Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 93 trang )

`

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN Ở VIỆT NAM

LÊ THỊ MAI

HÀ NỘI- 2019


`

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN Ở VIỆT NAM

LÊ THỊ MAI

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ BẢO ÁNH



HÀ NỘI- 2019


`

LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tác giả.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn đảm bảo tính chính xác, có nguồn
gốc rõ ràng, tin cậy và trung thực.
Tác giả đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa sau Đại học – Trường Đại học Mở Hà Nội.
Vậy tác giả viết lời cam đoan này đề nghị Khoa sau Đại học – Trường Đại học Mở
Hà Nội xem xét để tác giả có thể bảo vệ luận văn./.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày …. tháng …..năm 2019.
Tác giả luận văn

Lê Thị Mai


`

LỜI CẢM ƠN
Theo Quyết định 1188/QĐ-ĐHM ngày 10/4/2019 về việc giao đề tài và cử
người hướng dẫn khoa học của Trường Đại học Mở Hà Nội đồng thời nhận được sự
chấp thuận của Cô giáo hướng dẫn Tiến sĩ Trần Thị Bảo Ánh – Giảng viên Trường
Đại học Luật Hà Nội, tác giả đã thực hiện đề tài luận văn thạc sỹ “Pháp luật về
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ở Việt Nam”.
Để hoàn thành được luận văn này, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến

Ban lãnh đạo Trường Đại học Mở Hà Nội, Ban chủ nhiệm Khoa sau Đại học cùng
các thầy, các cô tham gia giảng dạy tại Khoa sau Đại học, là những người đã truyền
thụ kiến thức cho tác giả trong suốt quá trình học tập tại trường.
Tác giả xin bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Cô giáo hướng dẫn
Tiến sĩ Trần Thị Bảo Ánh – Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội, người đã trực
tiếp tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn tới bạn bè, đồng nghiệp và đặc biệt hơn nữa
là sự động viên, khích lệ của gia đình đã giúp tác giả hoàn thành thời gian học tập
tại trường, giúp tác giả thực hiện và hoàn thành tốt luận văn này.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên
luận văn vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của các thầy, các
cô và các bạn học viên./.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày …. tháng …..năm 2019.
Tác giả luận văn

Lê Thị Mai


`

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU …………………………………………………………..…………….....1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM
HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY
TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN………………….8
1.1 Những vấn đề lý luận về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên………………………………………………………………………....................8
1.1.1 Lịch sử về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ………….......8

1.1.2 Khái niệm, đặc điểm công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
……...........................................................................................................................10
1.1.3 Ưu điểm và nhược điểm của loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên……………………………………………………………………........16
1.2 Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ……….18
1.2.1 Khái niệm pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên…………………………………………………………………………………………….18
1.2.2 Nội dung cơ bản của pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên………………………………………………………………………..……..19
Tiểu kết chương 1………………………………………………………….……..32
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT

HIỆN HÀNH VỀ CÔNG TY

TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN Ở VIỆT
NAM……………………………………………………………………….............33
2.1 Quy chế thành lập, đăng ký kinh doanh và chấm dứt hoạt động công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ……………………………………33
2.1.1 Quy chế thành lập, đăng ký kinh doanh công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên ………………………………………………………………………….33
2.1.2 Chấm dứt hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
………………………………………………………………………………………………...44


`

2.2 Tổ chức quản lý nội bộ công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
…………...................................................................................................................51
2.2.1 Cơ cấu quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ………..51
2.2.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của các bộ phận quản lý, các chức danh quản lý…..51

2.3 Quy chế pháp lý về vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên …………….........................................................................................................56
2.3.1 Các quy định pháp luật về tạo lập vốn và quỹ ………………………….…...56
2.3.2 Các quy định pháp luật về việc sử dụng, quản lý vốn ……………… …..…..61
Tiểu kết chương 2……………………………………………………………....…69
Chương 3: YÊU CẦU HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH
NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN Ở VIỆT NAM……….....71
3.1 Sự cần thiết hoàn thiện quy định pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên ………………………………………………...……..........71
3.1.1 Yêu cầu quá trình hội nhập……………..…………………………………………71
3.1.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước……………………………………………….72
3.1.3 Yêu cầu từ thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên …………………….……………………..74
3.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ………………………………..……..…..74
3.2.1 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên ………………………………………………………………………………….74
3.2.2 Các giải pháp cho các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng, thi hành pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên…………………………………………………………………………………………….77
Tiểu kết chương 3 ………………………………………….………………...…...81
KẾT LUẬN ………………………………………………………...….………….82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………...84


`

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CT TNHH

Công ty trách nhiệm hữu hạn

LDN

Luật doanh nghiệp


`

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hai đạo luật, Luật Công ty số 47 và Luật Doanh nghiệp tư nhân số 48 ban
hành cùng ngày 21/12/1990 tạo cơ sở pháp lý cho các loại hình doanh nghiệp ngoài
quốc doanh như công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, CT TNHH từng bước phát
triển, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, khi
hai đạo luật ra đời và áp dụng trên thực tế một thời gian thì bộc lộ nhiều điểm bất
cập, không còn phù hợp trong thời kỳ mới. Nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn,
Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh
nghiệp. Ngày 22/6/1994, ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Công ty,
LDN tư nhân. Ngày 12/6/1999, ban hành LDN số 13 thay thế Luật Công ty số 47
năm 1990, LDN tư nhân số 48 năm 1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật
Công ty, LDN tư nhân ngày 22/6/1994. Ngày 29/11/2005, LDN số 60 ban hành thay
thế LDN số 13 năm 1999. Ngày 26/11/2014, LDN số 68 ban hành thay thế LDN số
60 năm 2005.
Công ty trách nhiệm hữu hạn nói chung đã được đề cập trong Luật Công ty
năm 1990 tại Chương 3 từ Điều 25 đến Điều 29 nhưng loại hình CT TNHH hai
thành viên trở lên thì mãi đến LDN năm 1999 mới được quy định chi tiết tại Mục 1
Chương 3. CT TNHH đặc biệt là loại hình CT TNHH hai thành viên trở lên được

xem là loại hình doanh nghiệp được các nhà đầu tư lựa chọn thành lập bởi chính
loại hình doanh nghiệp này đã mang nhiều ưu thế hơn công ty cổ phần hay công ty
hợp danh. CT TNHH hai thành viên trở lên là sự kết hợp hoàn hảo những ưu điểm
của công ty hợp danh và công ty cổ phần, phù hợp với các nhà đầu tư có quy mô
nhỏ và vừa.
Ở pháp luật các nước trên thế giới, loại hình CT TNHH trong đó CT TNHH
hai thành viên trở lên đã được ghi nhận trong luật và được các nhà đầu tư lựa chọn
như một loại hình kinh doanh chủ yếu, rất đáng đầu tư. Đáng chú ý như pháp luật
của Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp và Cộng hòa liên bang Đức. Ở Việt Nam mặc dù hệ
1


`

thống pháp luật doanh nghiệp luôn không ngừng được hoàn thiện như LDN năm
2014 hiện hành. Những quy định pháp luật mới ban hành cho doanh nghiệp nói
chung và cho CT TNHH hai thành viên trở lên nói riêng giúp mang luồng sinh khí
mới so với những quy định trước đây chưa làm được. Tuy nhiên, LDN năm 2005 và
các văn bản pháp luật có liên quan khác chưa giải quyết hết những chồng chéo,
thiếu quy định hoặc quy định chưa rõ mà LDN năm 1999 đã mắc phải trong quá
trình vận dụng vào thực tiễn. Đặc biệt, xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu cần có
những quy định pháp lý rõ ràng, đơn giản, phù hợp với những cam kết của Việt
Nam với tổ chức quốc tế nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và tạo nhiều cơ hội
cho các nhà đầu tư lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp với khả năng, mục
đích kinh doanh của mình. Vì vậy, LDN năm 2014 ra đời là bước đột phá mới trong
hệ thống văn bản pháp luật doanh nghiệp.
Loại hình CT TNHH hai thành viên trở lên với những ưu điểm vượt trội, có
vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Để từng bước hoàn
thiện cũng như đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quy định pháp luật
doanh nghiệp nói chung, loại hình CT TNHH hai thành viên trở lên nói riêng. Việc

nghiên cứu các vấn đề lý luận về CT TNHH hai thành viên trở lên, hệ thống pháp
luật hiện hành và từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quy định pháp luật
về CT TNHH hai thành viên trở lên trong thực tiễn hiện nay mang ý nghĩa lý luận,
thực tiễn sâu sắc. Với nhận thức như vậy, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài “Pháp
luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ở Việt Nam” làm đề
tài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan đến pháp luật doanh nghiệp nói chung và CT TNHH nói riêng đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu. Cụ thể như: Luận văn thạc sỹ của Lê Văn Khải,
năm 1997 về “Công ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp luật Việt Nam và hướng
hoàn thiện địa vị pháp lý của loại hình doanh nghiệp này”; Các bài viết trên tạp chí
Luật học như “Bàn về tính thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam
2


`

hiện nay” của Tiến sĩ Bùi Ngọc Cường; “Quan niệm về Luật Doanh nghiệp – Một
số vấn đề phương pháp luận” của Thạc sỹ Đồng Ngọc Ba; Bài viết “Phát triển các
loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần” của Tiến sĩ Đinh Văn
Ân trong tạp chí cộng sản số 57 năm 2004…Tuy nhiên, đối với đề tài pháp luật về
CT TNHH hai thành viên trở lên trước đây mới được đề cập ở mức độ bài tiểu luận
hay chuyên đề thực tập như của Nguyễn Thị Thu Thảo, năm 2012 về “Địa vị pháp
lý của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo Luật Doanh nghiệp
năm 2005- Thực trạng tổ chức và hoạt động của Công ty TNHH dịch vụ - thương
mại Tấn Phát Đạt”. Gần đây mới có chuyên đề chuyên sâu về pháp luật CT TNHH
hai thành viên trở lên như luận văn của Thạc sỹ Vũ Quỳnh Lâm năm 2017 “Quy
chế pháp lý về vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên” và năm
2018 có Luận văn “Pháp luật về công ty TNHH hai thành viên trở lên – thực tiễn
tại tỉnh Quảng Ninh” của Thạc sỹ Ngô Thị Dung.

Như vậy, trước đó một số chuyên đề, đề tài khoa học chỉ đề cập những nội
dung chung về pháp luật doanh nghiệp, tổng thể pháp luật về CT TNHH hai thành
viên trở lên. Hay một số đề tài nghiên cứu chuyên sâu về chỉ một nội dung cơ bản
của CT TNHH hai thành viên trở lên như nội dung quy chế pháp lý về vốn… mà
chưa có đề tài nghiên cứu chuyên sâu về một số nội dung cơ bản của loại hình
doanh nghiệp này. Ở phạm vi đề tài nghiên cứu khoa học của mình, tác giả nghiên
cứu chuyên sâu về một số nội dung cơ bản của pháp luật về CT TNHH hai thành
viên trở lên như: Thành lập, đăng ký kinh doanh và chấm dứt hoạt động (Phá sản
và giải thể công ty); Tổ chức quản lý nội bộ công ty; Quy chế quản lý vốn. Các công
trình nghiên cứu về các quy định pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung
và pháp luật về CT TNHH hai thành viên trở lên nêu trên là nguồn tư liệu quý báu
để tác giả tham khảo và kế thừa nhằm có được một bài viết chuyên sâu về một số
nội dung cơ bản pháp luật về CT TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam. Do đó,
việc tác giả chọn đề tài “Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học tốt nghiệp thạc sỹ tại Trường
Đại học mở Hà Nội càng mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
3


`

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu những vấn đề lý luận về CT
TNHH hai thành viên trở lên theo LDN năm 2014 và thực trạng pháp luật hiện
hành. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về CT
TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề chung mang tính lý luận về CT TNHH hai
thành viên trở lên như lịch sử hình thành, khái niệm, đặc điểm, ưu điểm, nhược

điểm; Pháp luật về CT TNHH hai thành viên trở lên ở dạng lý luận như khái niệm,
nội dung của pháp luật về CT TNHH hai thành viên trở lên.
Thứ hai, nghiên cứu hệ thống pháp luật hiện hành về doanh nghiệp, đặc biệt
là nghiên cứu nội dung các quy định của LDN năm 2014 về CT TNHH hai thành
viên trở lên ở một số nội dung cơ bản: Thành lập, đăng ký kinh doanh và chấm dứt
hoạt động (Phá sản và giải thể công ty); Tổ chức quản lý nội bộ công ty; Quy chế
quản lý vốn.
Thứ ba, nêu các yêu cầu về hoàn thiện quy định pháp luật về CT TNHH hai
thành viên trở lên và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
CT TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về CT TNHH hai thành
viên trở lên theo LDN năm 2014, các văn bản hướng dẫn thi hành; Thực trạng các
quy định pháp luật và từ đó đưa ra yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật, một số
giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về CT TNHH hai thành viên trở lên ở
Việt Nam.
4


`

- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là phân tích, đánh
giá một số nội dung cơ bản về CT TNHH hai thành viên trở lên như: Thành lập,
đăng ký kinh doanh và chấm dứt hoạt động (Phá sản và giải thể công ty); Tổ chức
quản lý nội bộ công ty; Quy chế quản lý vốn theo quy định của LDN năm 2014 và
các văn bản hướng dẫn thi hành, các văn bản pháp luật khác có liên quan.
+ Thời gian nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn tập trung phân tích, đánh
giá một số nội dung cơ bản về CT TNHH hai thành viên trở lên theo quy định LDN

từ năm 2014 và một số văn bản hướng dẫn thi hành LDN năm 2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp nói chung và pháp
luật về CT TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp duy vật biện chứng: Xem xét giải pháp pháp lý nhằm hoàn
thiện pháp luật về CT TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam hiện nay một cách
toàn diện trong mối tương quan với thế giới và thực tiễn tại Việt Nam. Được triển
khai thực hiện ở chương 3 của luận văn.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân chia các vấn đề lớn, phức tạp thành
những vấn đề nhỏ chi tiết, cụ thể hơn. Sau khi phân tích thì tổng hợp lại và khái
quát để đưa tới sự nhận thức tổng hợp về pháp luật CT TNHH hai thành viên trở lên
ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện. Được triển khai thực hiện ở cả ba
chương của luận văn.
+ Phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch: Đề tài đi từ những vấn
đề chung đến những vấn đề chi tiết, cụ thể hơn. Sau khi phân tích thì tổng hợp lại và
5


`

khái quát để đưa tới sự nhận thức tổng thể về pháp luật CT TNHH hai thành viên
trở lên hiện nay và giải pháp hoàn thiện. Được triển khai thực hiện ở cả ba chương
của luận văn.
+ Phương pháp thống kê: Đề tài tập hợp những số liệu về CT TNHH hai
thành viên ở Việt Nam, trên thế giới và thực tiễn làm cơ sở khoa học. Được triển
khai thực hiện ở chương 1 và chương 2 của luận văn.

+ Phương pháp so sánh: Đề tài đặt thực tiễn về vấn đề cần nghiên cứu trong
mối liên hệ và so sánh với các quy định trong LDN năm 2005, qua đó tìm ra những
những ưu, nhược điểm của vấn đề và đề xuất phương hướng hoàn thiện để giải
quyết nội dung vấn đề cần nghiên cứu. Được triển khai thực hiện ở cả ba chương
của luận văn.
6. Kết quả mới của luận văn
Luận văn đã hệ thống hóa, kế thừa và phát triển các luận cứ khoa học nhằm
làm sáng tỏ cơ sở lý luận của CT TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam.
Thông qua việc đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về CT TNHH hai
thành viên trở lên trong thực tiễn, luận văn đã đánh giá những mặt tích cực, ưu
điểm. Đồng thời, cũng chỉ rõ những tồn tại, bất cập trong các quy định của pháp luật
hiện hành về CT TNHH hai thành viên trở lên.
Luận văn cũng đã đề xuất các yêu cầu hoàn thiện pháp luật, một số giải pháp
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về CT TNHH hai thành viên trở lên nhằm giải
quyết những bất cập của pháp luật về CT TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương với kết cấu như sau:

6


`

Chương 1: Những vấn đề lý luận về công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên và pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên.
Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành về công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên ở Việt Nam.

Chương 3: Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên ở Việt Nam.

7


`

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY
TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ
LÊN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM
HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
1.1 Những vấn đề lý luận về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên
1.1.1 Lịch sử về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Công ty trách nhiệm hữu hạn được liệt kê vào dạng công ty đối vốn nhưng
CT TNHH có bản chất của cả công ty đối vốn lẫn đối nhân. Lịch sử hình thành và
phát triển công ty thường theo hình thức tự phát, tức là các thương gia trong quá
trình hoạt động kinh doanh của mình đã lập ra các hội buôn, rồi thành công ty, sau
đó pháp luật mới thừa nhận và dần dần hoàn thiện quy chế pháp lý cho các công ty
này. Nhưng đối với loại hình CT TNHH thì lại khác hẳn. CT TNHH không phải là
sản phẩm của các thương gia mà là sản phẩm của các nhà làm luật, là kết quả của
hoạt động luật pháp.
Các CT TNHH đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1892 ở Đức sau khi luật
về CT TNHH được ban hành. Sở dĩ các nhà làm luật sáng tạo ra loại hình công ty
này vì trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ bên cạnh những công ty cổ phần có quy
mô đồ sộ, đã xuất hiện nhiều nhu cầu đầu tư vừa và nhỏ. Mô hình công ty cổ phần
không thích hợp với khuynh hướng đầu tư vừa và nhỏ này. Trong khi đó các thành

viên lại không muốn chịu trách nhiệm vô hạn như các thành viên doanh nghiệp tư
nhân và công ty hợp danh. Các nhà đầu tư vừa muốn tận dụng khả năng đối vốn của
công ty cổ phần lại vừa không muốn chịu những chế độ quản lý khắt khe của công
ty cổ phần. Họ muốn có một mô hình công ty hoàn toàn mới đáp ứng được các yêu
cầu quy mô nhỏ, số lượng thành viên ít, quy chế pháp lý đơn giản và chịu trách
nhiệm hữu hạn. Các nhà làm luật đã đáp ứng được nguyện vọng của các nhà đầu tư
8


`

bằng việc sáng tạo ra mô hình mới: CT TNHH. CT TNHH đã kết hợp được ưu điểm
về sự quen biết nhau giữa các thành viên của công ty đối nhân. Đồng thời, CT
TNHH cũng khắc phục được nhược điểm về quy chế quản lý phức tạp của công ty
cổ phần và nhược điểm của việc không phân chia được rủi ro trong công ty hợp
danh, doanh nghiệp tư nhân.
Ở Việt Nam cũng vậy, xuất phát từ yêu cầu khắt khe từ môi trường đầu tư
nên mới làm căn nguyên xuất hiện loại hình CT TNHH hai thành viên trở lên. Năm
1990, Quốc Hội đã ban hành Luật Công ty, LDN tư nhân nhằm điều chỉnh các hoạt
động kinh doanh trong nước. Luật Công ty năm 1990 bao gồm CT TNHH và công
ty cổ phần. LDN năm 1999, các nhà làm luật quy định tách CT TNHH thành CT
TNHH một thành viên (do một tổ chức làm chủ sở hữu) và CT TNHH hai thành
viên trở lên. CT TNHH một thành viên (Khoản 1, Điều 63); Công ty cổ phần
(khoản 1 Điều 77); Công ty hợp danh (Khoản 1 Điều 130); Doanh nghiệp tư nhân
(Khoản 1 Điều 141); Nhóm công ty (Điều 146). LDN năm 2005 được quy định cụ
thể rõ ràng hơn, bổ sung thêm loại hình CT TNHH một thành viên là cá nhân, bổ
sung thêm nhóm công ty. Đây là sự thay đổi phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội ở
nước ta cũng như xu thế phát triển doanh nghiệp ở nhiều nước trên thế giới. Chính
sự thay đổi này đã tạo ra cơ chế huy động vốn mềm dẻo, bảo đảm cho các thành
phần kinh tế có thể tham gia một cách dễ dàng vào hoạt động sản xuất kinh doanh,

bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, từ đó tạo tâm lý yên tâm cho các
nhà đầu tư khi bỏ vốn kinh doanh, góp phần xây dựng một nền kinh tế ổn định, bền
vững. LDN năm 2014 cũng như LDN năm 2005 đều quy định về từng loại hình
doanh nghiệp: CT TNHH hai thành viên trở lên (Khoản 1 Điều 47): CT TNHH một
thành viên (Khoản 1 Điều 73); Công ty cổ phần (Khoản 1 Điều 110); Công ty hợp
danh (Khoản 1 Điều 172); Doanh nghiệp tư nhân (Khoản 1 Điều 183); Nhóm công
ty (Điều 188, Điều 189); Doanh nghiệp nhà nước (Chương IV). LDN năm 2014 về
cơ bản hướng tới việc giảm thiểu thủ tục hành chính khi doanh nghiệp thành lập và
hoạt động, nâng cao quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp…LDN năm 2014
quy định CT TNHH bao gồm: CT TNHH hai thành viên trở lên quy định từ Điều 47
9


`

đến Điều 72 và CT TNHH một thành viên do một cá nhân làm chủ sở hữu hoặc do
một tổ chức làm chủ sở hữu quy định từ Điều 73 đến Điều 87.
Từ phân tích về loại hình CT TNHH hai thành viên trở lên phát triển qua các
thời kỳ có thể nhận thấy loại hình doanh nghiệp này được đánh giá là loại hình công
ty có nhiều ưu việt và được ưa chuộng bởi bản chất pháp lý của nó. Việc thừa nhận
loại hình CT TNHH hai thành viên trở lên trong hệ thống pháp luật Việt Nam trải
qua những giai đoạn lịch sử lâu dài đã có sự thay đổi từ tư duy đến việc xây dựng
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về loại hình công ty này. Đây chính là lý do sâu xa
để CT TNHH hai thành viên trở lên ra đời và được các nhà đầu tư lựa chọn đầu tư
kinh doanh nhiều như hiện nay.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1.2.1 Khái niệm công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Trước khi đưa ra khái niệm về CT TNHH hai thành viên trở lên thì trước hết
phải hiểu về khái niệm về công ty nói chung.
Ở góc độ kinh tế, công ty có thể được hiểu là các tổ chức chuyên hoạt động

kinh doanh thương nghiệp dịch vụ, nhằm phân biệt với các nhà máy, xí nghiệp là
những đơn vị kinh tế chuyên hoạt động sản xuất.
Trong khoa học pháp lý, mỗi nước có một định nghĩa công ty khác nhau.
Tuy nhiên, khi xem xét bản chất của công ty, pháp luật của các nước nói chung có
một số điểm cơ bản chung thống nhất. Công ty do hai chủ thể trở lên góp vốn thành
lập. Đây là quan niệm truyền thống từ trước đến nay về công ty.
Khái niệm về công ty của các nước như Pháp, Đức, Thái Lan và một số nước
khác nhau đều chứa đựng yếu tố liên kết, mà muốn liên kết thì phải có nhiều người.
công ty sẽ không thỏa mãn yếu tố liên kết nếu chỉ có một chủ thể góp vốn để thành
lập. Chủ thể ở đây có thể hiểu là các cá nhân hoặc pháp nhân. Công ty có thể là sự
liên kết giữa hai hay nhiều cá nhân với nhau. Như nhà luật học Kubler Cộng hòa
Liên bang Đức quan niệm rằng: “Khái niệm công ty được hiểu là sự liên kết của hai
hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lí nhằm tiến hành các
hoạt động để đạt được mục tiêu chung nào đó” [2- trang 109]. Bộ luật Dân sự Cộng
10


`

hòa Pháp quy định: “Công ty là một hợp đồng thông qua đó hai hay nhiều người
thỏa thuận với nhau sử dụng tài sản hay khả năng của mình vào một hoạt đông
chung nhằm chia lợi nhuận thu được qua hoạt động đó” [2- trang 109].
Từ khái niệm về công ty qua quy định pháp luật doanh nghiệp nói chung có
thể nhận thấy rằng loại hình CT TNHH hai thành viên đã được ghi nhận trong Luật
Công ty năm 1990 và tiếp tục được ghi nhận trong LDN năm 1999, LDN năm 2005,
LDN năm 2014. CT TNHH hai thành viên trở lên là loại công ty trung gian giữa
công ty đối nhân và công ty đối vốn, nó vừa có những tính chất của công ty đối
nhân, là các thành viên quen biết nhau. Hoặc có thể nói CT TNHH là doanh nghiệp
trong đó có số lượng thành viên hạn chế, các thành viên chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn góp vào

và công ty không được quyền phát hành cổ phần.
Pháp luật doanh nghiệp qua các thời kỳ và hiện nay là LDN năm 2014 không
đưa ra khái niệm về CT TNHH hai thành viên trở lên mà đưa ra các dấu hiệu nhận
biết về loại hình doanh nghiệp này. Tại Điều 2 Luật Công ty năm 1990 định nghĩa:
“CT TNHH và công ty cổ phần, gọi chung là công ty, là doanh nghiệp trong đó các
thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với
phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi
phần vốn của mình góp vào công ty”. Theo khoản 1 Điều 26 LDN năm 1999, CT
TNHH hai thành viên trở lên được nhận biết qua các dấu hiệu cơ bản: “…Thành
viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp; Phần vốn góp của
thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại Điều 32 của LDN năm 1999;
Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá năm
mươi…”. LDN năm 2005 quy định về các loại hình công ty: CT TNHH hai thành
viên trở lên (Khoản 1, Điều 38): “…Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng
thành viên không vượt quá năm mươi;Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ
và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào

11


`

doanh nghiệp…”1. Dựa theo quy định tại Khoản 1 Điều 47 của LDN năm 2014 về
CT TNHH hai thành viên trở lên thì các yếu tố cơ bản tạo nên khái niệm và cũng là
những đặc điểm quan trọng nhất, đó là về “loại hình”, “chủ sở hữu”, “chế độ trách
nhiệm”.
Như vậy, có thể khái quát khái niệm về CT TNHH hai thành viên trở lên là
doanh nghiệp do tổ chức hoặc cá nhân thành lập, không quá năm mươi thành viên
và các thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của

doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.2
1.1.2.2 Đặc điểm công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Loại hình CT TNHH hai thành viên đã xuất hiện ở Việt Nam từ thời kì Pháp
thuộc (nửa cuối thế kỉ 19, nửa đầu thế kỉ 20) và được phát triển trong các đạo luật
về công ty, mà hiện nay là LDN năm 2014 hiện hành. Theo LDN, CT TNHH là loại
hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân được pháp luật thừa nhận. CT TNHH hai
thành viên mang tính chất lưỡng tính, vừa mang đặc điểm của công ty đối vốn vừa
mang đặc điểm của công ty đối nhân. CT TNHH hai thành viên trở lên là doanh
nghiệp có những đặc điểm sau đây:
Đặc điểm thứ nhất: Về tư cách pháp lý CT TNHH hai thành viên trở lên
có tư cách pháp nhân.
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có tư cách pháp nhân kể
từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (theo Khoản 2 Điều 47
LDN năm 2014). Điều đó có nghĩa là CT TNHH hai thành viên trở lên được thừa
nhận là chủ thể tồn tại độc lập. Do đó, công ty có thể nhân danh chính mình trong
các giao dịch và hoạt động kinh doanh. Công ty có tư cách pháp nhân tức là nó có
tư cách pháp lý độc lập, tự chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình trong quá
trình hoạt động kinh doanh. Đây là một lợi thế của công ty đối vốn. Việc thay đổi
về thành viên công ty, vốn của công ty cũng không ảnh hưởng đến sự tồn tại của
1

Theo Khoản 1 Điều 38 Luật Doanh nghiệp năm 2005.

2

Theo Khoản 1 Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

12



`

công ty. Có được tư cách này là do CT TNHH hai thành viên trở lên sở hữu tài sản.
Khi đăng ký kinh doanh thì thành viên góp vốn phải chuyển quyền sở hữu tài sản
sang cho công ty. Đó chính là vốn của công ty, thuộc sở hữu của công ty và công ty
tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình bằng số vốn này. Có thể nhận thấy, CT
TNHH hai thành viên trở lên vừa có đặc điểm giống công ty hợp danh (đặc điểm về
thành viên thể hiện tính chất đối nhân), vừa có đặc điểm giống công ty cổ phần (tính
độc lập về tài sản và chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn thể hiện tính chất của công ty
đối vốn).
Đặc điểm thứ hai: Về thành viên công ty
+ Số lượng thành viên: Được quy định rõ tại Điểm a Khoản 1 Điều 47 LDN
năm 2014. Thành viên của CT TNHH hai thành viên trở lên có tối thiểu là hai và tối
đa không quá năm mươi thành viên. Như vậy, đây là một trong những điều kiện để
thành lập doanh nghiệp và cũng là điều kiện mà các doanh nghiệp phải đáp ứng
trong suốt quá trình hoạt động của mình. Ở một số nước như Hoa Kỳ, Singapore,
Malaysia cũng có quy định về số lượng thành viên của công ty, tuy nhiên số lượng
cụ thể có thể khác nhau tùy theo từng quốc gia. Singapore là không quá hai mươi,
Malaysia không quá năm mươi thành viên. Và câu hỏi được đặt ra là tại sao lại quy
định số lượng thành viên như vậy? Vấn đề này có thể giải thích do xuất phát từ mục
đích xây dựng mô hình CT TNHH của các nhà làm luật cùng với một số đặc trưng
của loại công ty này. CT TNHH ra đời từ hoạt động lập pháp, khi các nhà làm luật
nhận ra những ưu điểm, khuyết điểm của công ty đối nhân và công ty đối vốn. Mà
công ty đối vốn (điển hình là công ty cổ phần) có mô hình cồng kềnh, thích hợp với
kinh doanh lớn, đòi hỏi có mô hình quản trị điều hành phức tạp không thích hợp với
kinh doanh vừa và nhỏ do đó để thích hợp với mô hình kinh doanh vừa và nhỏ thì
cần phải giới hạn số thành viên nhằm phát huy tối đa ưu điểm loại hình này.
+ Tư cách thành viên: Thành viên của CT TNHH hai thành viên là cá nhân,
tổ chức có thể có quốc tịch Việt Nam hoặc nước ngoài. Tuy nhiên, cá nhân, tổ chức
này không thuộc các trường hợp cấm thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần

vốn góp và quản lý doanh nghiệp quy định tại Điều 18 LDN năm 2014. Theo đó,
13


`

CT TNHH hai thành viên trở lên phải có ít nhất hai thành viên trở lên và nhiều nhất
là năm mươi thành viên.
Đặc điểm thứ ba: Về cấu trúc vốn và chuyển nhượng phần vốn góp của
thành viên CT TNHH hai thành viên trở lên.
Sự khác biệt cơ bản giữa CT TNHH hai thành viên trở lên và công ty cổ
phần thể hiện ở đặc điểm về cấu trúc vốn. Vốn điều lệ của CT TNHH hai thành viên
trở lên có cấu trúc vốn “đóng”. Vốn điều lệ của công ty không nhất thiết phải chia
thành những phần có giá trị bằng nhau và không được thể hiện dưới hình thức cổ
phần. Theo khoản 1 Điều 48 LDN năm 2014, vốn điều lệ của CT TNHH hai thành
viên trở lên khi đăng ký doanh nghiệp là tổng giá trị phần vốn góp các thành viên
cam kết góp vào công ty. Thành viên phải góp vốn cho công ty đủ và đúng loại tài
sản như đã cam kết khi đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (theo Khoản 2 Điều 48 LDN năm
2014). Trường hợp có thành viên chưa góp hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết,
công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên
bằng số vốn đã góp trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày cuối cùng phải góp vốn đủ
phần vốn góp (theo Khoản 4 Điều 48 LDN năm 2014). Việc chuyển nhượng vốn
của thành viên cho người không phải là thành viên công ty bị hạn chế bởi quyền ưu
tiên nhận chuyển nhượng của các thành viên còn lại trong công ty (Điều 53 LDN
năm 2014). Đặc điểm này cho phép các thành viên trong CT TNHH hai thành viên
trở lên có thể ngăn chặn sự thâm nhập của người bên ngoài công ty bằng cách cùng
nhau mua hết phần vốn của thành viên muốn chuyển nhượng vốn. 3
Việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty: Tương tự như
công ty hợp danh, thành viên CT TNHH hai thành viên trở lên hầu hết là những

người quen biết nhau từ trước. Do đó, luật định cũng ghi nhận việc chuyển nhượng
phần vốn góp của thành viên công ty không dễ dàng như chào bán cổ phần trong
công ty cổ phần mà các thành viên công ty có quyền ưu tiên mua trước. Nếu các
Trang 47 Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam – Viện Đại học mở Hà Nội – Nhà xuất bản
lao động xã hội năm 2016.
3

14


`

thành viên công ty không mua hoặc không mua hết mới được quyền chuyển nhượng
ra bên ngoài cho người khác. Điều này được quy định rất chặt chẽ tại Điều 52 mua
lại phần vốn góp và Điều 53 chuyển nhượng phần vốn góp trong LDN năm 2014.
Đối với chuyển nhượng phần vốn của thành viên CT TNHH hai thành viên
trở lên chỉ được thực hiện chuyển nhượng theo quy định trong trường hợp: Mua lại
phần vốn góp; Chuyển nhượng phần vốn góp và xử lý phần vốn góp trong một số
trường hợp đặc biệt. Hơn thế, thành viên CT TNHH hai thành viên trở lên chỉ được
quyền chuyển nhượng cho người ngoài công ty trong trường hợp đã yêu cầu thành
viên công ty còn lại và công ty không mua hoặc không mua hết phần vốn góp
chuyển nhượng. Còn đối với chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần được
quyền tự do chuyển nhượng cổ phần cho bất cứ ai, trừ 02 trường hợp: Một là, trong
thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ
đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho
người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ
đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền
biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó; Hai là, điều lệ công ty có quy
định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực khi

được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng.
Đặc điểm thứ tư: Trách nhiệm tài sản của thành viên công ty đối với các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty là chịu trách nhiệm hữu hạn
trong phạm vi số vốn góp vào công ty.
Công ty tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình vì công ty có tư
cách pháp nhân. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, trừ trường
hợp quy định tại Khoản 4 Điều 48 LDN năm 2014. Riêng đối với thời điểm thành
lập công ty: Trong thời hạn góp vốn 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp, các thành viên chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã

15


`

cam kết phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết đối với các
nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời gian này.
Đặc điểm thứ năm: Về khả năng huy động vốn của công ty
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không được huy động
vốn bằng việc phát hành cổ phần (theo Khoản 3 Điều 47 LDN năm 2014). Đây là
điểm khác biệt rõ nhất giữa CT TNHH và công ty cổ phần, vì cổ phần và cổ phiếu
là đặc trưng riêng của mô hình công ty cổ phần nhằm huy động vốn. Và quy định
này có liên quan chặt chẽ với những quy định khác về vốn, tăng giảm vốn. Vậy tại
sao CT TNHH lại không được quyền phát hành cổ phần? Bởi lẽ, CT TNHH là mô
hình kinh doanh vừa và nhỏ, mô hình điều hành, quản trị chưa có quy mô, vốn trong
công ty lại được chia theo tỉ lệ vốn góp giữa các thành viên chứ không chia thành
các cổ phần. Các thành viên trong công ty thường có mối quan hệ quen biết với
nhau. Do đó, trong quá trình hoạt động không thể phát hành cổ phần để huy động
vốn bởi sẽ phá vỡ số lượng thành viên của công ty cũng như mối quan hệ giữa các

thành viên, lúc đó CT TNHH hai thành viên trở lên sẽ không còn mang những đặc
trưng cơ bản vốn có của CT TNHH nữa. Tuy nhiên, CT TNHH hai thành viên vẫn
có thể áp dụng các phương thức huy động vốn: (1) Tăng vốn điều lệ công ty bằng
cách kết nạp thêm thành viên mới tuy nhiên không quá năm mươi thành viên;(2)
Tăng vốn điều lệ công ty bằng cách huy động vốn từ các thành viên đang hoạt động
trong công ty; (3) Huy động vốn thông qua hoạt động vay vốn, tín dụng từ các cá
nhân, tổ chức; (4) Phát hành trái phiếu.
1.1.3 Ưu điểm và nhược điểm của loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên mang tính lưỡng tính,
vừa có tính chất công ty đối nhân, vừa có tính chất công ty đối vốn nên luôn mang
những ưu điểm nổi bật khiến các nhà đầu tư quan tâm lựa chọn thành lập. Tuy
nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì loại hình công ty này cũng bộc lộ những hạn chế
nhất định.
1.1.3.1 Ưu điểm của loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
16


`

Căn cứ theo quy định trong LDN năm 2014 về loại hình CT TNHH hai thành
viên trở lên, có thể thấy rằng loại hình doanh nghiệp này có những ưu điểm:
+ Hạn chế rủi ro về tài chính cho người góp vốn. Bởi lẽ, do có tư cách pháp
nhân nên các thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty
trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người góp vốn. Được
ghi nhận tại khoản 1 Điều 51 LDN năm 2014.
+ Nhận được sự đồng thuận cao của các thành viên công ty. Bởi lẽ, do số
lượng thành viên công ty không nhiều, tối đa năm mươi thành viên và các thành
viên thường là người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty
không quá phức tạp. Được ghi nhận tại khoản 1 Điều 47 LDN năm 2014.

+ Chế độ chuyển nhượng phần vốn góp của các thành viên quy định chặt chẽ
tạo cơ sở pháp lý vững chắc khi cho hoạt động kiểm soát rủi ro. Chế độ chuyển
nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát được việc
thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty. Được ghi
nhận tại Điều 52, 53 của LDN năm 2014.
+ Có tư cách pháp nhân, cơ cấu tổ chức quản lý hợp lý. Công ty có tư cách
pháp nhân nên tạo được sự tin cậy của các đối tác trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Loại hình CT TNHH hai thành viên trở lên có quy mô tổ chức tương đối vừa
và nhỏ. Hơn thế, lại đảm bảo có sự an toàn cao về mặt tài sản cho các thành viên
góp vốn. Do đó, loại hình CT TNHH hai thành viên trở lên thích hợp với các nhà
đầu tư kinh doanh quy mô vừa và nhỏ, đòi hỏi sự tin tưởng, quen biết giữa các
thành viên góp vốn kinh doanh.
1.1.3.2 Nhược điểm của loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, loại hình CT TNHH hai thành viên trở lên
cũng có những hạn chế nhất định như:
+ Chế độ trách nhiệm hữu hạn về mặt tài sản của các thành viên công ty dẫn
đến tính an toàn pháp lý thấp. Do chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của
17


`

công ty trước đối tác, bạn hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng. Do đó, trên thực tế
kinh doanh, nhiều cá nhân, tổ chức khi hợp tác với CT TNHH hai thành viên trở lên
đều tỏ ra khá e dè, thận trọng.
+ Hạn chế trong việc huy động vốn từ bên ngoài. CT TNHH hai thành viên
trở lên không có quyền phát hành cổ phiếu, điều này đã gây khó khăn cho công ty
khi chủ đầu tư muốn huy động thêm vốn bên ngoài để mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh.

+ Số lượng thành viên công ty bị giới hạn cũng phần nào ảnh hưởng đến khả
năng mở rộng và phát triển quy mô của công ty. Các nước khác trên thế giới cũng
quy định giới hạn về thành viên công ty như Singapore không quá hai mươi thành
viên; Malayxia không quá năm mươi thành viên. Ở Việt Nam, CT TNHH hai thành
viên trở lên quy định tại khoản 1 Điều 47 LDN năm 2014, tối thiểu hai thành viên,
tối đa năm mươi thành viên. Nhìn nhận một cách khách quan nhất thì quy định mức
tối đa như vậy sẽ phần nào hạn chế khả năng mở rộng và phát triển quy mô của
công ty.
+ Việc quy định chặt chẽ trong thủ tục chuyển nhượng phần vốn góp của các
thành viên công ty cũng phần nào gây khó khăn trong cơ chế thay đổi thành viên
công ty. Hạn chế lớn của loại hình công ty này là việc chuyển nhượng phần vốn góp
của thành viên công ty thường khó khăn. Đó là nguyên tắc thành viên công ty muốn
chuyển nhượng phần vốn góp của mình thì phải yêu cầu công ty và các thành viên
khác trong công ty mua lại. Nếu công ty hoặc các thành viên công ty không mua lại
hoặc mua không hết phần vốn góp thành viên chào bán thì thành viên đó mới có
quyền bán lại cho người bên ngoài. Như vậy, việc chuyển nhượng phần vốn góp của
thành viên công ty bị hạn chế bởi những điều kiện chặt chẽ.
1.2 Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.2.1 Khái niệm pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Pháp luật là một công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý.
Bất kỳ một quan hệ nào phát sinh trong đời sống xã hội cũng cần đến sự điều chỉnh
của pháp luật nhằm định hướng chúng đi theo một trật tự nhất định, để vừa đảm bảo
18


×