Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Kết quả nghiên cứu, tác động của nó lên chính sách xóa đói giảm nghèo và liên hệ thực tế với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.7 KB, 15 trang )

NOBEL KINH TẾ 2019
I. Khái quát về giải thưởng Nobel
1.1 Giải thưởng Nobel
- Alfred Bernhard Nobel (1833 - 1896) là một nhà hóa học, một nhà kỹ nghệ,
nhà sản xuất vũ khí, người phát minh ra thuốc nổ (dynamite) và là một triệu
phú người Thụy Điển. Ông dùng tài sản của mình để sáng lập ra Giải thưởng Nobel.
- Giải thưởng Nobel là một tập các giải thưởng quốc tế được tổ chức trao thưởng
hằng năm kể từ năm 1901 cho những cá nhân đạt thành tựu trong lĩnh vực vật lý, hoá
học, y học, văn học, kinh tế và hòa bình
- Giải Nobel Hòa bình được trao thưởng ở Oslo, Na Uy, trong khi các giải khác
được trao ở Stockholm, Thụy Điển
- Kết quả đoạt giải được công bố hằng năm vào tháng 10 và được trao (bao gồm
tiền thưởng, một huy chương vàng và một giấy chứng nhận) vào ngày 10 tháng 12,
ngày kỷ niệm ngày mất của Nobel. Giải Nobel được thừa nhận rộng rãi như là giải
thưởng danh giá nhất một người có thể nhận được trong lĩnh vực được trao
- Người Việt Nam đầu tiên và cũng là duy nhất đoạt giải Nobel là chính trị gia Lê
Đức Thọ, vào năm 1973, cho những cống hiến về hoà bình trong cuộc thương thuyết
Hiệp định Paris , nhưng ông đã từ chối nhận giải.
1.2 Giải Nobel Kinh tế (Nobel Memorial Prize in Economic Sciences)
- Giải Nobel Kinh tế không phải là một trong năm giải Nobel đặt ra theo nguyện
vọng của Alfred Nobel năm 1895
- Đây là giải thưởng do Ngân hàng Thụy Điển đặt ra và tài trợ bắt đầu từ năm
1968 để kỷ niệm 300 năm thành lập ngân hàng và cũng để tưởng niệm Nobel.
- Từ năm 1901 đến năm 2012, các giải thưởng Nobel được trao tặng 555 lần cho
856 người và tổ chức. Do một số cá nhân và tổ chức nhận giải Nobel nhiều hơn một
lần, tổng cộng có 835 cá nhân (791 nam và 44 nữ) và 21 tổ chức đã nhận giải này
- Là giải thưởng quốc tế cao quý nhất trong Kinh tế học, vinh danh những nhân
vật có đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực kinh tế học.


- Những người đoạt giải Nobel kinh tế đầu tiên là nhà kinh tế học người Hà Lan


Jan Tinbergen và người Na Uy Ragnar Frisch vào năm 1969 "do đã phát triển và ứng
dụng các mô hình động và phân tích các tiến trình kinh tế".
-Theo thống kê, Mỹ, Anh, Na Uy, và Thụy Điển là những quốc gia có số lượng
người đạt giải Nobel Kinh tế đứng đầu trên thế giới. Sau đây là bảng tổng hợp người
đạt giải Nobel theo quốc gia. Với người đến từ 2 quốc gia thì mỗi quốc gia đạt nửa
điểm.

II. Giải Nobel Kinh tế 2019
2.1 Các tác giả
 Abhijit Banerjee sinh năm 1961 tại Mumbai, Ấn Độ, là người Mỹ gốc Ấn Độ.
Ông đã nhận bằng tiến sĩ của đại học Harvard năm 1988. Hiện tại ông là giáo sư Kinh
tế quốc tế tại Viện Công nghệ Massachusetts (Hoa Kỳ).
 Esther Duflo sinh năm 1972 tại Paris (Pháp), có quốc tịch Pháp-Mỹ. Bà được
Viện Công nghệ Massachusetts trao bằng tiến sĩ năm 1999. Hiện bà là một giáo sư về
xóa đói giảm nghèo và kinh tế phát triển tại Viện Công nghệ Massachusetts. Bà là
người phụ nữ thứ hai giành được Nobel Kinh tế kể từ khi giải này được trao lần đầu
năm 1969. Bà cũng là người trẻ nhất từng giành được giải Nobel Kinh tế, ở tuổi 47.


 Tiến sĩ Michael Kremer sinh năm 1964, tốt nghiệp Đại học Harvard về Khoa
học xã hội năm 1985 và Tiến sĩ Kinh tế năm 1992, hiện đang công tác tại đại học
Harvard và phụ trách giảng dạy bộ môn Phát triển xã hội.
Bất chấp những bước tiến đáng kể gần đây, cái nghèo vẫn là một trong những
vấn đề hàng đầu con người phải đối mặt: Hơn 700 triệu người trên thế giới vẫn đang
sống với mức thu nhập cực kỳ thấp. Mỗi năm khoảng 5 triệu trẻ em qua đời vì những
chứng bệnh hoàn toàn có thể chữa hoặc ngăn chặn được bằng những phương pháp
không quá tốn kém.
 Những nhà kinh tế đạt giải Nobel năm nay đã giới thiệu một cách tiếp cận mới
để giải quyết tình trạng đói nghèo toàn cầu: họ chia vấn đề vĩ mô này thành những vấn
đề nhỏ và sau đó xử lý chúng bằng các thực nghiệm được thiết kế tỉ mỉ và chuẩn xác,

với trọng tâm là những nạn nhân đang chịu ảnh hưởng lớn nhất.
 Từ giữa những năm 1990, Michael Kremer và đồng nghiệp đã chứng minh sức
mạnh của phương pháp này bằng cách áp dụng và cải thiện hiệu quả của các trường
học tại Kenya. Không lâu sau đó Kremer cùng Abhijit Banerjee và Esther Duflo tiếp
tục những thực nghiệm tương tự tại nhiều quốc gia khác nhau.
 Phương pháp tiếp cận này đã giúp 5 triệu trẻ em Ấn Độ hưởng lợi từ các
chương trình học hiệu quả hơn. Bên cạnh đó ngành y tế nhiều nước khác cũng được hỗ
trợ về tài chính, nhờ đó củng cố chương trình chăm sóc sức khỏe và phòng ngừa bệnh
tật cho nhiều người.
 Abhijit Banerjee ra đời năm 1961 tại Mumbai, Ấn Độ. Ông đã nhận bằng tiến sĩ
của đại học Harvard năm 1988. Hiện tại ông là giáo sư Kinh tế quốc tế tại Viện Công
nghệ Massachusetts (Hoa Kỳ).
 Esther Duflo sinh năm 1972 tại Paris (Pháp). Bà được Viện Công nghệ
Massachusetts trao bằng tiến sĩ năm 1999. Hiện bà là một giáo sư về xóa đói giảm
nghèo và kinh tế phát triển tại Viện Công nghệ Massachusetts.
 Tiến sĩ Michael Kremer sinh năm 1964, hiện đang công tác tại đại học Harvard
và phụ trách giảng dạy bộ môn Phát triển xã hội.
 Từ năm 1901 đến 2018, giải thưởng Nobel đã được trao tặng 590 lần cho 935
cá nhân và tổ chức. Đây là giải thưởng quốc tế do Quỹ Nobel tại Stockholm, Thụy


Điển quản lý, với nguồn vốn đến từ nhà phát minh và doanh nhân người Thụy Điển
Alfred Nobel. Mỗi giải thưởng được trao sẽ bao gồm một huy chương, bằng cá nhân
và tiền mặt.

2.2 Tác phẩm đạt giải


Giải thưởng của Ngân hàng Thuỵ Điển về Khoa học Kinh tế để tưởng nhớ


Alfred Nobel 2019 (thường được gọi là Giải Nobel Kinh tế) đã được trao cho Abhijit
Banerjee, Esther Duflo và Michael Kremer “vì cách tiếp cận thực nghiệm của họ để
giảm nghèo toàn cầu”. Qua giải thưởng này, Ủy ban Nobel đã công nhận cả tầm quan
trọng của kinh tế học phát triển trên thế giới hiện nay và các phương pháp tiếp cận
sáng tạo do ba nhà kinh tế này phát triển.


Nghèo đói toàn cầu tiếp tục là một thách thức lớn. Trước đó, vào năm 2015, giải

thưởng này được trao cho Angus Deaton cho những đóng góp của ông trong kinh tế
học phát triển - lĩnh vực nghiên cứu nguyên nhân của nghèo đói toàn cầu và cách tốt
nhất để chống lại nó . Đặc biệt, ông nhấn mạnh vào lựa chọn tiêu dùng của mọi người
và đo lường an sinh, đặc biệt là an sinh của người nghèo.
Lý thuyết được phát triển tốt có thể làm nổi bật những gì gây ra nghèo đói và,
dựa trên điều này, đề xuất các chính sách để chống lại nó. Nhưng nó không thể cho
chúng ta biết chính xác các biện pháp chính sách cụ thể mạnh mẽ như thế nào trong
thực tế. Đây chính xác là câu hỏi mà Banerjee, Duflo và Kremer trả lời. Các bài dẫn
của Uỷ ban Nobel đưa ra một số ví dụ về ảnh hưởng của họ, bao gồm cách mà nghiên
cứu của họ đã giúp giáo dục, y tế và tiếp cận tín dụng cho nhiều người ở các nước
đang phát triển, nhất ở Ấn Độ và Kenya.
Ví dụ, xem xét tỉ lệ tử vong và sức khỏe trẻ em - những vấn đề có ý nghĩa to lớn
trong thế giới đang phát triển. Lý thuyết có thể cho chúng ta biết rằng việc trao quyền
cho phụ nữ rất quan trọng đối với sức khỏe trẻ em và giảm tỉ lệ tử vong, nhưng không
thể cho chúng ta biết chính sách nào sẽ hiệu quả nhất trong việc chống lại điều này. Có
thể là ta cần chú tâm vào việc giáo dục các bà mẹ, hoặc tăng tiếp cận với chăm sóc sức
khỏe, hoặc đại diện bầu cử, hoặc luật hoá tuổi kết hôn.
Có lẽ, quan trọng hơn, lý thuyết không thể cho chúng ta biết mức độ tác động với
độ lớn và sự quan trọng khác nhau của các chính sách này. Và đây là nơi mà giải
thưởng Nobel năm nay có ý nghĩa.



2.3 Phương pháp tiếp cận được áp dụng
Ba nhà khoa học kinh tế đã tiếp cận câu hỏi lớn đó theo cách chia nhỏ vấn đề này
thành các lĩnh vực tiếp cận khác nhau như giáo dục, y tế, năng suất lao động, tín dụng vi
mô... với những câu hỏi nghiên cứu cụ thể.
Và họ đã tìm được các câu trả lời có độ tin cậy nhờ dựa vào phương pháp kinh tế
học thí nghiệm. Họ muốn xem xét tác động cụ thể của từng lĩnh vực nhỏ này với câu
chuyện đói nghèo của mỗi nước, từ đó đề xuất ra các giải pháp cụ thể cho từng lĩnh vực.
Với mỗi lĩnh vực nghiên cứu, họ đều tiến hành các thí nghiệm với từng nhóm, mẫu
đối tượng khác nhau ở các nước như Kenya và Ấn Độ, từ đó rút ra những kết luận và đề
xuất phương án giải quyết.
Chẳng hạn, ở lĩnh vực năng suất lao động, ai cũng biết những nước giàu có năng
suất lao động cao và những nước nghèo thì ngược lại.
Song nhóm tác giả được trao giải Nobel đã nhận thấy ngay cả trong một quốc gia,
năng suất lao động giữa các khu vực hoặc các doanh nghiệp cũng không giống nhau, từ
đó dẫn tới sự phát triển không đồng đều và kéo giảm năng suất bình quân của quốc gia
xuống, khiến cho tăng trưởng kinh tế trở nên không bền vững.
Dựa trên những phát hiện này, nhóm tác giả đã đưa ra các hàm ý chính sách để
chính phủ các nước có thể tham khảo, tạo điều kiện để nâng cao năng suất lao động bình
quân, tạo động lực tốt hơn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Rồi như trong vấn đề giáo dục, nhóm nghiên cứu đặt ra câu hỏi liệu các trẻ em
nghèo đến trường với cái bụng đói và thiếu thốn sách vở thì kết quả học tập bị ảnh hưởng
ra sao.
Các kết quả thí nghiệm được tiến hành trên các nhóm khác nhau cho thấy việc cải
thiện bữa ăn miễn phí ở trường hay hỗ trợ thêm nhiều sách vở cải thiện không đáng kể
thành quả học tập của các trẻ em nghèo.


Trong khi mấu chốt ở vấn đề nội dung chương trình học không đáp ứng nhu cầu
người học và các giáo viên ở những vùng khó khăn này chưa được đãi ngộ hoặc tìm thấy

động lực cho mục tiêu cải thiện việc dạy học.

Vì vậy, nhóm tác giả đề xuất các giải pháp để nâng cao đóng góp của giáo dục cho
xóa đói giảm nghèo thông qua việc cải cách nội dung dạy học và các chính sách tạo động
lực gắn bó lâu dài cho các giáo viên, đặc biệt là các giáo viên hợp đồng ngắn hạn ở các
quốc gia này.
Còn trong lĩnh vực y tế, nhóm nghiên cứu đi tìm câu trả lời cho thắc mắc vì sao
những người dân nghèo có vẻ như xem thường vấn đề chăm sóc y tế như vậy.
Thí nghiệm cho họ thấy hóa ra không phải người nghèo không hiểu được những lợi
ích của việc chăm sóc sức khỏe nhưng yếu tố hành vi đã khiến họ chỉ nhắm vào các mục
tiêu ngắn hạn và thờ ơ với các giá trị lâu dài.
Do vậy, để cải thiện sức khỏe cộng đồng ở các quốc gia này, chính phủ cần có các
giải pháp để tác động làm thay đổi tâm lý và hành vi ngắn hạn vừa nêu thì mới giúp
người dân thoát nghèo bền vững.
- Phương pháp chung:
+ Ba chủ nhân của giải thưởng Nobel Kinh tế năm nay gồm Abhijit Banerjee,
Esther Duflo và Michael Kremer đã chứng minh, bài toán giảm nghèo trên toàn cầu có
thể được giải quyết như thế nào thông qua cách chia vấn đề này thành nhiều câu hỏi
nhỏ hơn và cụ thể hơn cho các cấp độ cá nhân hoặc nhóm.
+ Các câu hỏi sau đó được các tác giả trả lời bằng cách sử dụng thí nghiệm thực
địa (field experiment) được thiết kế đặc biệt. Họ đã xây dựng một khung khoa học và
sử dụng dữ liệu cứng để xác định nguyên nhân nghèo đói, ước tính tác động của các
chính sách khác nhau và sau đó đánh giá hiệu quả chi phí của chúng.
+Cụ thể họ đã dùng các thử nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên để nghiên cứu các
chính sách khác nhau trong thực tế và thúc đẩy những chính sách có hiệu quả nhất.
- Các thí nghiệm ban đầu trong trường học:


+ Thí nghiệm thực địa ở Kenya: Vào giữa những năm 1990, Michael Kremer và
các đồng nghiệp đã chứng minh hiệu quả của cách tiếp cận này bằng việc thử nghiệm

các biện pháp can thiệp để cải thiện kết quả giáo dục ở tây Kenya. Các câu hỏi cụ thể
được đặt ra: Cách can thiệp nào giúp nâng cao đầu ra giáo dục với chi phí thấp nhất? Ở
các nước có thu nhập thấp, sách giáo khoa thì khan hiếm còn trẻ em thường đi học với
bụng đói. Kết quả học tập của học sinh sẽ được cải thiện hơn nếu chúng có thêm nhiều
sách giáo khoa? Hay nếu ở trường có những bữa ăn miễn phí?
Kremer và các đồng nghiệp của ông đã lấy một số lượng lớn các trường học cần
hỗ trợ đáng kể và chia ngẫu nhiên họ vào các nhóm khác nhau. Các trường trong các
nhóm này đều nhận được thêm các nguồn lực, nhưng ở các hình thức khác nhau và tại
các thời điểm khác nhau. Trong một nghiên cứu, một nhóm được tặng thêm sách giáo
khoa, trong khi một nghiên cứu khác xem xét hiệu quả của những bữa ăn tại trường
miễn phí. Bởi vì sự ngẫu nhiên quyết định trường nào được cái gì, ở đây không có sự
khác biệt trung bình giữa các nhóm khác nhau khi thí nghiệm bắt đầu. Các nhà nghiên
cứu, do đó, có thể một cách đáng tin liên kết sự khác biệt trong kết quả học tập sau này
với các hình thức hỗ trợ khác nhau. Các thí nghiệm cho thấy rằng dù là có nhiều sách
giáo khoa hay có bữa ăn miễn phí ở trường cũng không ảnh hưởng đến kết quả học
tập. Nếu sách giáo khoa có bất kì tác động tích cực nào, thì điều này chỉ đúng cho
những học sinh giỏi nhất mà thôi.
+ Thí nghiệm thực địa ở Ấn Độ: Banerjee, Duflo và các cộng sự đã nghiên cứu
các chương trình học gia sư cho học sinh ở hai thành phố của Ấn Độ. Các trường học
ở Mumbai và Vadodara đã có thêm những người trợ giảng mới, những người sẽ hỗ trợ
các học sinh có nhu cầu đặc biệt. Những trường học này được phân vào các nhóm
khác nhau một cách khéo léo và ngẫu nhiên, cho phép các nhà nghiên cứu đo lường
một đáng tin cậy tác dụng của trợ giảng. Thí nghiệm cho thấy rằng trợ giảng cho
những học sinh yếu nhất là một biện pháp hiệu quả trong ngắn hạn và trung hạn.
=> Nhiều thí nghiệm mới sau đó ở các quốc gia khác đã được thực hiện, tập
trung vào các lĩnh vực quan trọng như sức khỏe, tiếp cận tín dụng và áp dụng tiến bộ
công nghệ. Một số kết luận được đưa ra như: Cấp miến phí hơn là bán mùng chống
muỗi để chống bệnh sốt rét, việc tiếp cận các nguồn tín dụng vi mô không cải thiện
việc sử dụng các biên pháp tránh thai, việc tẩy giun ở trẻ em sẽ kéo dài thời gian đi



học của trẻ, hay đảm bảo một hệ thống bảo hiểm tốt hơn cho nông dân thay vì trợ cấp
cho họ
Nhờ các công trình của họ, thí nghiệm thực địa đã trở thành phương pháp tiêu
chuẩn của các nhà kinh tế phát triển khi nghiên cứu tác dụng của các biện pháp trong
công cuộc xóa đói giảm nghèo.
- Điểm đặc biệt của phương pháp:
Phương pháp này đã được sử dụng rộng rãi trong các thử nghiệm lâm sàng truyền
thống trên các dược phẩm mới, vốn có những người tham gia được tuyển chọn đặc
biệt. Câu hỏi chính thường là liệu một phương pháp điều trị cụ thể có tác động đáng kể
về mặt thống kê không.
Các thí nghiệm được thiết kế bởi những nhà nghiên cứu đoạt giải năm nay có hai
tính chất đặc biệt.
 Đầu tiên, những người tham gia đưa ra quyết định thực sự trong môi trường
hàng ngày của họ, trong cả nhóm được xử lí và trong nhóm đối chứng. Điều này có
nghĩa là kết quả thử nghiệm một biện pháp chính sách mới, thường có thể được áp
dụng trên hiện trường.
 Thứ hai, những nhà nghiên cứu đoạt giải dựa vào nhận thức sâu nền tảng rằng
phần lớn những gì chúng ta muốn cải thiện (chẳng hạn như đầu ra giáo dục) phản ánh
nhiều quyết định cá nhân (ví dụ của các học sinh, phụ huynh và giáo viên). Do đó, các
cải tiến bền vững đòi hỏi một sự hiểu biết về lý do tại sao mọi người ra quyết định các động lực thúc đẩy ẩn sau các quyết định của họ. Banerjee, Duflo và Kremer không
chỉ kiểm tra xem liệu một can thiệp nào đó có hiệu quả (hay không), mà còn trả lời câu
hỏi tại sao.
III. Kết quả nghiên cứu, tác động của nó lên chính sách xóa đói giảm nghèo
và liên hệ thực tế với Việt Nam
3.1 Kết quả nghiên cứu
Dưới đây là một vài ví dụ về các kết luận cụ thể được rút ra từ loại nghiên cứu
được khởi xướng bởi những nhà nghiên cứu đoạt giải - phương pháp nghiên cứu thực
nghiệm.
3.1.1 Giáo dục



Chương trình giảng dạy và cách giảng dạy không phù hợp với nhu cầu của học
sinh của nhiều trường học ở các nước nghèo. Tỉ lệ vắng mặt của giáo viên cao và các
thể chế giáo dục nhìn chung là yếu.
Nghiên cứu được đề cập ở trên của Banerjee, Duflo và các cộng sự cho thấy việc
hỗ trợ đặc biệt cho học sinh yếu có tác động tích cực mạnh mẽ, kể cả trong trung hạn.
Nghiên cứu này là sự khởi đầu của một quá trình mang tính tương tác, trong đó kết quả
nghiên cứu mới đi đôi với các chương trình quy mô ngày càng lớn để hỗ trợ học sinh.
Các chương trình này hiện đã vươn đến hơn 100.000 ngôi trường ở Ấn Độ.
Một cách để thúc đẩy động lực cho giáo viên là sử dụng các hợp đồng ngắn hạn
mà có thể được gia hạn nếu họ đạt kết quả tốt. Duflo, Kremer và cộng sự đã so sánh
tác dụng của tuyển dụng giáo viên với các điều khoản này với việc giảm tỉ lệ học sinhgiáo viên bằng cách xếp ít học sinh hơn cho mỗi giáo viên làm việc lâu dài. Họ tìm ra
rằng học sinh có giáo viên làm việc theo hợp đồng ngắn hạn có kết quả kiểm tra tốt
hơn đáng kể, còn việc xếp ít học sinh hơn cho mỗi giáo viên làm việc lâu dài không có
tác dụng đáng kể.
→ Cải thiện quản trị trường học và đòi hỏi trách nhiệm từ những giáo viên không
làm tròn nhiệm vụ cũng là biện pháp có hiệu quả về mặt chi phí.
3.1.2 Sức khỏe
Một vấn đề quan trọng là liệu thuốc và chăm sóc sức khỏe có nên tính phí hay
không và nếu có thì đến mức nào. Một thí nghiệm thực địa của Kremer và đồng tác giả
đã điều tra xem nhu cầu về thuốc tẩy giun khi nhiễm kí sinh trùng bị ảnh hưởng như
thế nào bởi giá cả. Họ thấy rằng 75% cha mẹ cho con họ uống những viên thuốc này
khi thuốc miễn phí, so với 18% khi chúng có giá thấp hơn một đô-la Mỹ, vốn đã được
trợ cấp rất nhiều. Sau đó, nhiều thí nghiệm tương tự có kết quả y hệt: người nghèo cực
kì nhạy cảm với giá cả liên quan đến các khoản đầu tư vào chăm sóc y tế mang tính
phòng ngừa.

Chất lượng dịch vụ thấp là một lời giải thích khác tại sao các gia đình nghèo đầu
tư quá ít cho các biện pháp phòng ngừa.



Duflo, Kremer và các cộng sự tìm hiểu lí do tại sao các hộ sản xuất nhỏ -đặc biệt
là ở vùng Châu Phi Hạ Sahara - không áp dụng những đổi mới tương đối đơn giản,
như phân bón nhân tạo, mặc dù chúng sẽ cung cấp những lợi ích tuyệt vời. họ có xu
hướng trì hoãn các quyết định đầu tư. Kết quả có thể là một vòng tròn luẩn quẩn trong
đó các cá nhân không đầu tư vào tương lai mặc dù họ có lợi ích lâu dài khi làm vậy.
Nếu các cá nhân thiên về hiện tại trong nhận thức, thì trợ cấp tạm thời tốt hơn trợ
cấp lâu dài: một đề xuất chỉ áp dụng ở đây và ngay bây giờ làm giảm động cơ trì hoãn
đầu tư. Đây chính xác là những gì Duflo, Kremer và các cộng sự phát hiện được trong
thí nghiệm của họ: trợ cấp tạm thời có tác dụng lớn hơn đáng kể trong việc sử dụng
phân bón so với trợ cấp lâu dài.
3.1.3 Tín dụng vi mô
Các nhà kinh tế phát triển cũng sử dụng các thí nghiệm thực địa để đánh giá các
chương trình đã được thực hiện trên quy mô lớn.
Banerjee, Duflo và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu ban đầu về một chương
trình tín dụng vi mô tập trung vào người nghèo các hộ gia đình ở thành phố lớn
Hyderabad của Ấn Độ. Thí nghiệm thực địa của họ cho thấy một tác động tích cực khá
khiêm tốn lên đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ hiện có, song họ không tìm thấy ảnh
hưởng nào lên tiêu dùng hoặc các chỉ số phát triển khác, kể cả trong 18 hay 36 tháng.
Các thí nghiệm thực địa tương tự, ở các nước như Bosnia-Herzegovina, Ethiopia,
Morocco, Mexico và Mông Cổ, đã cho ra kết quả tương tự.
3.2. Tác động lên chính sách
Công trình của những nhà nghiên cứu đoạt giải đã có những tác động rõ ràng:
+ Các nghiên cứu về việc dạy kèm đã tạo tiền đề cho các chương trình hỗ trợ quy
mô lớn hiện đang vươn đến hơn năm triệu trẻ em ở Ấn Độ
+ Chính phủ và các tổ chức cũng đã đóng cửa nhiều chương trình được đánh giá
không hiệu quả và dành nguồn lực cho các hoạt động hiệu quả hơn.
+ Thay đổi cách các cơ quan công cộng và tổ chức tư nhân làm việc. Để đưa ra
quyết định tốt hơn, ngày càng nhiều các tổ chức chống đói nghèo trên toàn cầu bắt đầu

một cách có hệ thống đánh giá các biện pháp mới, thường là với các thí nghiệm thực
địa.
Ứng dụng trong thiết kế chính sách


Ba nhà khoa học đoạt giải Nobel năm nay đã tập trung phát triển phương pháp kinh
tế học thí nghiệm giúp đưa ra các giải pháp thực tiễn nhằm xóa nghèo đói, hỗ trợ giáo
dục, cải thiện sức khỏe, tín dụng vi mô... của người dân ở những nước thuộc thế giới thứ
ba.
Công việc của các nhà khoa học trên đã góp phần rất lớn vào quá trình phân tích và
thiết kế chính sách.
Có những chính sách có tầm ảnh hưởng rất lớn đến hàng triệu người, ví dụ như
chính sách dạy kèm cho hơn 5 triệu trẻ em Ấn Độ, chính sách hỗ trợ tẩy giun không chỉ
cho thấy tẩy giun mang lại lợi ích sức khỏe rõ ràng cho trẻ em đi học mà cả phụ huynh.
Dựa trên kết quả nghiên cứu, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã khuyến cáo phân
phối miễn phí thuốc tẩy cho hơn 800 triệu học sinh sống ở những khu vực mà trong mỗi
năm trẻ em có một trẻ bị nhiễm giun ký sinh.
Đồng thời, các nghiên cứu đánh giá chính sách cũng gián tiếp góp phần cung cấp
bằng chứng để hạn chế đầu tư vào các dự án hoặc các chương trình không hiệu quả.

Phương pháp kinh tế học thí nghiệm đã được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu
đánh giá chính sách ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, việc đánh giá chính sách kinh tế - xã hội dựa trên bằng chứng thí
nghiệm còn chưa được đề cao tại Việt Nam.
Một trong các lý do là các chương trình đánh giá thí nghiệm thường khá tốn kém,
đồng thời quá trình thực hiện cần được thiết kế và giám sát hết sức khắt khe, yêu cầu có
đội ngũ làm khoa học giỏi chuyên môn và sự hợp tác của nhiều cơ quan hành chính,
chính quyền, dẫn đến những trở ngại lớn.
Hiện tại, một số chương trình giảng dạy tiên tiến, bao gồm chương trình thạc sĩ
chính sách công tại Trường Chính sách công và quản lý Fulbright tại Đại học Fulbright

Việt Nam, đã bắt đầu giảng dạy môn học này trong chương trình thạc sĩ phân tích chính
sách.


3.3 Liên hệ với Việt Nam
Vậy với phương pháp nghiên cứu thực nghiệm và những kết quả mà phương
pháp này đã mang lại, các nước có thu nhập trung bình thấp nên áp dụng chúng như
thế nào vào thực tế giảm nghèo tại quốc gia mình?
Nobel Kinh tế 2019 và câu chuyện đánh giá chính sách phát triển ở Việt Nam
- Đối với các nhà nghiên cứu ở Việt Nam nói riêng hay các nước thu nhập thấp
và trung bình nói chung thì việc áp dụng phương pháp thực nghiệm ngẫu nhiên quả
thực vẫn còn xa vời nếu nhà nước không hỗ trợ kinh phí nghiên cứu và cơ chế cho nhà
nghiên cứu tham gia vào thiết kế chính sách. Tuy nhiên, các nước đang phát triển vẫn
có thể áp dụng các kết quả trong chuỗi các nghiên cứu của ba nhà khoa học để đánh
giá, áp dụng vào công tác giảm nghèo cho phù hợp với hoàn cảnh của quốc gia mình.
- Là phương pháp tương đối mới và cần nguồn lực nhất định để thực hiện, tuy
nhiên thực nghiệm ngẫu nhiên không phải là phương pháp xa lạ tại Việt Nam. Trong
các năm qua, các nhà nghiên cứu tại các trung tâm nghiên cứu tại trường Đại học Kinh
tế TP. HCM, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Viện Nghiên cứu Phát triển
Mê-kông và các trường đại học khác đã ứng dụng thực hiện phương pháp này để đánh
giá các can thiệp chính sách khác nhau, chẳng hạn can thiệp giáo dục dinh dưỡng giảm
béo phì trong học sinh tiểu học hoặc tác động của chính sách truyền thông giảm sử
dụng rác thải nhựa.
- Tư duy điều hành quản lý chính sách và dự án công của nước ta trước đây tập
trung nhiều vào việc xây dựng và vận hành. Tư duy này cần cân bằng hơn, dịch
chuyển theo hướng đánh giá tác động của chính sách nhằm rút ra bài học để sử dụng
hiệu quả vốn đầu tư công.
Lời giải từ Nobel Kinh tế 2019 cho câu hỏi Công trình thủy lợi có làm tăng thu
nhập của nông dân Việt Nam hay không
Ba nhà kinh tế học Abhijit Banerjee, Esther Duflo, từ MIT, và Michael Kremer, từ Đại

học Harvard, là những người tiên phong sử dụng phương pháp thực nghiệm ngẫu
nhiên (randomization) để vượt qua các khuyết điểm của phương pháp phân tích hồi
quy truyền thống, góp phần giải quyết một trong những vấn đề lớn nhất của nhân loại
– nghèo đói, mục tiêu số một trong 17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp
Quốc.


Câu hỏi căn bản mà ba nhà thực nghiệm ngẫu nhiên (randomitas) này cố gắng trả
lời trong 20 năm qua là các chương trình đầu tư phát triển trên thế giới có đạt được
mục tiêu đề ra? Các can thiệp chính sách nào hoạt động hiệu quả để đạt được mục tiêu
giảm nghèo?
Phương pháp thực nghiệm ngẫu nhiên không phân tích số liệu sẵn có sau can thiệp
chính sách. Phương pháp này chủ động thiết kế các can thiệp để tạo ra dữ liệu phân
tích. Về căn bản, nhà nghiên cứu sẽ thiết kế, chia đối tượng đánh giá một cách ngẫu
nhiên vào hai nhóm kiểm soát và can thiệp. Vì phân chia ngẫu nhiên, và nếu áp dụng
cho số lượng nhiều, các đặc điểm của đối tượng đánh giá trong hai nhóm này và bối
cảnh áp dụng là tương đồng. Do đó khi có can thiệp chính sách, chênh lệch kết quả
giữa hai nhóm sẽ đến từ biện pháp can thiệp, vì mọi yếu tố khác là giống nhau.
Chẳng hạn muốn đánh giá chính sách hỗ trợ tín dụng cho người nghèo có thực sự
giúp thoát nghèo, nhà nghiên cứu sẽ phân chia một cách ngẫu nhiên người nghèo vào
hai nhóm có và không có hỗ trợ tín dụng. Vì phân chia ngẫu nhiên nên các yếu tố như
trình độ học vấn, kinh nghiệm, tài sản, điều kiện đất đai v.v. của người nghèo trong hai
nhóm là như nhau. Sau một thời gian, nhà nghiên cứu sẽ đo lường thu nhập của hai
nhóm. Nếu nhóm được hỗ trợ tín dụng có thu nhập cao hơn nhóm không được hỗ trợ
tín dụng, có thể kết luận chính sách hỗ trợ tín dụng hoạt động có hiệu quả, và làm tăng
thu nhập ở mức độ x đồng, đo lường được từ so sánh kết quả thu nhập giữa hai nhóm.
Trong áp dụng phương pháp thực nghiệm ngẫu nhiên này, có hai điểm quan trọng nhất
quyết định thành công của nghiên cứu: khả năng dàn xếp để tiến hành thực nghiệm
ngẫu nhiên và kỹ thuật thiết kế thí nghiệm cho phép so sánh được kết quả của các đối
tượng tham gia một cách chính xác nhất.

Giáo sư Kremer là người tiên phong áp dụng phương pháp thực nghiệm ngẫu nhiên
trong kinh tế phát triển. Một trong những nghiên cứu đầu tiên gây chấn động giới làm
chính sách của ông vào những năm 1990 là ông chỉ ra các chương trình cung cấp thêm
sách giáo khoa ở Kenya hoàn toàn không làm cải thiện kết quả học tập của học sinh.
Nói cách khác, số tiền đầu tư cho chương trình này đã bị lãng phí.


Năm 2003, vợ chồng giáo sư Banerjee và Duflo đã lập ra mạng lưới nghiên cứu đói
nghèo toàn cầu, có tên là Phòng thí nghiệm hành động đói nghèo J-PAL (Abdul Latif
Jameel Poverty Action Lab). J-PAL cổ xúy việc áp dụng phương pháp thực nghiệm
ngẫu nhiên, phối hợp với các cơ quan chính phủ và phi chính phủ quốc tế để đánh giá
tác động của các can thiệp chính sách xóa đói giảm nghèo tại các quốc gia đang phát
triển. Đến nay phòng thí nghiệm này đã thực hiện được gần 1000 thực nghiệm ngẫu
nhiên đánh giá tác động của can thiệp của chính sách phát triển tại 83 quốc gia trên thế
giới.
Thực hiện phương pháp thực nghiệm ngẫu nhiên để đánh giá tác động can thiệp của
chính sách không dành cho các trung tâm nghiên cứu nhỏ. Tại sao Duflo thành công
với J-PAL? Tại vì J-PAL đặt tại MIT, cơ sở giáo dục đại học hàng đầu thế giới. MIT/JPAL có sức mạnh, cả về danh tiếng và tài chính, để làm việc với các nhà làm chính
sách ở các nước để trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng và đánh giá chính sách
thông qua phương pháp thực nghiệm ngẫu nhiên.
Tại Việt Nam, J-PAL có một dự án sử dụng phương pháp thực nghiệm ngẫu nhiên
phân tích tác động của việc công ty tham gia vào quá trình xây dựng quy định môi
trường đến việc tuân thủ luật môi trường của chính các công ty đó trong khoảng thời
gian 2014-2016. Kết quả cho thấy sự tham gia xây dựng luật giúp công ty tăng khả
năng tuân thủ luật môi trường 5.5%.
Là phương pháp tương đối mới và cần nguồn lực nhất định để thực hiện, tuy nhiên
thực nghiệm ngẫu nhiên không phải là phương pháp xa lạ tại Việt Nam. Trong các năm
qua, các nhà nghiên cứu tại các trung tâm nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế TP.
HCM, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Viện Nghiên cứu Phát triển Me kông
và các trường đại học khác đã ứng dụng thực hiện phương pháp này để đánh giá các

can thiệp chính sách khác nhau, chẳng hạn can thiệp giáo dục dinh dưỡng giảm béo
phì trong học sinh tiểu học hoặc tác động của chính sách truyền thông giảm sử dụng
rác thải nhựa.
Tư duy điều hành quản lý chính sách và dự án công của chúng ta trước đây tập trung
nhiều vào việc xây dựng và vận hành. Tư duy này cần cân bằng hơn, dịch chuyển theo


hướng bao gồm việc đánh giá tác động của chính sách nhằm rút ra bài học để sử dụng
hiệu quả vốn đầu tư công. Hiệu quả phân tích, đánh giá chính sách phát triển của
phương pháp thực nghiệm ngẫu nhiên đã được đóng dấu xác nhận chất lượng bằng giải
Nobel Kinh tế năm 2019. Các nhà nghiên cứu trong nước đã chứng tỏ được khả năng
ứng dụng phương pháp này. Đây là thời điểm vàng để nhà quản lý và nhà nghiên cứu
phối hợp tìm ra lời giải tốt nhất cho các chính sách phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.

Tính hiệu quả trong các chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam có thể đo đếm
được bằng phương pháp thực nghiệm ngẫu nhiên, phương pháp ba nhà kinh tế học
đoạt giải Nobel Kinh tế 2019 tiên phong áp dụng.

IV. Kết luận
Ba nhà kinh tế học Abhijit Banerjee, Esther Duflo và Michael Kremer là những
người tiên phong sử dụng phương pháp thực nghiệm ngẫu nhiên, góp phần giải quyết
một trong những vấn đề lớn nhất của nhân loại-nghèo đói, mục tiêu số 1 trong 17 mục
tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc.
Những nhà nghiên cứu đoạt giải năm nay đã đóng vai trò quyết định trong tái
định hình nghiên cứu trong kinh tế học phát triển. Hiệu quả phân tích, đánh giá chính
sách phát triển của phương pháp thực nghiệm ngẫu nhiên đã được đóng dấu xác nhận
chất lượng bằng giải Nobel Kinh tế năm 2019 và các nhà nghiên cứu trong nước đã
chứng tỏ được khả năng ứng dụng phương pháp này. Đây là thời điểm vàng để nhà
quản lý và nhà nghiên cứu phối hợp tìm ra lời giải tốt nhất cho các chính sách phát

triển kinh tế xã hội của đất nước.



×