văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945.
Ngô Tất Tố, quê ở làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là
xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông sinh năm 1894, thuộc một gia
đình nhà nho nghèo. Đây là vùng đất của những làn điệu dân ca quan họ, của
những câu chuyện từ thời khai thiên lập địa nổi tiếng, chính điều này đã nuôi
dƣỡng tâm hồn văn chƣơng của Ngô Tất Tố từ nhỏ. Gia đình mấy đời long
đong về nghề cử nghiệp, đến đời Ngô Tất Tố cũng vậy. Nhƣ vậy gia đình Ngô

17


Tất Tố có truyền thống Nho học, đó cũng là điều kiện để Ngô Tất Tố có một

vốn Hán học sâu rộng nó đã giúp ích rất nhiều cho sự nghiệp sáng tác của ông
sau này.
Nhà Ngô Tất Tố thuộc loại nghèo phải lĩnh thêm ruộng làng để làm.
Chính cuộc sống ấy, ông đã có cơ hội tiếp cận với nông thôn đã tạo cho ông
vốn sống vốn hiểu biết sâu săc về ngƣời dân quê, từ đó hiểu đƣợc bản chất tốt
đẹp của họ và ông luôn tỏ thái độ đồng cảm với họ ở từng trang văn ông viết
về họ. Tác giả thuộc thế hệ những nhà nho cuối cùng nhƣ Nguyễn Trọng
Thuật, Phạm Quế Lâm, Nguyễn Khác Hiếu... những ngƣời đã chứng kiến
cảnh chợ chiều của các nhà nho cũng nhƣ cảnh tƣợng tiều tụy, sa sút của một
nền Hán học đã hơn nghìn năm rực rỡ. Thật kỳ lạ khi ta thấy từ điểm xuất
phát đó, ông đã phấn đấu và vƣợt xa các nhà văn cùng thời với mình. Nhà
văn, nhà báo Ngô Tất Tố đã thâm nhập vào từng ngõ ngách của cuộc đời và
thực sự trở thành người bạn đường tin cậy của nông dân. Điểm xuất phát của
tác giả khác biệt với các nhà văn cùng thời, Ngô Tất Tố không phải là nhà văn
Tây học và không phải cây bút trẻ so với phong trào nhƣng Ngô Tất Tố đã đi
tiên phong trên nhiều hoạt động tƣ tƣởng nhƣ báo chí, văn học, triết học...
Ông luôn giữ cho mình cốt cách của một nhà Nho, không lung lay trƣớc uy
lực của quyền thế, không bán rẻ văn chƣơng trƣớc vòng danh lợi.
Năm 1912 ông thi hỏng ở kỳ thi đệ nhất, năm 1915 ông đỗ đầu trong
kỳ thi khảo hạch ở Bắc Ninh. Tuy là một nhà nho thật sự có tài và thông
minh nhƣng ông vẫn không qua kì thi đệ nhị, nghĩa là vẫn không vào đƣợc
tam trƣờng.
Vào thời gian đó, thực dân Pháp ra lệnh bãi bỏ chế độ thi cử bằng chữ
Hán, nhƣờng chỗ cho nền giáo dục thi bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Từ
đây vận mệnh một nền Hán học đã tồn tại hơn 1.000 năm, nay đã đến hồi kết

18


thúc. Ngô Tất Tố lao vào làm nghề báo, viết sách nhƣ một số nhà nho đƣơng

thời đã làm nhƣ: Nguyễn Bá Học, Mai Đăng Đệ...
Năm 1923 tác phẩm đầu tay của Ngô Tất Tố đƣợc nhà xuất bản Tản Đà
thư cục in, đó là một bản dịch từ sách Trung Quốc có tên Cẩm Hương Đình.
Tiếp theo là các bản dịch Hoàng Lê nhất thống chí, Đường thi đƣợc đánh giá
đạt đến trình độ “tin, đạt, nhã”. Năm 1926, Tản Đà mời Ngô Tất Tố tham gia
cộng tác. Từ đây, Ngô Tất Tố rời quê nhà lên Hà Nội làm báo với Tản Đà. Một
thời gian sau Ngô Tất Tố vào Sài Gòn viết bài cho báo Đông pháp thời báo
Năm 1030, Tác giả về Hà Nội và viết bài cho tờ: Phổ thông (1930 –
1931), Đông phƣơng (1931), Công dân (1935)... ông kí nhiều bút danh khác
nhau nhƣ: Thiêt Khẩu Nhi, Phó Chi, Tuệ Nhỡn...
Sự nghiệp trƣớc tác của ông khá phong phú, Ông thành công trên nhiều
lĩnh vực nhƣ: khảo cứu, dịch thuật, viết báo, viết văn...
Xuất thân là một nhà nho nhƣng ông không phải là ngƣời bảo thủ, ông
luôn cố gắng vƣơn tới những ánh sáng của thời đại. Nhƣ trong cuốn Mặc Tử
(1942), Ngô Tất Tố đề cao những yếu tố duy vật, tiến bộ trong học thuyết của
Mặc Định.
Ở giai đoạn trƣớc năm 1945 ông có khá nhiều tác phẩm để đời đã làm
nên tên tuổi của nhà văn: Tắt đèn (1939), Lều chõng (đăng lần đầu trên báo
Thời vụ, 1939), Việc làng (đăng trên báo Hà Nội tân văn 1940)...
Vì Ngô Tất Tố luôn nhìn thẳng vào sự thật để viết mà ông đã trở thành
“cái gai trƣớc mắt” bọn thực dân phong kiến. Năm 1935, ông bị thực dân
Pháp cấm không cho viết bài trên một số tờ báo và bị trục xuất khỏi các thành
phố lớn. Nhƣng tất cả việc làm của chúng không làm ông chùn bƣớc, không
những thế ngòi bút của ông ngày càng tỏ ra sắc sảo và đả kích tấn công chúng
mãnh liệt hơn.

19



×