Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Kiểm sát việc thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn viện kiểm sát nhân dân tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

KIỂM SÁT VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

MAI THỊ BÍCH HUYÊN

HÀ NỘI – 2019

i


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
KIỂM SÁT VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
MAI THỊ BÍCH HUYÊN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS TRẦN ANH TUẤN



HÀ NỘI – 2019

ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Kiểm sát việc thực hiện pháp
luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại từ thực tiễn Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Nam Định” là công trình nghiên cứu của riêng tác giả dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Anh Tuấn. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong
Luận văn là hoàn toàn trung thực, không trùng lặp với các đề tài nghiên cứu khác
trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong Luận văn đã được ghi rõ
nguồn gốc.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Mai Thị Bích Huyên

iii



LỜI CẢM ƠN

Tác giả luận văn xin được gửi lời cảm ơn và tri ân sâu sắc nhất đến PGS.TS
Trần Anh Tuấn đã luôn tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình
nghiên cứu.
Tác giả cũng xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy, cô - Khoa Sau đại
học, Trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tác giả được học
tập và hoàn thành được bài luận văn của mình.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên bài
Luận văn không tránh khỏi những hạn chế và khuyết điểm, rất mong nhận được sự
thông cảm và những ý kiến đóng góp của các thầy, cô và các anh chị học viên ./.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Mai Thị Bích Huyên

iv


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………1
Chương 1 .....................................................................................................................9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải

quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ...................................................................9
1.1.1. Khái niệm kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại ......................................................................................................9
1.1.2. Đặc điểm của kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại ............................................................................................11
Nét đặc trưng trong tổ chức và hoạt động của VKSND so với các cơ quan khác ....12
1.1.3. Ý nghĩa của kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại ............................................................................................15
1.2. Cơ sở của việc xây dựng các quy định về kiểm sát việc thực hiện pháp luật
trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ................................................15
1.2.1.Về cơ sở lý luận ................................................................................................16
1.2.2.Về cơ sở thực tiễn .............................................................................................20
2.1. Quy định về kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại trong thủ tục sơ thẩm .................................................................24
2.1.1. Quy định về kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện giải quyết vụ án kinh doanh,
thương mại ................................................................................................................24
2.1.2. Quy định về kiểm sát việc thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại ....................26
2.1.3. Quy định về kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án ...............................28
2.1.4. Quy định về Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp sơ thẩm ................33
2.2. Quy định về kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại trong thủ tục phúc thẩm .............................................................36
2.2.1. Quy định về kháng nghị bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật........36
2.2.2. Quy định về kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm.37

v


2.2.3. Quy định về việc nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử phúc thẩm ...................................................................................................38
2.2.4. Quy định về kiểm sát việc thực hiện pháp luật của Viện kiểm sát trong phiên

tòa phúc thẩm vụ án kinh doanh, thương mại ...........................................................39
2.3. Quy định về sự tham gia của VKSND trong thủ tục xét lại bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật.............................................................................................40
2.3.1. Kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật ...............................40
2.3.2. Kiểm sát thụ lý vụ án ở trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm ..............................44
2.3.3. Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm ..........................44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..........................................................................................46
Chương 2 ...................................................................................................................48
THỰC TIỄN KIỂM SÁT VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TỈNH NAM ĐỊNH
VÀ GIẢI PHÁP ........................................................................................................48
2.1 Thực tiễn kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại trên địa bàn tỉnh Nam Định........................................................48
2.1.1 Khái quát về đặc điểm, tình hình công tác kiểm sát giải quyết án kinh doanh,
thương mại trên địa bàn tỉnh Nam Định ...................................................................48
2.1.2. Thực trạng kiểm sát việc thụ lý án kinh doanh, thương mại của các Tòa án
trên địa bàn tỉnh Nam Định ......................................................................................52
2.1.3. Thực tiễn thực hiện việc kiểm sát các bản án, quyết định về kinh doanh,
thương mại ................................................................................................................56
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kiểm sát việc thực
hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn tỉnh
Nam Định ..................................................................................................................74
2.3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ................................................................74
2.3.2. Về kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại .........................................................81
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..........................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………..……87

vi



vii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

CNSTT

Công nhận sự thỏa thuận

GĐT

Giám đốc thẩm

KDTM

Kinh doanh thương mại

KDTM-ST

Kinh doanh thương mại sơ thẩm


KSV

Kiểm sát viên

PLTTGQCVADS Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án về
kinh doanh, thương mại
TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

Tố tụng kinh doanh, thương mại

TTLT

Thông tư liên tịch

TT

Tái thẩm

VKS

Viện kiểm sát


VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân Tối cao

viii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi hệ thống pháp luật
Việt Nam phải có sự tương thích với pháp luật của các hệ thống cơ bản trên thế
giới. Đối với các nước phương tây, Viện Công tố không tham gia kiểm sát việc thực
hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, trong khi đó đối
với một số nước như Nga, Trung Quốc thì Viện kiểm sát giữ vai trò quan trọng trong
kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại. Do vậy, có một số ý kiến cho rằng ở Việt Nam, trong lĩnh giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại không cần có kiểm sát việc thực hiện pháp luật của Viện
kiểm sát bởi lẽ lĩnh vực kinh doanh, thương mại cốt ở đôi bên, họ có quyền tự thỏa
thuận, định đoạt theo ý chí của mình, chỉ cần Tòa án giữ vai trò trọng tài để giải quyết
các tranh chấp trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên hoặc dựa vào chứng cứ. Viện kiểm
sát kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại là vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự. Nếu quy định cho Viện kiểm sát
tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm chỉ để nhận định về việc Tòa án chấp hành
đúng hay chưa đúng thủ tục tố tụng thì không có ý nghĩa. Trong khi đó, đương sự là
doanh nghiệp có đầy đủ quyền được yêu cầu luật sư, trợ giúp pháp lý, thay đổi người
tiến hành tố tụng, kháng cáo, khiếu nại với bản án, quyết định… nên không cần sự

giám sát, hỗ trợ của Viện kiểm sát.
Sau một thời gian áp dụng, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã bộc lộ những
hạn chế, bất cập, chưa có cơ chế thích hợp để VKS thực hiện được đầy đủ, hiệu quả
chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân. Trong khi các tranh chấp tranh chấp kinh doanh, thương mại phát
sinh ngày càng nhiều với tính chất ngày càng phức tạp thì vấn đề bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên đương sự, bảo đảm việc giải quyết các tranh chấp kinh

1


doanh, thương mại được khách quan, kịp thời và đúng pháp luật trở thành yêu cầu
quan trọng cần được giải quyết trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp.
Trong công cuộc đẩy mạnh xây dựng đất nước trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế, để khắc phục những hạn chế, bất cập của Bộ luật tố tụng dân sự trước đây Bộ
luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011, đặc biệt là BLTTDS 2015 vừa được
quốc hội thông qua có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 đã mở rộng phạm vi hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Tạo cơ chế
thuận lợi để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ
được phân công.
Trong những năm gần đây, nhất là năm 2018 vừa qua, tình hình thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nam Định tiếp tục ổn định và phát
triển. Các lĩnh vực xây dựng, thủy sản, công nghiệp, xuất khẩu, thu hút đầu tư...
đều có mức tăng trưởng cao hơn so với bình quân chung của cả nước. Thu hút đầu
tư của tỉnh Nam Định năm 2018 đạt kết quả khá, đã cấp giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư mới và điều chỉnh tăng vốn cho 98 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn
đăng ký là 2.121,2 tỷ đồng và 25 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký là 192,8 triệu
USD (Trong đó dự án Nhà máy nhiệt điện BOT Nam Định 1 là 2.072,2 triệu
USD). Tổng thu ngân sách trên địa bản đạt 4.171 tỷ đồng, đạt 106,9% dự toán,
tăng 15,8% so với năm 2017. Đảm bảo đầy đủ các khoản chi lương, chi cho các

đối tượng chính sách, chi an sinh xã hội. Tổng nguồn vốn huy động của các tổ
chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đạt 48.253 tỷ đồng, tăng 23,9% so với đầu năm;
tổng dư nợ cho vay đạt 47.543 tỷ đồng, tăng 20,2% so với đầu năm. Đã cấp giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho 802 doanh nghiệp và 104 chi nhánh, văn
phòng đại diện với tổng số vốn đăng ký 6.859 tỷ đồng.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, số lượng các vụ
tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn tỉnh Nam Định cũng đang có sự gia
tăng và ngày càng có những vụ án phức tạp. Thực tiễn giải quyết loại tranh chấp
này trên địa bàn tỉnh Nam Định còn tồn tại một số hạn chế, bất cập dẫn đến việc

2


giải quyết chưa dứt điểm, dẫn đến kéo dài gây tổn hại lợi ích kinh tế cho các bên
đương sự cũng như ảnh hưởng đến tâm lý của cộng đồng kinh doanh nói chung nên
rất cần có sự nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân về vấn đề này, đề xuất các giải pháp
khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
của tòa án theo tinh thần cải cách tư pháp.
Trước yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân phải thực hiện có hiệu quả chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp mà Đảng và Nhà nước giao cho trong thời kỳ hội
nhập kinh tế, quốc tế thì việc nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật về
kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại nhằm làm rõ hơn những thuận lợi cũng như hạn chế và bất cập trong thực tiễn
thực hiện để từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị để khắc phục là rất cần thiết, có
ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Với những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Kiểm sát việc thực hiện pháp
luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại từ thực tiễn Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Nam Định” để thực hiện Luận văn Thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước tinh thần cải cách tư pháp trong thời kỳ hội nhập, đề tài về vai trò,

chức năng cũng như kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại đã thu hút sự quan tâm bàn luận của các học giả, chuyên
gia pháp lý, những người hoạt động thực tiễn. Cụ thể như sau:
Nhóm các bài viết liên quan đến sự tham gia của Viện kiểm sát về giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại:
- Về việc tham gia phiên tòa dân sự của Viện kiểm sát nhân dân, của tác giả
Trần Văn Trung đăng trên tạp chí Luật học số 8 năm 2005.
- Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo yêu cầu
cải cách tư pháp, của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh đăng trên Tạp chí Kiểm sát số
14,16 năm 2008,

3


- Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự và thực tiễn, của tác
giả Trần Xuân Hách đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 19 năm 2012;
- Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ,
việc dân sự, của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hòa Bình đăng trên tạp chí Kiểm sát
số 7 năm 2016.
Nhóm các Luận văn nghiên cứu về đề tài này: “Vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Phương Thúy, Luận văn Thạc
sỹ Luật học, trường Đại học Đại học Luật Hà Nội, năm 1996;
- Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt
Nam, của tác giả Võ Thị Phượng (Luận văn Thạc sĩ Luật học, trường Đại Học Luật
Hà Nội, năm 2011);
- Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự và thực tiễn
thực hiện tại thành phố Hải Phòng, tác giả Bùi Thị Phượng, Luận văn thạc sĩ Luật
học, trường Đại Học Luật Hà Nội, năm 2015;
- Hoàn thiện quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại của Tòa án, tác giả Nguyễn Duy Phương, tạp chí nghiên cứu lập pháp,

số 1/2015.
Các công trình nghiên cứu trên, đã phân tích, luận giải tương đối chi tiết các
quy định về kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên
sâu về các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015) về sự
tham gia Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Nam Định. Vì vậy, đề tài luận văn được thực hiện trên
cơ sở tham khảo và phát triển một số kết quả của các bài viết, công trình nghiên cứu
nêu trên đồng thời gắn với nghiên cứu thực tiễn kiểm sát án kinh doanh, thương mại
tại tỉnh Nam Định.

4


3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của Luận Văn
* Đối tượng nghiên cứu của Luận văn
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, trong đó chủ
yếu là quy định trong các Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 (sửa đổi năm
2011) và BLTTDS năm 2015 về kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại và thực tiễn về sự tham gia tố tụng của Viện
kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Nam Định.
* Phạm vi nghiên cứu của Luận Văn
Để đảm bảo sự phù hợp giữa các chương trong tổng thể luận văn, tác giả sẽ
tập trung phân tích các quy định về sự tham gia kiểm sát giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại của Viện kiểm sát nhân dân Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS)
năm 2004 (sửa đổi năm 2011) và BLTTDS năm 2015 nói chung và Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật từ thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại nói
riêng.
Tuy nhiên, để luận văn có tính chất chuyên sâu tác giả sẽ không phân tích tất
các các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm sát việc thực hiện pháp luật của

Viện kiểm sát mà chỉ tập trung tập trung phân tích những quy định về kiểm sát việc
thực hiện pháp luật của Viện kiểm sát trong các hoạt động tố tụng dân sự nói chung
và việc giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại nói riêng bắt đầu từ khi
nhận đơn khởi kiện giải quyết vụ án, cho đến khi bản án, quyết định được đưa ra thi
hành. Vấn đề kiểm sát thi hành án kinh doanh, thương mại sẽ được tác giả nghiên
cứu trong các công trình khác khi có điều kiện để thực hiện. Bên cạnh đó, tác giả
cũng nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về kiểm sát việc thực hiện pháp luật
trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại nhằm tạo cơ sở cho việc đánh
giá luật thực định và đề ra một số đề xuất, kiến nghị.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ được giới hạn trong phạm vi sau đây:

5


- Nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa kiểm sát việc thực hiện pháp
luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
- Nghiên cứu các quy định của các Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam về kiểm sát
việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
- Nghiên cứu thực tiễn tham gia của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định.
4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
*Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về kiểm sát
việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, các
quy định trong các Bộ luật tố tụng dân sự về vấn đề này, thực tiễn thực hiện pháp
luật tại các Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Nam Định và đề xuất giải pháp
hoàn thiện các quy định của pháp luật nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài nghiên cứu cần thực hiện các nhiệm vụ cơ

bản sau:
- Làm rõ một số vấn đề lí luận và pháp luật về tranh chấp kinh doanh thương
mại và việc kiểm sát việc thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại tại Tòa án.
- Từ các vụ, việc thực tế tại tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, phân tích làm rõ
quá trình kiểm sát việc thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại.
- Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong
giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại.

6


5. Về phương pháp nghiên cứu trong Luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật. Những quan
điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng, đổi mới và phát
triển đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cải
cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, để thực hiện Luận văn
tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp nghiên cứu lịch sử,
phương pháp so sánh luật học, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, tổng
hơp.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của Luận văn
Về mặt khoa học: Luận văn đã phân tích một cách toàn diện và sâu sắc các
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi năm 2011) và
BLTTDS năm 2015 về kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp
dân sự nói chung hay là việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết
các vụ, việc tranh chấp kinh doanh thương mại nói riêng. Trên cơ sở nghiên cứu
Luận văn đã chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và đưa ra một
số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả sự tham gia tố tụng của Viện

kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng, trong phạm vi cả nước nói
chung.
Về mặt thực tiễn: Những đề xuất, kiến nghị nêu trong Luận văn sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về kiểm sát
việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa
bàn tỉnh Nam Định nói riêng và cả nước nói chung. Kết quả nghiên cứu luận văn
còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập và nghiên
cứu.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu bởi 2 chương:

7


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Chương 2: Một số vấn đề chung về kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT VIỆC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1. Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kiểm sát việc thực hiện pháp luật
trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
1.1.1. Khái niệm kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại
Viện kiểm sát (VKS) hay Viện công tố dù có tên gọi khác nhau nhưng hầu
hết đều có trong bộ máy nhà nước của tất cả các nước. Tuy cùng mục đích là bảo vệ
pháp chế, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân, nhưng việc quy định vị trí, vai trò của cơ quan này ở mỗi quốc gia lại
khác nhau tùy thuộc vào truyền thống văn hóa, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế,
xã hội, quan điểm về tổ chức quyền lực nhà nước của mỗi nước. Tại các Quốc gia
như Anh, Mỹ, Phần Lan, Nhật Bản, Viện công tố với chức năng công tố được đặt
trong hệ thống hành pháp thuộc Chính Phủ. Một số quốc gia Viện công tố được đặt
trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Các nước như Liên Bang Nga, Hungari, Bồ
Đào Nha là Viện công tố, và tại Việt Nam là Viện kiểm sát là cơ quan độc lập do
Quốc Hội thành lập và chịu sự giám sát của Quốc Hội.
Tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) ở Việt Nam là Công tố viện
nằm trong hệ thống Tòa án thuộc cơ quan Tư pháp vào những năm 1945 -1958, đến
năm 1960 thì tách ra thành cơ quan độc lập với tên gọi là VKS. Hiến pháp các năm
1959, 1980, 1992, 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân các năm 1960,
1989, 1992, 2002, 2014 đều khẳng định VKSND là một hệ thống cơ quan có vị trí
độc lập trong bộ máy nhà nước, là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành nên bộ

9


máy nhà nước. Với vị trí quan trọng như vậy, vai trò của VKS ngày càng được củng
cố và hoàn thiện. VKSND có vai trò trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, các quyền công dân, bảo vệ an ninh, chính trị,
trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Hiến pháp năm 2013, và được cụ thể hóa,

chi tiết tại khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì “Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, ở nước ta VKS có
hai chức năng cơ bản là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Xuất phát từ chức năng chung của ngành, VKSND tham gia vào quá trình
giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại của Tòa án nhân dân (TAND), nhằm
kiểm sát việc tuân theo pháp luật (KSVTTPL) trong toàn bộ quá trình tố tụng, bảo
đảm tính pháp chế trong các phán quyết của Tòa án, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Sự tham gia của VKSND vào quan hệ pháp luật tố
tụng kinh doanh, thương mại là tất yếu và khách quan, nhằm đáp ứng hai yêu cầu cơ
bản đó là: “Bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ quá trình tố tụng
và thể hiện sự can thiệp của nhà nước vào quá trình tố tụng kinh doanh, thương
mại”1
Dựa trên nguyên tắc và tổ chức hoạt động của nhà nước ta, TAND và VKSND
được tổ chức thành hai hệ thống cơ quan có chức năng riêng biệt, độc lập với nhau và
đều chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc Hội. Tòa án
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm
pháp luật được thực thi trên thực tế. Tuy nhiên, để Tòa án có thể đảm đương tốt chức
năng nhiệm vụ của mình, giải quyết các vụ án một cách khách quan, công tâm, đảm
bảo sự tuân thủ pháp luật thì cần phải có sự giám sát nhất định từ phía VKS. Với
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, VKSND tham gia vào quá trình giải
1

Nguyễn Phương Thúy (1996), Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng kinh doanh, thương mại,
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại Học Luật Hà Nội, Hà Nội.

10


quyết các vụ án kinh doanh, thương mại nhằm tạo ra sự kiềm chế, giám sát đối với cơ

quan Tòa án, bảo đảm cho quá trình tố tụng kinh doanh, thương mại (TTDS) được
diễn ra theo đúng các quy định của pháp luật, các quyền và nghĩa vụ tố tụng của
đương sự được tôn trọng.
Trước đây, VKSND có quyền, yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời, kiểm sát việc lập hồ sơ của Tòa án. Theo Luật tổ chức VKSND năm
2002 thì VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng, đại diện VKS là người tiến hành tố
tụng. Tuy nhiên, nhiệm vụ của VKS trong TTDS chủ yếu là thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án kinh doanh,
thương mại tại Tòa án, nhằm đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hoạt
động xét xử của Tòa án. Khi tham gia vào quá trình giải quyết các vụ án kinh
doanh, thương mại VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
trong TTDS. Như vậy, về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại VKSND
chỉ có chức năng duy nhất là KSVTTPL.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra một định nghĩa khái quát về sự tham
gia TTDS của VKSND như sau: “VKSND tham gia TTDS với tư cách là cơ quan
tiến hành tố tụng có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho
pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết vụ án
kinh doanh, thương mại tại Tòa án”2.
Như vậy, sự tham gia của VKSND vào TTDS góp phần giúp Tòa giải quyết
đúng đắn vụ, tranh chấp kinh doanh, thương mại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Đó cũng chính là bảo đảm pháp chế XHCN được tôn
trọng trong toàn bộ quá trình tố tụng của Toà án.
1.1.2. Đặc điểm của kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại
Bùi Thị Phượng (2015), Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng kinh doanh, thương mại và
thực tiễn thực hiện tại thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sĩ luật học, trường ĐH Luật Hà Nội, tr 8, Hà
Nội.
2


11


Nét đặc trưng trong tổ chức và hoạt động của VKSND so với các cơ quan khác
trong bộ máy nhà nước là nguyên tắc tập trung thống nhất theo ngành dọc, nguyên
tắc này trao cho VKSND quyền hoạt động độc lập, không phải chịu sự chi phối của
chính quyền địa phương cũng như các cơ quan hành chính Nhà nước khác khi thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, Viện kiểm sát là cơ quan
tiến hành tố tụng, thực hiện KSVTTPL trong TTDS. Ngoài những đặc điểm chung
về chức năng của VKSND trong bộ máy nhà nước, trong lĩnh vực tố tụng kinh
doanh, thương mại VKSND có những đặc điểm mang tính đặc thù như sau:
- Thứ nhất, VKSND là cơ quan duy nhất có quyền kiểm sát việc tuân thủ
pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Theo Hiến pháp và pháp luật, VKSND là cơ quan có chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, thực hiện quyền lực nhà nước,
trực tiếp tham gia giám sát các hoạt động tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN,
bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm trật tự xã hội. Là cơ
quan duy nhất được nhà nước trao quyền kiểm sát hoạt động của Tòa án trong quá
trình giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại. Quyền năng này của VKSND
được ghi nhận trong các Hiến pháp, BLTTDS, Luật Tổ chức VKSND. Khi thực
hiện chức năng KSVTTPL trong hoạt động giải quyết vụ án kinh doanh, thương
mại của Tòa án nhân dân, VKSND có được trao cho các nhiệm vụ, quyền hạn cần
thiết để có thể kiểm sát toàn bộ các hoạt động tố tụng của Tòa án, trong đó có kiểm
sát việc ban hành các văn bản tố tụng, bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng của đương sự theo đúng quy định của pháp luật. Hoạt động tố tụng của VKS
vừa thể hiện sự kiểm sát vừa là hỗ trợ Tòa án trong việc tuân thủ pháp luật. Quan hệ
giữa VKS và Tòa án mang tính chất kiềm chế, đối trọng chứ không mang tính
quyền uy, phục tùng như trong quan hệ giữa Tòa án và các chủ thể tham gia tố tụng
khác.


12


- Thứ hai, sự tham gia của VKSND trong các hoạt động TTDS phải tuân theo
trình tự, thủ tục do luật định.
Sự tham gia của VKSND trong TTDS nhằm mục đích bảo đảm hoạt động
của Tòa án, đương sự và những người tham gia tố tụng khác phải tuân thủ theo
đúng quy định của pháp luật. Là hoạt động bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa
nên sự tham gia tố tụng của VKS cũng phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp
luật. Đặc điểm này đã thể hiện nội dung của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa một nguyên tắc hiến định đòi hỏi tinh thần thượng tôn pháp luật và mọi chủ thể phải
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Do vậy, sự tham gia của VKSND trong TTDS
phải được pháp luật quy định một cách cụ thể, rõ ràng và các quy định của pháp luật
phải được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, thống nhất. Trong trường hợp phát hiện
có sự vi phạm pháp luật, VKS phải sử dụng các quyền hạn được quy định và tuân
theo các quy trình, thủ tục đã được quy định để khắc phục những vi phạm đó. Viện
Kiểm sát không thể làm thay công việc xét xử của Tòa án mà chỉ kiểm sát và định
hướng hoạt động này theo đúng quy định của pháp luật.
- Thứ ba, VKSND thực hiện sự tham gia TTDS của mình thông qua hoạt
động của Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên và kiểm tra viên.
Như đã trình bày thì nội dung sự tham gia của VKSND trong TTDS được
hiểu là quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTDS. Tuy
nhiên, VKSND không thể trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn pháp luật
giao cho mà nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTDS được thực hiện thông
qua hoạt động của các chức danh pháp lý cụ thể, đó là Viện trưởng, Kiểm sát viên
(KSV) và Kiểm tra viên VKSND các cấp.
Là người chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND về kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng nên khi tham gia TTDS, Viện
trưởng VKS có các nhiệm vụ, quyền hạn sau: Tổ chức, chỉ đạo thực hiện công tác
KSVTTPL trong các hoạt động TTDS như quyết định phân công Kiểm sát viên

kiểm sát việc tuân theo pháp luật và tham gia phiên tòa xét xử vụ án về kinh doanh,

13


thương mại, phiên họp giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại…Nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện trưởng VKSND được quy định tại các Điều 44, 51, 285, 307,
395, khoản 2 Điều 44 BLTTDS năm 2004 và BLTTDS sửa đổi năm 2011, nay được
quy định tại các điều 57, 62, 278, 331, 354, khoản 2 Điều 504 và một số điều luật
khác trong BLTTDS 2015. Ngoài ra, để bảo đảm thực hiện được nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện trưởng VKS, khoản 2 Điều 57 BLTTDS năm 2015 quy định khi Viện
trưởng vắng mặt thì một Phó viện trưởng được Viện trưởng ủy nhiệm thực hiện
nhiệm vụ quyền hạn của Viện trưởng.
Là người tiến hành tố tụng, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ KSVTPL đối với
hoạt động tố tụng, khi tham gia vào các hoạt động TTDS Kiểm sát viên có những
nhiệm vụ, quyền hạn sau: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc
giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại như kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ án,
các quyết định tố tụng, bản án, quyết định giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại,
tham gia phiên tòa xét xử vụ án về kinh doanh, thương mại, phiên họp giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại, phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ
án kinh doanh, thương mại…Hoạt động của KSV góp phần bảo đảm việc giải quyết
đúng đắn, khách quan các vụ án kinh doanh, thương mại. Để phát huy được vai trò
của KSV về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, các nhiệm vụ, quyền hạn
của KSV đã được quy định khá đầy đủ tại các Điều 45, 207, 234, 271 BLTTDS năm
2004 và BLTTDS sửa đổi năm 2011, nay được quy định tại các điều 58, 232, 262
và một số điều luật khác trong BLTTDS năm 2015.
BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định về chức danh Kiểm tra viên và ghi
nhận cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể này tại điểm b, khoản 1 Điều 46
BLTTDS năm 2015. Khi được phân công, Kiểm tra viên có nhiệm vụ nghiên cứu
hồ sơ vụ án, báo cáo kết quả với KSV, lập hồ sơ kiểm sát vụ án kinh doanh, thương

mại theo sự phân công của Viện trưởng hoặc KSV, giúp KSV kiểm sát việc tuân
theo pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại (Điều 59 BLTTDS năm
2015).

14


1.1.3. Ý nghĩa của kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại
- Sự tham gia của VKSND trong TTDS có ý nghĩa bảo đảm tính thượng tôn pháp
luật. Thông qua việc thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định
của pháp luật, VKSND đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ, bảo đảm cho tiến trình tố
tụng được tiến hành một cách nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, bảo đảm các quyền
con người, quyền công dân được tôn trọng và thực hiện trên thực tế.
- Sự tham gia của VKSND trong TTDS nhằm phát hiện, hạn chế những sai
lầm, vi phạm của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại,
đồng thời góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của những người tiến hành tố
tụng khi giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại. Sự tham gia của VKS góp
phần kiểm soát sự lạm quyền của cán bộ Tòa án và các chủ thể khác trong giải
quyết vụ án kinh doanh, thương mại, tạo được niềm tin của người dân vào công lý
và bảo đảm thực hiện các quyền tố tụng của đương sự cũng như quyền, lợi ích hợp
pháp của họ.
Sự tham gia của VKSND về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại còn là
nền tảng để thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử phải độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật. Trong quá trình kiểm sát việc tuân thủ pháp luật về giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại, VKSND có thể giám sát, ngăn chặn hoặc phát hiện
sự vi phạm nguyên tắc này để có những kiến nghị nhằm bảo đảm cho nguyên tắc này
được tôn trọng thực hiện trên thực tế.
VKSND thực hiện chức năng KSVTTPL tạo ra cơ chế để việc giải quyết các
vụ án kinh doanh, thương mại ở Tòa án các cấp được nhanh chóng, khách quan,

toàn diện, đảm bảo tính có căn cứ và đúng pháp luật của các bản án, quyết định, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
1.2. Cơ sở của việc xây dựng các quy định về kiểm sát việc thực hiện pháp luật
trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại

15


1.2.1.Về cơ sở lý luận
Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các cơ
quan Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ta“Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”3. Sự phân công quyền lực nhà
nước là để phân định nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước, tạo điều kiện để các cơ quan nhà nước thực hiện có hiệu quả chức năng,
nhiệm vụ được giao, tránh sự lạm quyền, lộng quyền hay sự tha hóa. Việc phân định
rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan nhà nước nói trên chính là tạo cơ sở
cho kiểm sát quyền lực nhà nước.
Ở nước ta, bất kỳ cơ quan nhà nước nào cũng tồn tại bộ phận thực hiện chức
năng kiểm tra giám sát mà chúng ta thường gọi là cơ chế tự kiểm tra, giám sát từ
bên trong hệ thống. Tuy nhiên, cơ chế tự kiểm tra, giám sát thường luôn tồn tại sự
chủ quan, bao che, dung túng nên thường dẫn đến sự lạm dụng quyền. Vì vậy, rất
cần có một cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài, do một cơ quan chuyên trách
thực hiện để đảm bảo sự khách quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Quá trình giải quyết các vụ, tranh chấp kinh doanh, thương mại của TAND là
một trong những hoạt động tư pháp thực hiện quyền lực nhà nước, hoạt động này
tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Những sai
lầm, vi phạm trong lĩnh vực này sẽ ảnh gây tổn hại đến lợi ích của nhà nước và nhân
dân, giảm niềm tin của nhân dân vào công lý. Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động

giải quyết các vụ, tranh chấp kinh doanh, thương mại nhanh chóng, khách quan, kịp
thời, có hiệu quả và tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật thì hoạt động này
phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ chế giám sát bên trong và cơ chế giám sát từ
bên ngoài. Ở nước ta VKS được Quốc hội phân công thực hiện chức năng

3

Điều 2 Hiến Pháp năm 2013.

16


KSVTTPL trong TTDS. Đây chính là cơ chế giám sát từ bên ngoài hệ thống, thực
hiện giám sát trực tiếp, thường xuyên và mang lại hiệu quả cao.
Thứ hai, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của VKSND do pháp luật quy định.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của VKSND ở nước ta gắn với quá trình xây
dựng và phát triển nhà nước Việt Nam. Từ khi VKSND được thành lập vào năm
1960 đến nay, công tác KSVTTPL trong việc giải quyết các vụ án kinh doanh,
thương mại luôn được xác định là một trong những khâu công tác trọng tâm thực hiện
chức năng của VKS.
Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, mặc dù chức năng của VKS
có sự điều chỉnh: Thực hiện chức năng KSVTTPL và thực hành quyền công tố theo
quy định của Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và các Luật Tổ chức VKSND 1960,
1981, 1992; Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp theo Hiến pháp 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001, Hiến pháp
năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2002, 2014. Song, yêu cầu kiểm sát hoạt
động tư pháp nói chung và trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại nói riêng luôn đặt
ra và được pháp luật ghi nhận. Chức năng KSVTTPL và kiểm sát các hoạt động tư
pháp gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của VKSND.
Việc kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong TTDS chính là cơ chế kiểm soát

quyền lực tư pháp, bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa quyền tự định đoạt của đương sự
và sự can thiệp của Nhà nước để bảo vệ công lý, tránh sự lạm quyền, tiêu cực của Tòa
án trong quá trình giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại. Quyền và nghĩa vụ tố
tụng của đương sự được tôn trọng.
Thứ ba, xuất phát từ đặc điểm chế độ chính trị và nguyên tắc tổ chức thực
hiện quyền lực Nhà nước ở nước ta.
Bộ máy Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, dưới sự lãnh
đạo thống nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, nhân dân thông qua quyền lập hiến trao quyền lực nhà nước của mình cho
Quốc hội. Song, do tính chất của Quốc Hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân

17


×