Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Phân tích và chứng minh luận điểm : “Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc” là một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.61 KB, 27 trang )

Bằng lý luận và thực tiễn, phân tích và chứng minh luận điểm :
“Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động
sáng tạo và có khả năng giàng thắng lợi trước cách mạng vơ
sản ở chính quốc” là một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh.
A. Lý luận
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, dân tộc là sản phẩm lâu dài
của lịch sử. Trước dân tộc là các hình thức cộng đồng như: thị
tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã dẫn
tới sự ra đời và phát triển của các dân tộc bản chủ nghĩa. Khi
CNTB chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các đế quốc
thực hiện chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nơ dịch. Vấn
đề dân tộc trở nên gay gắt và từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc
thuộc địa.
1.Vấn đề dân tộc thuộc địa
Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng đề cập đến các vấn đề dân tộc nói
chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa. Thực chất của vấn đề
dân tộc thuộc địa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là:
-Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh sớm nhận thấy, yêu cầu của xã hội thuộc địa là
phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chứ không
phải là đấu tranh giai cấp như trong các xã hội tư bản chủ nghĩa
phương Tây. Đối tượng của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa
thực dân, chứ không phải là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế
quốc nói chung. Người giành sự quan tâm đến đấu tranh chống
chủ nghĩa thực dân, xoá bỏ ách thống trị, áp bức, bóc lột của
nước ngồi; giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, thực
hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc
lập.
Hồ Chí Minh viết nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình
đẳng, Vực thẳm thuộc địa, Cơng cuộc khai hóa giết người... tố


cáo chủ nghĩa thực dân, vạch trần cái gọi là “khai hóa văn
minh” của chúng.Trong những bài có tiêu đề Đơng Dương và
nhiều bài khác, Người lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc,
sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Người chỉ rõ sự đối


kháng giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực
dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn khơng
thể điều hịa được. Sự áp bức, thống trị dân tộc càng nặng nề,
thì phản ứng dân tộc sẽ càng quyết liệt về tính chất, đa dạng về
nội dung và phong phú về hình thức. Trong tác phẩm Bản án
chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc lên án mạnh mẽ tội ác
của chủ nghĩa thực dân đã tước bỏ tất cả quyền con người và
quyền dân tộc ở các thuộc địa.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản, V. I. Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh tập trung bàn về cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân. C. Mác và V. I. Lênin bàn nhiều về
đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh
bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Trong
nhiều tác phẩm, nhất là tác phẩm Đường cách mệnh, Người
phân biệt ba loại cách mạng: cách mạng vơ sản, cách mạng tư
sản và cách mạng giải phóng dân tộc, xác định tính chất và
nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa là giải phóng dân tộc.
-Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc
Để giải phóng dân tộc, cần xác định phương hướng phát
triển của dân tộc, đề ra quy định những yêu cầu và nội dung
trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi phương hướng
phát triển gắn liền với một hệ tư tưởng và một giai cấp nhất

định.
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử
nhân loại. Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của
dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là chủ nghĩa xã hội.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là
một vấn đề hết sức mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ
nghĩa xã hội phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau.
Trong Cương lĩnh chinh trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Hồ Chí Minh viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.“Đi tới xã hội cộng
sản” là hướng phát triển lâu dài. “Tư sản dân quyền cách
mạng” là giai đoạn chiến lược giải phóng dân tộc, hoàn thành
nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc (chưa tiến hành


triệt để cuộc cách mạng ruộng đất). “Thổ địa cách mạng”
không nằm trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, mà là một
giai đoạn chiến lược với nhiệm vụ chủ yếu là cách mạng ruộng
đất. “Đi tới xã hội cộng sản” lại là giai đoạn phát triển kế tiếp
để từng bước đạt mục tiêu cuối cùng.
Sự hoạch định con đường phát triển dân tộc của Hồ Chí
Minh là biện chứng và khách quan, không nhập hai nhiệm vụ
chống đê quốc và chống phong kiến vào một cuộc cách mạng
tư sản dân quyền. Nó phù hợp với hồn cảnh lịch sử cụ thể ở
thuộc địa. Đó cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát
triển của các dân tộc đã phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở
phương Tây.
2.Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của
các dân tộc
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc

địa. Hồ Chí Minh nói: "Tự do cho đồng bào tơi, độc lập cho Tổ
quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những
điều tôi hiểu"
Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn
và thật sự. Độc lập trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, qn
sự, ngoại giao, tồn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề của chủ quyền
quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Theo Hồ Chí Minh độc lập
tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo
nguyên tắc: Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc
Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất
cứ sự can thiệp nào từ bên ngồi. Trong nền độc lập đó mọi
người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc lập
chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “chúng ta đã hy sinh, đã
giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ
no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và
triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập tự do là quyền tự
nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vơ cùng q giá.
Trong q trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu
và tiếp nhận những nhân tố về quyền con người trong Tuyên
ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền năm 1791 của cách mạng Pháp. Từ đó, Người đã khái
quát và nâng lên thành quyền của các dân tộc: "Tất cả các dân


tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do" .
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng
liêng đã được các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh
thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt những người Việt Nam
yêu nước, Người gửi tới Hội nghị Vécxây (Pháp) bản Yêu sách

gồm tám điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt
Nam. Bản Yêu sách chưa đề cập vấn đề độc lập hay tự trị, mà
tập trung vào hai nội dung cơ bản:
+Một là, địi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người
bản xứ Đông Dương như đối với người châu Âu. Cụ thể là, phải
xóa bỏ các tịa án đặc biệt dùng làm công cụ khủng bố, đàn áp
bộ phận trung thực nhất trong nhân dân (tức những người yêu
nước); phải xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế
bằng chế độ ra các đạo luật.
+Hai là, đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân,
đó là các quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự
do hội họp, tự do cư trú...
Bản u sách đó khơng được bọn đế quốc chấp nhận. Nguyễn Ái
Quốc kết luận: Muốn giải phóng dân tộc, khơng thể bị động
trơng chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài, mà trước hết phải dựa vào
sức mạnh của chính dân tộc mình. Điều này thể hiện ở mục tiêu
của cách mạng Việt Nam là: Đánh đổ Đế quốc Pháp và phong
kiến, làm cho nước Nam hoàn tồn độc lập. Sau Cách mạng
Tháng 8 thành cơng, Hồ Chí Minh đã đọc bản tun ngơn độc
lập và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”.
Hồ bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân
xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản
của dân tộc. Hồ bình khơng thể tách rời độc lập dân tộc, và
muốn có hồ bình thật sự thì phải có độc lập thật sự. Hồ Chí
Minh đã nêu: “Nhân dân chúng tơi thành thật mong muốn hồ
bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến
cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn

vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Chân lý có


giá trị cho mọi thời đại: “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia.
3. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Mối liên hệ giữa các dân tộc và giai cấp:
Ðối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong điều kiện một nước thuộc
địa nửa phong kiến, lực lượng giải phóng dân tộc là lực lượng
tồn dân, trong đó liên minh cơng nơng làm nịng cốt. Do đó,
Ðảng phải giáo dục và tổ chức tồn dân đứng lên làm cách
mạng. Bác Hồ đề ra chiến lược đại đồn kết tồn dân dưới ngọn
cờ cứu nước, giải phóng dân tộc để tập hợp tất cả mọi người
dân Việt Nam yêu nước, "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đồn kết tồn dân tộc là sức
mạnh vơ địch. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, Ðảng phải tập
trung lãnh đạo toàn dân làm cách mạng giành độc lập dân tộc.
Ðầu năm 1941, sau 30 năm bơn ba ở nước ngồi, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc về nước chủ trì Hội nghị T.Ư 8, đặt vấn đề giải
phóng dân tộc lên hàng đầu và thành lập Mặt trận Việt Minh để
tập hợp lực lượng, đoàn kết toàn dân, phát động nhân dân vùng
dậy đấu tranh giành chính quyền. Người chỉ rõ: Giải phóng dân
tộc là nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu của cách mạng. Bởi vì, "nếu
khơng giải quyết được vấn đề dân tộc, khơng địi được độc lập
tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể dân tộc
cịn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi giai cấp đến vạn năm
sau cũng khơng địi lại được (Văn kiện Ðảng, Tồn tập, t3,
tr.48). Bác Hồ nói, dù có phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng

phải giành cho được độc lập. Mác-Lê nin ln đề cao, khẳng
định vai trị đề dân tộc. Giai quyết vấn đề giai cấp là cơ sở giải
quyết vấn đề dân tộc. Giai phóng dân tộc. Trong mỗi giai đoạn
lịch sử nhất định việc thực hiện nhiệm vụ dân tộc bao giờ cũng
thuộc giai cấp tiêu biểu đại diện cho phương thức sản xuất tiến
bộ. Trong thời đại chủ nghĩa tư bản giai cấp đại diên là giai cấp
công nhân. Ngay từ khi lựa chọn con đường cách mạng vơ sản,
ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai
cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người
xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là:
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi


tới xã hội cơng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy
luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại
cách mạng vơ sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa
mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Xóa bỏ
ách áp bức dân tộc mà khơng xóa bỏ tình trạng bóc lột và áp
bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng.
Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột, chỉ có thiết lập
một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân mới bảo đảm cho
người lao đơng có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát
triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự
do và hạnh phúc của con người. Do đó, sau khi giành độc lập,
phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu nước
mạnh, mọi người đều được sung sướng, tự do. Sự phát triển đất
nước theo con đường chủ nghĩa xã hội là một bảo đảm vững
chắc cho nền độc lập của dân tộc. Hồ Chí Minh nói: “u Tỏ
quốc, u nhân dân phải gắn liền với u chủ nghĩa xã hội, vì

có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no
ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”
II. Tư tưởng HồChí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
1. Mục tiêu cấp thiết hàng đầu của cách mạng giải phóng dân
tộc:
Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc
vs chủ nghĩa phong kiến hoặc chủ nghĩa tư bản, con đường cứu
nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Năm 1920, sau khi quyết định phương hướng giải phóng
và phát triển dân tộc theo con đường vơ sản, ở Hồ Chí Minh đã
có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và
quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng HCM vừa
phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân
tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan
hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc vs mục tiêu giải
phóng giai cấp và giải phóng con người.chỉ có xóa bỏ tận gốc
tính trạng áp bức bóc lột, thiết lập nhà nước của dân mới đảm
bảo cho người lao đng có quyền làm chủ. người khẳng định: “
yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã
hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày
một no ấm them, tổ quốc mỗi ngày một giàu them”
Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa


Nếu như mâu thuẫn chủ yếu ở các nước tư bản chủ nghĩa
phương Tây là mâu thuẫn giữa giai cấp vơ sản và giai cấp tư
sản, thì mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa phương Đông
là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân. Nó
quy định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở các
nước thuộc địa.Nếu ở các nước TBCN phải tiến hành đấu tranh

giai cấp , thì các nước thuộc địa phải tiến hành cuộc đấub tranh
giải phóng dân tộc. Đối tượng của cách mạng thuộc địa không
phải là giai cấp tư sản bản xứ, càng không phải là giai cấp địa
chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động.
Cách mạng thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của
chủ nghĩa đế quốc”, chứ chưa phải là cuộc cách mạng xoá bỏ
sự tư hữu, sự bóc lột nói chung. Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa
là mâu thuẫn dân tộc, quy định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu
của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
Trong “Đường cách mệnh”, Người phân loại thành 3 cuộc cách
mạng: CMTS, CMVS và CMGPDT. Ở đó Người nhấn mạnh tính
chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải
phóng dân tộc. Trong “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” của Đảng
do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo xác định những nhiệm vụ chính
trị, kinh tế, văn hố - xã hội, nhưng nổi lên hàng đầu là nhiệm
vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc, nó đã bao hàm một
phần cơng cuộc giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Hội nghị TW8 (5/1941) do Hồ Chí Minh chủ trì kiên quyết
giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh đó là
“nhiệm vụ bức thiết nhất”, chủ trương tạm gác khẩu hiệu “cách
mạng ruộng đất” và chỉ tiến hành nhiệm vụ đó ở một mức độ
thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Trong nhiều bài viết, bài nói thời kỳ kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ, Người tiếp tục khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân
tộc. “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất độc
lập nhất định thành cơng”.
Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính
quyền của nhân dân



Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là
giành quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp, mà là quyền lợi
chung của tồn dân tộc. đó là những mục tiêu của chiến lược
đấu tranh dân tộc phù hợp với xu thế của thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện
vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo
con đường cách mạng vô sản và phải do Đảng cộng sản lãnh
đạo Con đường giải phóng dân tộc duy nhất là con đường cách
mạng vô sản
Sở dĩ các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX đều thất bại là do chưa có đường lối và phương pháp đấu
tranh đúng đắn. Khi chủ nghĩa đế quốc đã thành một hệ thống
thế giới, một mặt chúng tranh giành ảnh hưởng thuộc địa lẫn
nhau, mặt khác chúng lại thống nhất với nhau để đàn áp thuộc
địa. Vì vậy trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giai
cấp vơ sản ở chính quốc và nhân dân thuộc địa có chung một
kẻ thù. Chủ nghĩa tư bản như con đỉa hai vịi, một vịi bám vào
chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh thắng chủ
nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó đi. Vì vậy,
cách mạng vơ sản ở chính quốc phải kết hợp với cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta phải đối đầu với một
kẻ thù khác hẳn với chúng ta về nên văn minh và văn hóa. Kẻ
thù là chủ nghĩa tư bản mạnh hơn ta nhiều lần với các phương
tiện chiến tranh hiện đại hơn ta rất nhiều. Vì vậy các đường lối
cách mạng cũ đều không thể giành thắng lợi. Chủ nghĩa tư bản
không những có nền văn minh hơn hẳn chúng ta mà cịn trở

thành một hệ thống thế giới. Tuy chúng tranh giành ảnh hưởng
thuộc địa lẫn nhau nhưng chúng luôn luôn thống nhất với nhau
để đàn áp lại các cuộc cách mạng của nhân dân lao động ở
chính quốc cũng như thuộc địa. Ví dụ như việc Nguyễn Ái Quốc
đã bị thực dân Anh bắt sau đó giao lại cho Pháp, cịn phong trào
Đông du của Phan Bội Châu bị Nhật tiêu diệt.
Tất cả các phong trào yêu nước theo nhiều khuynh hướng khác
nhau đều thất bại do khơng có đường lối đấu tranh đúng đắn.
Các cuộc nổi dậy do các sỹ phu yêu nước lãnh đạo nổ ra rầm rộ
và lan rộng khắp cả nước như khởi nghĩa Trương Đinh (1859-


1864), Nguyễn Trung Trực ( 1861-1868) ở miền Nam, khởi nghĩa
Trần Tuấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xn Ơn, Phan Đình Phùng
( 1886- 1887) ở miền Trung, khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887),
Bãi Sậy ( 1885-1889) ở miền Bắc. Các cuộc nổi dậy này đều
mạng nặng ý thức hệ phong kiến, phụng chiếu Cần Vương,
đường lối kháng chiến không rõ ràng, chủ yếu là muốn khôi
phục độc lập dưới chế độ phong kiến, tất cả đều có chung một
kết cục là bị thực dân Pháp đàn áp hết sức dã man và thất bại.
Các phong trào theo hệ tư tưởng tư sản như Đông du, Đông
kinh nghĩa thục, Duy tân ở thập niên đầu của thế kỷ XX cũng
đều thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến trở nên lỗi thời do sự xuất
hiện hệ tư tưởng của giai cấp vô sản tiên tiến hơn.
Cần phải đồn kết với giai cấp vơ sản ở chính quốc để chống lại
chủ nghĩa tư bản. Vì họ cũng là những nạn nhân bị giai cấp tư
bản bóc lột. Giai cấp vơ sản ở chính quốc có cùng chung một kẻ
thù với nhân dân thuộc địa, đó chính là chủ nghĩa tư bản. Sự
đồn kết này là hết sức quan trọng để tạo nên sức mạnh tổng
hợp nhằm cắt đứt cả hai vòi của con đỉa là chủ nghĩa tư bản.

Chỉ có đi theo con đường cách mạng vơ sản mới có thể vừa giải
phóng dân tộc vừa giải phóng con người và giải phóng giai cấp.
Các con đường khác có thể đem đến độc lập cho đất nước
nhưng khơng thể đạt được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Sau một quả trình nghiên cứu lý luận và khảo
sát thực tế trên bình diện rộng lớn trong cũng như ngồi nước
Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận “ Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”. Thực chất của con đường cách mạng vô sản là gắn liền
độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội.Cho đến nay hệ tư tưởng
của cách mang vô sản vẫn là hệ tư tưởng tiên tiến nhất của
nhân loại.
Qua những phân tích trên ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc nói chung và luận điểm “ Cách mạng giải phóng dân
tộc muốn thắng lợi phỉ đi theo con đường của cách mạng vô
sản” đóng một vai trị hết sức quan trọng. Nó đã chỉ ra cho dân
tộc Việt Nam con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, đưa dân tộc
thoát khỏi đêm đen khủng hoảng con đường cứu nước giải
phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã dân đường cho cả dân tộc đi
theo, con đường đi đúng đắn để giải phóng đất nước, giải phóng


giai cấp và giải phóng con người. Cho đến nay tư tưởng này vẫn
cịn ngun giá trị. Nó là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng
Cộng sản lãnh đạo Nguyễn Ái Quốc phân tích: "Phàm làm việc
gì cũng vậy, bất kỳ lớn bé, bất kỳ khó dễ, nếu khơng ra sức thì
chắc khơng thành cơng... việc giải phóng gơng cùm nô lệ cho
đồng bào, cho nhân loại" là "việc to tát" nên phải gắng sức.

"Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người
làm khơng nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải
nổi. Đời này làm chưa xong thì đời sau nối theo làm thì phải
xong”. Muốn làm cách mạng thì phải bền gan, đồng chí, đồng
lịng và quyết tâm, "lại phải biết cách làm thì làm mới chóng'.
"Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội mới, ấy là rất
khó. Nhưng biết cách làm biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì
chắc làm được, thế thì khơng khó. Khó dễ cũng tại mình, mình
quyết chí làm thì làm được"
Nhưng muốn làm cách mệnh, "trước phải làm cho dân giác
ngộ... phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu". "Cách
mệnh phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho
dân... Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung
phải có đảng cách mệnh"'.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh. Người khẳng định: "Trước
hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản
giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy"[1].
Đầu năm 1930. Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một
chính đảng của giai cấp cơng nhân và dân tộc Việt Nam, lấy
chủ nghĩa Mác Lênin "làm cốt", có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật
nghiêm minh và mật thiết liên lạc với quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam
Kết hợp lý luận Mác Lênin về Đảng Cộng sản với thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác Lênin trên một loạt vấn đề về cách mạng



giải phóng dân tộc, xây dựng nên một lý luận cách mạng giải
phóng dân tộc. Lý luận đó khơng chỉ được truyền bá trong
phong trào công nhân, mà cả trong phong trào yêu nước, giải
quyết vấn đề đường lối cứu nước gắn liền với sự chuẩn bị những
điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời một
chính đảng cách mạng ở Việt Nam, sáng lập và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản,
Người cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là "Đảng của giai cấp
vô sản"[2], đồng thời là "Đảng của dân tộc Việt Nam"[3]. "Đảng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những
người thợ thuyền, dân cày và lao dộng trí óc kiên quyết nhất,
hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ
quốc và nhân dân".
Khi khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp
công nhân và dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu một luận
điểm quan trọng, bổ sung thêm cho lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về đảng cộng sản định hướng cho việc xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam thành một Đảng có sự gắn kết chặt chẽ với
giai cấp công nhân, với nhân dân lao động và cả dân tộc trong
mọi thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Mọi người Việt Nam yêu
nước, dù là đảng viên hay không, đều thật sự cảm nhận Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng của Bác Hồ là Đảng của mình và
đều gọi Đảng là "Đảng ta".
Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách mạng tiên phong
phù hợp với thực tiễn Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân
tộc, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân,
được dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ
được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp cơng nhân và
cả dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm, đồng thời là một ưu

điểm của Đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời. Đảng đã nắm
ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở
thành nhân tố hàng đầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách
mạng.


3. Sức mạnh của dân tộc là lực lượng cho Cách mạng giải
phóng dân tộc Sức mạnh của dân tộc là lực lượng cho Cách
mạng giải phóng dân tộc
Yêu nước đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ
tinh thần u nước đó mà tồn thể nhân dân ta đều đoàn kết
một long chống giặc ngoại xâm.Một số tư tưởng của Hồ Chí
Minh về lực lượng cho Cách mạng giải phóng dân tộc:
Về mặt lí luận, Hồ Chí Minh đã dựa trên quan điểm của
Chủ nghĩ Mác-Lênin cho rằng: “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, dựa vào nhiệm vụ cốt yếu của Cách Mạng Giải
Phóng Dân Tộc nên Hồ Chí Minh đã xác định lực lượng tiến hành
cách mạng là toàn dân Việt Nam trên cơ sở liên minh công
nông”. Ở các nước thuộc địa, mẫu thuẫn chủ yếu là giữa toàn
dân với chủ nghĩa đế quốc do đó tồn thể người dân Việt Nam
dù thuộc giai cấp tầng lớp nào thì cũng có một mục tiêu chung
là chống đế quốc. Để đạt được mục tiêu ấy, phải doàn kết toàn
dân” dân tộc cách mệnh chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ , nông,
công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong đó lực
lượng “cơng- nông là chủ cách mạng” …” công- nông là gốc của
cách mạng” “ cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị
tư sản áp bức song không cực khổ bằng công nông; a hạng ấy
chỉ là là bầu bạn cách mệnh của côn nông”. Nắm rõ được thực
tiễn Việt Nam, Hồ chí minh ln lấy quan điểm “ lấy dân làm
gốc” trong quá trình chỉ đạo chiến tranh. “Có dân là có tất cả”,

“ dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũn
xong “ Từ đó để thấy được vai trị chủ yếu của quần chúng
nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang:
Quần chúng lao động là người bị áp bức nên có khả năng tham
gia cách mạng. người coi sức mạng vĩ đại và năng lực sáng tạo
vô tận của quần chúng là nhân tố then chốt đảm bảo thắng lợi.
Người khẳng định” Dân khí mạnh thì qn lính nào, sung ống
nào cũng khơng chống lại nổi” . “ phải dựa vào dân, dựa chắc
vào dân thì kẻ địch khơng thể nào tiêu diệt được”. ” chúng ta
chắc chắn vào tinh thần và lực lượng của quần chúng dân tộc”.
Bên cạnh đó Hồ Chí Minh luôn nghiêm khắc phê phán việc lấy
ám sát cá nhân và bạo động non làm phương thức hành động ,
“hoặc xúi dân bạo động mà khôn bày cách tổ chức, hoặc làm
cho dân quen ỷ lại, mà quên tính tự cường”. Người tiếp tục


khẳng định “cách mệnh là việc của chung của cả dân chúng
chứ không phải việc của một hay người”. Hiểu được điều này,
Người ln muốn thức tỉnh đồn kết tồn dân, khi cịn hoạt
động ở nước ngồi HCM nói “ Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng:
trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn
luyện họ , đưa họ ra đấu tranh giành tự do”
Chủ trương tập hợp lực lượng của HCM phản ánh đại
đoàn kết dân tộc của Người. Năm 1942, người chủ trương: già,
trẻ, gái, trai, dân, lính đều tham gia đánh giặc. Năm 1944 Người
viết: cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân , vũ
trang toàn dân…”. Kháng chiến chông Mỹ:” cứu nước là nhiệm
vụ thiêng liêng của mọi người Việt Nam yêu nước”.” 31 triệu
đồng bào ta… là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước,
quyết dành thắng lợi cuối cùng”. Đây là tư tưởng có ý nghĩa

chiến lược về tập hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
của HCM : “ Bất kỳ đàn ông, đàn bà,bất kỳ người già, người trẻ
không chia tôn giáo đảng phái dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có sung
dung súng. Ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì dung
cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân
Pháp
Mục tiêu của cách mạng gải phóng dân tộc là đánh đổ
đế quốc Pháp và địa chủ phong kiến giành độc lập dân tộc.
HCM cho rằng cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân
dân VN đang bị mất nước. Thành lập mặt trận dâ n tộc thống
nhất, để huy động sức mạnh của đại đồn kết tồn dân. Cơng
nơng là gốc, liên minh với các giai cấp khác pahir chú ý đến lợi
ích của giai cấp cơng nơng và của dân tộc. Trong Sách lược vắn
tắt HCM viết:” Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công
nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân
cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi
kéo tiểu tư sản, tri thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai
cấp: đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà
chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm
cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phân cách mạng
(như Đảng Lập hiện) thì phải đánh đổ.”
Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn , lấy
ít địch nhiều , HCM phát động chiến tranh nhân dân: “ không


dùng toàn lực của nhân dân về mọi mặt để ứng phó, khơng thể
nào thắng được”. Qn sự là chính, kết hợp đấu tranh ngoại
giao , thêm bạn bớt thù, phân hóa, cơ lập kẻ thù. Đấu tranh
kinh tế chống lại sự phá hoại của địch. Đấu tranh văn hóa, tư

tưởng cũng quan trọng. Song HCM vẫn nhấn mạnh:” Trong khi
liên lạc giai cấp, phải thận trọng, không khi nào nhượng một
chút lợi ích gì của cơng- nơng mà đi vào thỏa hiệp”
Trong tư tưởng của HCM, người luôn lấy dân làm gốc của
mọi việc đó chính là sức mạnh, sức mạnh của đại đồn kết đó
cũng chính là một phần nguyên nhân thắng lợi trong cách
mạng Việt Nam
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động
sáng tạo và phải tiến hành cách mạng bằng con đường bạo lực
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động
sáng tạo và phải tiến hành cách mạng bằng con đường bạo lực
Đến với chủ nghĩa Mác- Lênin xác định con nước theo khuynh
hướng chính trị vơ sản, nhưng con đường CM giải phóng dân tộc
do HCM hoạch định khơng tự khn mình trong những ngun
lý có sẵn mà kết hợp hào hào giữa vấn đề dân tộc và giai cấp,
gắn độc lập dân tộc với phương hướng XHCN. Phương pháp tiến
hành Cách mạng giải phóng dân tộc của HCM hết sức độc đáo
và sáng tạo, thấm nhuần tính nhân văn. Xuất phát từ điều kiện
lịch sử cụ thể ở thuộc địa nhất là so sánh lực lượng quá chên
lệch về kinh tế và quân sự giữa các quốc gia bị áp bức và
CNĐQ, HCM đã xây dựng nền lý luận về phương pháp khởi
nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân. Phát huy và sử dụng
sức mạnh toàn dân tộc để tiến hành khởi nghĩa vũ trang và
chiến tranh cách mạng là điểm sáng tạo độc đáo trong phương
pháp cách mạng giải phóng dân tộc của HCM.
Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con
đường cách mạng bạo lực:
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC= BẠO LỰC CÁCH MẠNG vì
Tính tất yếu của bạo lực cách mạng: Theo Mác: bạo lực là bà
đỡ của mọi chính quyền cách mạng, vì giai cấp thống trị bóc lột

khơng bao giờ tự giao chính quyền cho lực lượng cách
mạng.Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc phải
được thực hiện bằng con đường cách mạng bạo lực được quy


định bởi các yếu tố:thứ nhất sự thống trị của thực dân đế quốc
ở thuộc địa vô cùng hà khắc, khơng hề có một chút quyền tự do
dân chủ nào, khơng có cơ sở nào cho thực hành đấu tranh
khơng bạo lực. Thứ 2: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là
một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”. Vì thế,
con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con
đường cách mạng bạo lực.Và thứ 4 là: Cách mạng giải phóng
dân tộc là lật đổ chế độ thực dân phong kiến, giành chính
quyền về tay cách mạng, nó phải được thực hiện bằng một
cuộc khởi nghĩa vũ trang. Như ở Việt Nam là khởi nghĩa từng
phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của
giai cấp của cả dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại
bạo lực phản cách mạng, giành chính quyền và bảo vệ chính
quyền”.
Quán triệt quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”, Hồ Chí Minh chỉ rõ, bạo lực cách mạng ở đây là bạo lực
của quần chúng, nghĩa là toàn dân vùng dậy đánh đuổi quân
xâm lược.
Hình thức của bạo lực cách mạng gồm cả đấu tranh chính trị và
đấu tranh vũ trang, nhưng phải “tuỳ tình hình cụ thể mà quy
định những hình thức cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và
khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh
chính trị cho cách mạng”, ngồi ra cịn phải tận dụng đấu tranh
trên mặt trận ngoại giao.

Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng
nhân đạo và hồ bình: Xuất phát từ tình u thương con người,
quý trọng sinh mạng con người, Hồ Chí Minh ln tranh thủ mọi
khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi
cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải
quyết xung đột bằng biện pháp hồ bình, chủ động đàm phán,
thương lượng, chấp nhận nhượng bộ có nguyên tắc.Việc tiến
hành các hội nghị Việt – Pháp và ký các Hiệp định trong năm
1946, việc kiên trì yêu cầu đối phương thi hành Hiệp định
Giơnevơ thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo và hồ bình của Hồ Chí
Minh. Người viết: “Tơi khơng muốn trở về Hà Nội tay không. Tôi
muốn khi trở về nước sẽ đem cho Việt Nam những kết quả cụ


thể với sự cộng tác chắc chắn mà chúng tôi mong đợi ở nước
Pháp”.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng.
Chỉ khi khơng cịn khả năng hồ hỗn, khi kẻ thù ngoan cố bám
giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân
sự, thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh.
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 1946 của Người có
đoạn: “Chúng ta muốn hồ bình, chúng ta đã nhân nhượng.
Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới
vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Không! Chúng ta
thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nơ lệ”.
Trong khi tiến hành chiến tranh, Người vẫn tìm mọi cách vãn hồi
hồ bình. Trong kháng chiến chống Pháp cũng như chống Mỹ,
Người đã nhiều lần gửi thư cho Chính phủ và nhân dân hai
nước này đề nghị đàm phán hồ bình để kết thúc chiến tranh.

Điều này thể hiện trong chiến lược ngoại giao “vừa đánh vừa
đàm” của Người.
Hình thái bạo lực cách mạng
Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và địch, Hồ Chí
Minh chủ trương khởi nghĩa toàn dân và phát động cuộc chiến
tranh nhân dân. Người nói: “Khơng dùng tồn lực của nhân dân
về đủ mọi mặt để ứng phó thì khơng thể nào thắng lợi được”.
Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về hình thái của bạo lực cách mạng.
Phương châm chiến lược là toàn dân, toàn diện, trường kỳ
kháng chiến: Trong chiến tranh, “quân sự là việc chủ chốt”,
nhưng đồng thời kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị.
“Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị
sẽ làm clo thắng lợi quân sự to lớn hơn”.
Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến
lược nhằm thêm bạn bớt thù, phân hố, cơ lập kẻ thù, tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ của quốc tế. “vừa đánh vừa đàm”, “đánh là
chủ yếu, đàm là hỗ trợ”.
Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng sản xuất, thực hành tiết kiệm,
phát triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch.


“Chiến tranh về mặt văn hoá hay tư tưởng so với những mặt
khác cũng không kém phần quan trọng”.
Về kháng chiến trường kỳ, trong thời kỳ chống Pháp Người nói:
“Địch muốn tốc chiến tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến
trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng”. Trong thời
kỳ chống Mỹ cứu nước Người ra Lời kêu gọi (17/7/1967): “Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa.
Hà Nội, Hải Phịng và một số thành phố khác có thể bị tàn phá,

nhưng chúng ta nhất định phải đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất
quan trọng nhằm phát huy cao độ nguồn sức mạnh của nhân
dân.Trong Đường Kách mệnh Người chỉ rõ: muốn người ta giúp
cho thì mình phải tự giúp lấy mình đã.
Tháng 8 năm 1945 khi thời cơ xuất hiện, Người kêu gọi toàn
quốc, đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà giải phóng cho
ta.
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự
giúp đỡ của quốc tế cũng là một quan điểm nhất quán trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người đã
động viên sức mạnh toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động,
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả cả về vật
chất và tinh thần
HCM đã nhận thức đúng đắn Bạo lực cách mạng và khởi
nghĩa vũ trang. Vận dụng sáng tạo trên cơ sở thực tiễn dân tộc,
hoàn toàn phù hợp với quy luật tất yếu của khách quan của
cách mạng. Giải phóng dân tộc đưa nước ta trở thành một dân
tộc độc lập tự do

. III. Sự sáng tạo và chủ động trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
giải phóng dân tộc.Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến
hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc.


Theo mác – ănghen: cách mạng vơ sản ở chính quốc là cần
thiết và thực hiện trước
Theo lê nin : cách mạnh thược địa phụ thuộc vào cách mạng vô

sản ở chính quốc
Theo hồ chí minh :cách mạnh thuộc địa cần được tiến hành chủ
động và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng ở chính
quốc
Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống
của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, Hồ Chí Minh khơng chỉ
nhìn thấy mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng
chính quốc một cách tinh tế, mà cịn nhìn thấy những nhân tố
mới khác so với quan niệm của chủ nghĩa Mác Lênin và quốc tế
cộng sản. Ngay từ năm 1924, Người đã sớm cho rằng cách
mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng
vơ sản ở chính quốc mà có thể dành thắng lợi trước. Đây là một
cống hiến rất quan trong vào kho tàng lý luận Mác Lênin, đã
giành được những thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng
minh đó là hồn tồn đúng đắn.
Quan niệm nêu trên của Hồ Chí Minh khơng nằm ngồi lý
luận của chủ nghĩa Mác Lênin mà thể hiện sự vận dụng đúng
đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh vào điều kiện hồn cảnh cụ thể.
Cách mạng cần được tiến hành một cách triệt để, chủ động
sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng ở
chính quốc.
3.1. Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động,
sáng tạo.
Hồ Chí Minh khẳng định sức sống và nộc độc của chủ nghĩa đế
quốc tậptrung ở các nước thuộc địa. Chính sự áp bức, bóc lột
tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đế quốc đã tạo nên mâu thuẫn
gay gắt giữa các dân tộc thuộc địa với CNTB.
Người viết: “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều
lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi CNTB lấy nguyên liệu cho các

nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ công nhân rẻ


mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những
binh lính bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó”. “…
nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập
trung ở các nước thuộc địa”.
Trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, CNTD, cách mạng thuộc địa
có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có
khả năng cách mạng to lớn. Chủ nghĩa dân tộc chân chính, chủ
nghĩa yêu nước truyền thống là một động lực to lớn của cách
mạng giải phóng dân tộc.
Cho nên, phải “làm cho các dân tộc hiểu nhau hơn, xích lại gần
nhau, đồn kết với nhau để tạo cơ sở cho một liên minh phương
Đông tương lai, làm một trong nhưng cái cánh của cách mạng
vô sản”; phải phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh
quốc tế Cộng sản.
Trong khi yêu cầu QT III và các đảng cộng sản quan tâm đến
cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định cơng cuộc
giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng
sự nổ lực tự giải phóng.
Vận dụng cơng thức của C.Mác: “Sự giải phóng của giai cấp
cơng nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp cơng nhân”,
Người đi đến luận điểm: “Cơng cuộc giải phóng anh em (tức
nhân dân thuộc địa), chỉ có thể thực hiện được bằng sự nổ lực
của bản thân anh em”
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng
dậy chống đế quốc thực dân; chủ trương phát huy nổ lực chủ
quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động, trơng chờ vào sự giúp
đỡ bên ngồi. Người nói: “Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng

thời phải tự lực cánh sinh. Trơng vào sức mình… Cố nhiên sự
giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng nhưng không được ỷ
lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không
tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì khơng
xứng đáng được độc lập”.
3.2. Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vơ sản ở
chính quốc.


Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm
xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách
mạng vơ sản ở chính quốc. Quan điểm này vơ hình dung đã làm
giảm tính chủ động, sáng tạo của các phog trào cách mạng ở
thuộc địa. Hồ Chí Minh đã phê phán và chỉ ra sai lầm của quan
điểm đó.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa và
cách mạng vơ sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng
chứ khơng phải là quan hệ lệ thuộc hay quan hệ chính – phụ.
Năm 1925 Người viết, “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một
cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vời
khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta
muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vịi.
Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi thì cái vịi kia vẫn tiếp tục hút
máu của giai cấp vơ sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị
cắt đứt lại sẽ mọc ra”
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc
địa và sức mạnh dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng

giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước và
giúp đỡ cách mạng vơ sản ở chính quốc.
Bởi vì “Vận mệnh của giai cấp vơ sản thế giới và đặc biệt là vận
mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn
chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở thuộc địa”, và
“Ngày mà hàng trăm nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức
tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lịng tham
khơng đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong
khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư
bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh
em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận thực tiễn và lý
luận to lớn; một cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách


mạng giải phóng dân tộc trên tồn thế giới trong gần một thế
kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
3.3 Sự sáng tạo và chủ động trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
phóng dân tộc.
3.3.1Vận dụng sáng tạo vào trong lý luận Cách mạng giải
phóng dân tộc.
Đến với chủ nghĩa Mác-lênin xác định theo khuynh hướng chính
trị vơ sản, nhưng con đường Cách mạng giải phóng dân tộc là
do Hồ Chí Minh hoạch định chứ khơng phải đã tồn tại từ trước.
Hồ Chí Minh khơng rập khn máy móc lý luận đấu tranh giai
cấp vào
điều kiện lịch sử ở thuộc địa mà có sự kết hợp hài hịa về vấn
đề dân tộc với vấn đề giai cấp.
+ Bác khẳng định “Đảng cộng sản Việt Nam” là “Đảng của giai

cấp vô sản” là “Đảng của dân tộc Việt Nam” “Đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động”.
3.3.2. Sáng tạo trong phương pháp trong tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc.
Mang đậm tính nhân văn sử dụng bạo lực cách mạng nhưng tận
dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hịa
bình. Sử dụng và phát huy sức mạnh toàn dân tộc , dựa vào sức
mạnh toàn dân để tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh
cách mạng, kết hợp quy luật của cuộc khởi nghĩa và chiến
tranh.

B. Thực tiễn
1. Thắng lợi của cách mạnh tháng 8
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam mốc son chứng
minh luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh “Cách mạng giải
phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động sáng tạo và có khả
năng giàng thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc” là
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới do giai
cấp công nhân lãnh đạo giành được thắng lợi, góp phần cùng Đồng
minh dân chủ quốc tế đánh bại chủ nghĩa phát-xít, kết thúc cuộc


chiến tranh thế giới lần thứ hai, đem lại hòa bình cho tồn thể nhân
loại. Cách mạng Tháng Tám cịn góp phần tích cực vào phong trào
giải phóng dân tộc thuộc địa, mở đầu cho kỷ nguyên độc lập, tự do
của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả đấu tranh lâu dài của
nhân dân Việt Nam chống đế quốc thực dân, phát huy cao nhất
truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc đã được
hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử.

Theo tư tưởng của quốc tế cộng sản cách mạng nước ta nếu
muốn thành công phải hỗ trợ hết sức để cách mạnh vô sản tại
Pháp giành thắng lợi từ tháng lợi ở chính quốc sẽ quay lại giúp
đỡ các nước thuộc địa. Nhưng với tư tưởng của Hồ Chí minh
nhìn rõ sự việc và áp dụng thực tế vào cách mạng Việt Nam đưa
ra con đương đi đúng đắn để nước ta có thắng lợi của cuộc cách
mạng tháng 8 vẻ vang.
Thời điểm trước cuộc cách mạng tháng 8 nổ ra đã có nhiều yếu
tố thời cuộc có lợi cho chúng ta lúc đó ở Đơng Dương có
"khoảng trống quyền lực" (Pháp chạy, Nhật hàng, quân Đồng
minh chưa tới) nên Việt Minh mới dễ dàng giành thắng lợi. Nưng
nếu khơng có sự chủ động tổ chức kháng chiến mà vẫn đợi
thắng lợi từ chính quốc thì cơ hội đó cũng qua đi. Ngun nhân
thắng lợi cánh mạng tháng 8. Thứ nhất tư tưởng về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, về xác định đối tượng
của cách mạng rõ ràng chống đế quôc sthuwcj dân chứ không
phải là đấu tranh giai cấp. Thứ ba, về đoàn kết rộng rãi mọi
người Việt Nam yêu nước.Thứ tư, về nền tảng lý luận của Đảng
luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa mác – lenin vào cách mạnh
nước ta. Thứ năm, về phương pháp cách mạng. Thứ sáu , thời
thế và tính chủ động. Cách mạng tháng 8 thành công nắm
đúng thời cơ, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành
chính quyền, ít phải đổ máu.
Sau cách mạng tháng 8 một đất nước thuộc địa nghèo khổ với
vũ khí thơ sơ và lòng yêu nước mãnh liệt đã được độc lập. Bản
“tuyên ngôn độc lập” ngày 2-9-1945 là ngày tự hào cảu người
dân Việt Nam

2.Ý nghĩa lịch sử



Cách mạng tháng Tám mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch
sử dân tộc ta. Nó đã phá tan xiềng xích nơ lệ của thực dân Pháp
hơn 80 năm và ách thống trị của phát xít Nhật gần 5 năm, lật
nhào ngai vàng phong kiến ngự trị ngót chục năm thế kỉ ở nước
ta, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước do nhân
dân lao động làm chủ.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát
triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở đầu kỉ nguyên mới
của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do; kỉ nguyên nhân dân lao
động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh
dân tộc’ kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã
hội.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng Cộng sản
Đông Dương trở thành một Đảng cầm quyền, chuẩn bị những
điều kiện tiên quyết cho những thắng lợi tiếp theo.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã góp phần vào chiến
thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đã
chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, góp phần làm suy yếu chúng, cổ vũ mạnh mẽ
các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng, “có ảnh hưởng
trực tiếp và rất to lớn đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào”.
3 Bài học kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Tám cho ta nhiều bài học quý báu nhưng
có thể nói bài học lớn nhất, sâu sắc nhất đó là:Nước ta đã có
một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu được Chủ
nghĩa Mác - Lênin - đỉnh cao trí tuệ của thời đại được tư tưởng
Hồ Chí Minh soi sáng ,đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi
giai đoạn cách mạng của đất nước, đề ra được đường lối cách
mạng đúng đắn, có phương pháp, hình thức đấu tranh phong

phú, linh hoạt, biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ
chức, sử dụng lực lượng đúng lúc, phát huy được sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đạidẫn dắt quần chúng tiến lên giành và
giữ chính quyền. Cách mạng Tháng Tám khẳng định rằng: nếu
khơng có một. Đảng cách mạng, có một lãnh tụ kiệt xuất, một
bộ tham mưu tài giỏi, có lý luận tiên tiến, có tư tưởng thống
nhất, có tổ chức chặt chẽ, có đường lối đúng đắn và hợp lịng
dân thì khó tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc để làm


nên cuộc cách mạng long trời lở đất, chỉ trong vịng nửa tháng
đã giành thắng lợi và xác lập chính quyền dân chủ nhân dân
trên phạm vi toàn quốc. Thực tiễn lịch sử 70 năm qua lại càng
khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắn của một đảng mạnh luôn
luôn là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Điều đó nói
lên rằng, muốn tiến hành một cuộc cách mạng xã hội sâu sắc
và triệt để không thể thiếu vai trị lãnh đạo của một Đảng mác
xít và một Đảng muốn giữ được vai trò lãnh đạo cách mạng cần
phải giải quyết tốt mấy vấn đề cơ bản của cách mạng trong
cuộc c
2. Thắng lợi của 30 năm chiến tranh cách mạng 1945-1975
a,Giai đoạn 1945-1954: Xây dựng và bảo vệ chính quyền, tiến
hành kháng chiến chống thực dân Pháp:
* Bối cảnh lịch sử:
- Tháng 9/1945: Sau thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945,
chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh nước
Việt Nam dân chủ cộng hịa, chính quyền cách mạng được thiết
lập trên cả nước nhưng đứng trước tình thế hiểm nghèo khi phải
đối mặt với giặc đói, giặc dốt và nguy hiểm nhất là giặc ngoại
xâm.

- Ngày 14/9/1946: Ký Tạm ước đồng ý để quân Pháp ra Bắc thay
thế quân Tưởng rút về nước để tránh chiến tranh có thể xảy ra.
Nhưng thực dân Pháp đã trắng trợn vi phạm.
- Từ tháng 11/1946, quân Pháp tấn cơng Hải Phịng, Lạng Sơn,
tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội và ngày 18/12/1946 ra tối hậu thư
địi tước vũ khí tự vệ ở thủ đơ.
=> Đứng trước vơ vàn khó khăn cũng như sự thách thức, đe
dọa đến quyền tự do, dân chủ của đất nước, dân tộc, chủ tịch
Hồ Chí Minh cùng với Đảng cộng sản Việt Nam xác định: Kháng
chiến lâu dài và dựa vào sức mình là chính, tranh thủ thời gian
chuyển hố lực lượng của ta từ yếu thành mạnh. Cuộc kháng
chiên chống thực dân Pháp xâm lược lâu dài, gian khổ, khó
khăn song nhất định thắng lợi.
* Nội dung:
Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong "Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến", Bác Hồ viết: "Thà hy sinh tất


cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ". Thực hiện lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, quân
và dân ta đã anh dũng đứng lên chống lại kẻ tù xâm lược với
niềm tin “kháng chiến nhất định thắng lợi”. Trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
tranh, cách mạng giải phóng dân tộc được thể hiện một cách
rất mới mẻ và sáng tạo. Bác nhận định một cách chính xác và
chắc chắn rằng, tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc khơng
phải là việc của một người hay một số người mà là việc đại sự
của cả một quốc gia, một dân tộc, bất cứ một người dân nào
cũng phải góp một phần sức mạnh của mình vào sự nghiệp giải
phóng và bảo vệ đất nước. Tuân thủ đúng đắn chủ nghĩa MácLênin, Người chủ trương đưa cách mạng Việt Nam đi theo con

đường CM vô sản, nhưng chưa làm ngay CM vô sản mà thực
hiện CM giải phóng dân tộc, giải quyết mâu thuẫn dân tộc với
đế quốc xâm lược và tay sai. Với mục tiêu đầu tiên va tiên
quyết là giành độc lập dân tộc, cách mạng Việt Nam được tiến
hành dưới sự tham gia của mọi tầng lớp, không phân biệt dân
cày, phú nơng, tư sản, tiểu tư sản,…bất cứ ai có lịng yêu nước,
quyết tâm giành lại độc lập đều được tham gia, giúp sức chống
lại kẻ thù xâm lược. Cùng với đó, luận điểm cách mạng giải
phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng dành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc
là hoàn toàn đúng đắn khi mà nhân dân ở các nước thuộc địa là
những con người thấp cổ bé họng, thế nhưng họ đều có một
lịng u nước nồng nàn, khi tinh thần đó được cỗ vũ, khích lệ
thì nó sẽ biến thành một sức mạnh mà khơng gì có thể cản phá
nổi, đều đó được minh chứng rất rõ trong chiến thắng của cuộc
tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện
Biên Phủ, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh và tạo cơ sở
thực lực về quân sự cho cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị
Giơnevơ, kết thúc cuộc kháng chiến.
b,Giai đoạn 1954-1975: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
* Bối cảnh lịch sử:
- Năm 1954:sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, thành công
đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước,miền Bắc nước ta
được giải phóng, quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội.


×