Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (801.75 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI
HÀNG HÓA NHẬP KHẨU VÀO VIỆT NAM

NGUYỄN HỒNG HẢI

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu đối
với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam” là công trình nghiên cứu độc lập của bản
thân học viên. Các thông tin và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực,
khách quan và có căn cứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Hồng Hải


LỜI CẢM ƠN


Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo trường Đại học Mở Hà Nội đã
trực tiếp giảng dạy, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Văn Tuyến, người đã giúp định
hướng, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
Xin trân trọng cảm ơn Khoa đào tạo sau đại học - Trường Đại học Mở Hà
Nội, các bạn đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành đề tài
này .
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Hồng Hải


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ NHẬP KHẨU
VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI HÀNG HÓA
NHẬP KHẨU ............................................................................................................6
1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập
khẩu ............................................................................................................................6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thuế nhập khẩu .........................................6
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng nhập
khẩu ..........................................................................................................................10
1.1.3. Nội dung quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu .................18
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng
hóa nhập khẩu .........................................................................................................20
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và cấu trúc của pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu
...................................................................................................................................20

1.2.2. Các yếu tố tác động đến pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu ...................22
Kết luận chương 1 ...................................................................................................25
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ NHẬP KHẨU
ĐỐI VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ...................26
2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập
khẩu ..........................................................................................................................26
2.1.1. Thực trạng quy định về chủ thể và quyền nghĩa vụ của các chủ thể trong
quản lý thuế nhập khẩu ...........................................................................................26
2.1.2. Quy định về nội dung và nguyên tắc quản lý thuế nhập khẩu ....................39
2.1.3. Quy định về trình tự, thủ tục quản lý thuế nhập khẩu .................................42
2.1.4. Quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế nhập khẩu
đối với hàng hóa nhập khẩu ....................................................................................52
2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế nhập khẩu đối với
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam .......................................................................58


Kết luận chương 2 ...................................................................................................61
KẾT LUẬN ..............................................................................................................62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................63

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Kết quả công tác kiểm tra thuế giai đoạn 2010 - 2017 ................................28
Bảng 2: Kết quả công tác thanh tra thuế giai đoạn 2012 – 2017 ..............................29
Bảng 3: Kết quả ấn định thuế của 35 Cục Hải quan tỉnh, thành phố giai đoạn 2007 2016. ..........................................................................................................................30
Bảng 4: Kết quả về hoàn thuế theo Luật quản lý thuế và các luật thuế do cơ quan hải
quan thực hiện trong giai đoạn 2011 – 2017 .............................................................36
Bảng 5: Số liệu miễn thuế giai đoạn 2011 - 2017 .....................................................38


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh thế giới đương đại, pháp luật thuế nói chung và pháp luật về
quản lý thuế nói riêng đã và đang là một trong những công cụ quan trọng để giúp
Nhà nước điều tiết nền kinh tế, từ đó góp phần định hướng phát triển cho quốc gia.
Đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa, các quy định về quản lý thuế nhập
khẩu có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu, đồng
thời hạn chế tình trạng gian lận thương mại để trốn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam.
Trước tình hình kinh tế thế giới ngày một khó khăn, các quốc gia hiện nay
đều có những biện pháp để quản lý chặt chẽ về thuế nhập khẩu đối với hàng hóa
trong hoạt động thương mại quốc tế, từ đó góp phần ổn định nguồn thu cho ngân
sách nhà nước, đồng thời thiết lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động thương mại
quốc tế trong xu hướng toàn cầu hóa.
Với vai trò là công cụ quan trọng để quản lý nền kinh tế xã hội, pháp luật
thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu nói riêng đang ngày càng
được quan tâm, xây dựng hoàn thiện theo hướng ngày càng tiệm cận với chuẩn mực
và thông lệ quốc tế. Bằng chứng rõ nhất là gần đây Quốc Hội khóa 14 đã ban hành
Luật quản lý thuế số 39/2019/QH14 ngày 13/6/2019 để thay thế cho Luật quản lý
thuế số 78/2006/QH11 đã được áp dụng tại Việt Nam từ hơn 10 năm nay. Tuy
nhiên, đạo luật này sẽ chỉ có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2020 nên chắc chắn sẽ cần có
thời gian để kiểm nghiệm về tính hợp lý, hiệu quả của nó. Sự thay đổi chính sách về
quản lý thuế nói chung và quản lý thuế nhập khẩu nói riêng thể hiện trong đạo luật
về quản lý thuế năm 2019 chắc chắn rất cần được nghiên cứu, tìm hiểu để đánh giá
về mức độ hiệu quả của nó trong quá trình thực hiện thời gian tới. Đây chính là gợi
ý để tác giả luận văn quyết định lựa chọn vấn đề: “Pháp luật về quản lý thuế nhập
khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam” để làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình.
1



2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kể từ sau thời điểm Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ra đời từ năm 2006
cho đến nay, vấn đề pháp luật thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế (trong đó
bao gồm việc quản lý thuế nhập khẩu) nói riêng đã được nhiều công trình nghiên
cứu từ các góc độ khác nhau. Ở mức độ khái quát, có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Cường với đề tài:
“Hoàn thiện pháp luật về quản lý nợ thuế ở Việt Nam”, bảo vệ tại Trường Đại học
Luật Hà Nội năm 2015. Luận văn trình bày những vấn đề lý luận về quản lý nợ thuế
và pháp luật về quản lý nợ thuế; phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành
pháp luật về quản lý nợ thuế ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các biện pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng với đề tài: “Pháp
luật về quản lý thuế đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và thực tiễn thi hành
tại Cục Hải quan thành phố Hà Nội”, bảo vệ năm 2018 tại Trường Đại học Luật Hà
Nội. Luận văn nghiên cứu những vấn đề cơ bản của pháp luật về quản lí thuế và nội
dung quản lí thuế đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Phân tích thực tiễn thi
hành pháp luật về quản lí thuế đối với hàng hóa nhập khẩu tại Cục Hải quan thành
phố Hà Nội; từ đó đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả công tác này trong thực tiễn.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương với đề tài: “Pháp luật
về quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp từ thực tiễn thi hành tại Cục Thuế tỉnh Lạng
Sơn”, bảo vệ năm 2018 tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn trình bày cơ sở
lí luận về pháp luật quản lí thuế thu nhập doanh nghiệp. Phân tích thực trạng pháp
luật quản lí thuế thu nhập doanh nghiệp và thực tiễn thi hành tại Cục Thuế tỉnh
Lạng Sơn; từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả công tác này trong thực tiễn.
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Khuất Thị Thu Hà với đề tài: “Thực

2



tiễn áp dụng pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng đối với các hộ kinh doanh trên
địa bàn thành phố Vũng Tàu”, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2013;
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Anh với đề
tài: “Pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế”, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2013. Đề tài này nghiên cứu
khái quát về pháp luật quản lý thuế thu nhập trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế; phân tích thực trạng pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam hiện nay; đề
xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế;
- Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Văn Cương về đề tài: “Pháp luật quản lý thuế
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, bảo
vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
Có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu trên đây sẽ là cơ sở, tiền đề để
tác giả tham khảo trong quá trình thực hiện đề tài: “Pháp luật về quản lý thuế nhập
khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam”. Trên cơ sở đó góp phần đưa ra
những giải pháp hoàn thiện pháp luật phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong
giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý
thuế nhập khẩu và pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu; đánh giá thực trạng pháp
luật về quản lý thuế nhập khẩu và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế
nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn là:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về quản lý thuế nhập khẩu và pháp luật về quản
lý thuế nhập khẩu;
- Phân tích các quy định pháp luật hiện hành về quản lý thuế nhập khẩu ở
Việt Nam và đánh giá thực tiễn thực hiện;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu ở


3


Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm, học thuyết về thuế và
quản lý thuế nói chung, quản lý thuế nhập khẩu nói riêng; các quy định pháp luật về
quản lý thuế nhập khẩu và tình hình thực tiễn thực hiện quản lý thuế nhập khẩu đối
với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các vấn đề cơ bản như: lý luận
về quản lý thuế nhập khẩu; thực trạng pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu ở Việt
Nam và giải pháp hoàn thiện trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp nghiên
cứu có tính chất phổ biến trong khoa học xã hội và nhân văn như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa: được sử dụng để nghiên
cứu các vấn đề lý luận về quản lý thuế nhập khẩu và pháp luật về quản lý thuế nhập
khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu.
- Phương pháp thống kê, phân loại và hệ thống hóa: được sử dụng để thu
thập thông tin, thống kê số liệu, sắp xếp, phân loại các quy định pháp luật và các
vấn đề có cùng bản chất để phục vụ cho việc nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: được sử dụng để đánh giá, bình luận pháp
luật về quản lý thuế nhập khẩu giữa các văn bản pháp luật trong hệ thống pháp luật
Việt Nam với nhau.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thuế nhập khẩu và
pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
- Đánh giá, bình luận thực trạng pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu và chỉ

ra những vấn đề cần lưu ý trong thực tiễn thi hành, đóng góp ý kiến xây dựng hoàn
thiện pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu.
4


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
thiết kế thành 2 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hóa
nhập khẩu và pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam và một số kiến nghị.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ NHẬP
KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ NHẬP KHẨU
ĐỐI VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU
1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập
khẩu
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thuế nhập khẩu
1.1.1.1. Khái niệm thuế nhập khẩu
Theo quan niệm chung, thuế là khoản tiền do các tổ chức, cá nhân nộp cho
Nhà nước để góp phần chia sẻ gánh nặng chi tiêu với Nhà nước trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.
Trong cấu trúc hệ thống thuế ở mỗi quốc gia, thuế nhập khẩu có vai trò và ý
nghĩa thiết thực, không chỉ trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước hàng
năm mà quan trọng hơn, nó còn là công cụ hữu hiệu trong tay Nhà nước để kiểm

soát hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá với nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước
và thực hiện các mục tiêu đối ngoại của Chính phủ trong từng thời kỳ, đối với từng
quốc gia hoặc từng nhóm quốc gia cụ thể. Mặc dù xuất hiện muộn hơn so với một
số sắc thuế nội địa nhưng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã nhanh chóng khẳng
định được vai trò, tác dụng to lớn của mình đối với nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là
vai trò kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá với bên ngoài và bảo hộ nền
sản xuất trong nước1.
Ngày nay, cho dù xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang từng bước ảnh
hưởng đến số phận của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo hướng hạn chế vai trò
của loại thuế này ở mỗi quốc gia song về cơ bản, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vẫn
sẽ là giải pháp quản lý vĩ mô có hiệu quả đối với nền kinh tế trong nước, nhất là đối
1

Xem: Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017.

6


với những quốc gia đang trong quá trình trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế kinh tế thị trường như Việt Nam. Có nhiều cách hiểu khác nhau
về khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, tuỳ thuộc vào từng góc độ tiếp cận.
Xét về phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu được quan niệm là khoản đóng
góp bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp
luật, khi họ có hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá qua biên giới của một nước.
Với cách tiếp cận này, thuế nhập khẩu được quan niệm như là một quan hệ phân
phối các nguồn lực tài chính, phát sinh giữa các chủ thể là tổ chức, cá nhân nộp thuế
với người thu thuế là Nhà nước. Mặt khác, thuế nhập khẩu còn có thể được hiểu
như là đòn bẩy kinh tế hay biện pháp kinh tế để Nhà nước điều tiết trực tiếp đối với
quá trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm vi mỗi quốc gia và chi phối một cách gián
tiếp đối với hoạt động kinh tế trên phạm vi khu vực và toàn cầu.

Xét về phương diện pháp lý, thuế nhập khẩu có thể hình dung như là quan hệ
pháp luật phát sinh giữa Nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp
thuế), theo đó các bên phải thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý đối với nhau
trong quá trình hành thu thuế nhập khẩu. Quan hệ pháp luật này phát sinh từ cơ sở
pháp lý là đạo luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu do Quốc hội ban hành mà hậu
quả pháp lý chủ yếu của việc áp dụng đạo luật đó trong thực tiễn là làm phát sinh
quyền thu thuế cho Nhà nước và nghĩa vụ đóng thuế cho các tổ chức, cá nhân là
người nộp thuế2.
Việc tiếp cận khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ góc độ pháp lý có
nhiều ý nghĩa thiết thực, trước hết là giúp chúng ta nhận diện rõ hơn về bản chất của
thuế nói chung và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng, thực chất là một quyết
định hành chính đơn phương của quốc gia đối với người đóng thuế, hay là một
“thoả thuận” song phương giữa người thu thuế với người nộp thuế? Trên cơ sở lý
thuyết đó, giúp cho Nhà nước hoạch định và thực thi chính sách thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu phù hợp hơn với quyền lợi của quốc gia và của người đóng thuế, xét
trong mối quan hệ lợi ích với các quốc gia khác trong tiến trình hội nhập kinh tế
2

Xem: Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017.

7


quốc tế.
Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá qua
biên giới được điều tiết và kiểm soát bởi hai công cụ chủ yếu là “hàng rào thuế
quan” và “hàng rào phi thuế quan”. Hàng rào thuế quan ở những nước này được
hiểu thực chất là thuế nhập khẩu đánh vào hàng hoá nhập khẩu3, chứ không bao
gồm cả thuế xuất khẩu đánh vào hàng hoá xuất khẩu như Việt Nam hay Trung
Quốc4.

Do có quan niệm khác nhau như trên giữa các nước về nội hàm của khái
niệm “thuế quan” nên chính sách thuế quan của các nước cũng có sự khác nhau. Sở
dĩ có sự khác nhau này trong chính sách thuế quan của các nước là bởi vì, mỗi quốc
gia đều có phong tục, tập quán riêng cần được duy trì, tôn trọng, bảo vệ và quan
trọng hơn, mỗi quốc gia đều có quyền đánh thuế đối với các công dân hay tổ chức
mang quốc tịch nước mình hoặc đối với các công dân, tổ chức nước ngoài có hoạt
động xuất, nhập khẩu hàng hoá diễn ra trên lãnh thổ nước mình. Quyền đánh thuế
của quốc gia chính là cơ sở, là đạo lý cơ bản để Nhà nước - với tư cách là người đại
diện hợp pháp cho quốc gia, ban hành và áp dụng các đạo luật về thuế quan trên
tinh thần của nguyên tắc lãnh thổ và nguyên tắc quốc tịch.
1.1.1.2. Đặc điểm của thuế nhập khẩu
So với các loại thuế nội địa thì thuế nhập khẩu có nhiều điểm khác biệt.
Những điểm khác biệt này bắt nguồn từ bản chất và chức năng của thuế nhập khẩu.
Các đặc trưng này bao gồm5:
Thứ nhất, thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng hoá được phép
vận chuyển qua biên giới. Khái niệm “hàng hoá” là đối tượng chịu thuế nhập khẩu
có thể hiểu theo nghĩa thông thường, bao gồm các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng do con người sản xuất ra và được lưu thông trên thị trường bằng cách chuyển
vào hoặc chuyển ra khỏi biên giới của một nước.
Xem: Khoản 1 Điều 12 Luật hải quan Indonesia; tiết 100 Luật thuế quan trong Bộ luật hải quan Philippines
và Luật thuế hải quan (chống bán phá giá) năm 1975 của Úc.
4
Xem: Điều 53 Luật hải quan Trung Quốc.
5
Xem: Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017.
3

8



Trong xã hội hiện đại ngày nay, xuất hiện ngày càng nhiều loại hàng hoá vô
hình được chuyển vào hoặc ra khỏi biên giới một nước nhưng không phải bằng
phương thức thông thường mà cơ quan Hải quan có thể kiểm soát được. Ví dụ điển
hình cho những loại hàng hoá này chính là những sản phẩm phần mềm công nghệ
thông tin được giao dịch hàng ngày qua mạng máy tính toàn cầu (Internet).
Thứ hai, thuế nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hoặc thuế gián thu.
Điều này thể hiện ở chỗ, khi một nhà nhập khẩu nộp thuế nhập khẩu và tự tiêu dùng
số hàng hoá nhập khẩu đó chứ không bán ra bên ngoài thì khi đó khoản thuế nhập
khẩu đã nộp có tính chất là thuế trực thu, vì chính người nhập khẩu vừa là người
nộp thuế đồng thời là người chịu thuế. Ngược lại, khi nhà nhập khẩu đã nộp xong
thuế nhập khẩu và bán lại số hàng hoá đó cho người khác thì số tiền thuế nhập khẩu
đã nộp có xu hướng chuyển sang cho người mua hàng chịu và do đó, khoản thuế
nhập khẩu này lại có tính chất là thuế gián thu, bởi lẽ người nộp thuế và người chịu
thuế không phải là một.
Thứ ba, thuế nhập khẩu có chức năng đặc trưng là bảo hộ sản xuất trong
nước và điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Chức năng này thể hiện sự khác
biệt căn bản giữa thuế nhập khẩu với các loại thuế nội địa khác như thuế giá trị gia
tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập cá nhân và thuế thu
nhập doanh nghiệp… Tuy nhiên, trải qua thời gian, dưới sức ép của trào lưu hội
nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại, chức năng bảo hộ nền sản xuất trong
nước của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có xu hướng ngày càng giảm sút, để
nhường chỗ cho chức năng tạo nguồn thu ngân sách nhà nước. Ngày nay, do chính
sách thuế nhập khẩu của các nước có xu hướng cắt giảm dần các mức thuế suất
nhằm đáp ứng yêu cầu tự do hoá thương mại quốc tế nên có thể trong tương lai,
ranh giới để phân biệt giữa thuế nhập khẩu và thuế nội địa sẽ trở nên rất mong manh
và thậm chí có thể bị “xoá nhoà” hoàn toàn, khi mà tự do hoá thương mại đã trở
thành xu hướng tất yếu và mang tính hiện thực trên toàn thế giới6.

6


Xem: Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017.

9


1.1.1.3. Vai trò của thuế nhập khẩu
Giống như bất kỳ loại thuế nào, thuế nhập khẩu cũng thể hiện ba vai trò cơ
bản: Một là, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước; hai là, điều tiết hoạt động kinh
tế; ba là, hướng dẫn tiêu dùng trong xã hội. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc trưng cơ
bản của thuế nhập khẩu là đánh vào các hàng hoá nhập khẩu và sau đó được cấu
thành trong giá cả của hàng hoá nhập khẩu nên loại thuế này còn có một vai trò khá
đặc thù, đó là bảo hộ nền sản xuất trong nước và chống lại xu hướng cạnh tranh
không cân sức giữa hàng hoá trong nước với hàng hoá ngoại nhập. Xét trên bình
diện lý thuyết, vai trò này của thuế nhập khẩu được thể hiện ở chỗ: do bị đánh thuế
nhập khẩu nên về lý thuyết, giá cả của loại hàng hoá này trên thị trường nước nhập
khẩu sẽ tăng lên, trong khi đó các hàng hoá được sản xuất trong nước, do không
phải chịu thuế nhập khẩu (hoặc chỉ phải chịu thuế nhập khẩu cho phần nguyên liệu
hay máy móc nhập khẩu) nên giá thành sản phẩm của loại hàng hoá này có xu
hướng rẻ hơn và do đó có sức cạnh tranh lớn hơn so với hàng ngoại nhập. Điều này
cho thấy việc đánh thuế nhập khẩu thực chất là một biện pháp để bảo hộ nền sản
xuất trong nước, khi Chính phủ nhận thấy những bất lợi nghiêng về phía các hàng
hoá được sản xuất từ các doanh nghiệp trong nước7.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng nhập
khẩu
1.1.2.1. Khái niệm quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu
Để làm rõ khái niệm “quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu”,
có lẽ trước hết cần bắt đầu từ việc làm rõ các khái niệm có tính chất tiền đề như
khái niệm “quản lý” và khái niệm “quản lý thuế”.
Theo từ điển Hán Việt của tác giả Đào Duy Anh, “quản lý” được giải nghĩa
là “sắp đặt, chăm nom công việc”8. Tương tự, theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt của


7
8

Xem: Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017.
Xem: Đào Duy Anh, Từ điển Hán Việt, NXB Khoa học Xã hội, trang 154.

10


tác giả Nguyễn Lân, “quản lý” cũng được giải nghĩa là “chăm nom và sắp đặt công
việc trong một tổ chức”9.
Theo từ điển Việt Nam của tác giả Thanh Nghị, “quản lý” được giải nghĩa là
“trông nom, coi sóc”10. Tuy nhiên, các tài liệu này lại không đưa ra một sự giải
nghĩa chính thức nào về thuật ngữ “quản lý thuế” nói chung và “quản lý thuế nhập
khẩu” nói riêng, do đây là những thuật ngữ có tính chất chuyên ngành chứ không
phải là thuật ngữ chung có tính cách phổ biến.
Trong pháp luật thực định (bao gồm cả Luật quản lý thuế mới nhất được ban
hành năm 2019), các nhà làm luật cũng không giải thích thuật ngữ “quản lý thuế” là
gì. Trong khoa học kinh tế và khoa học pháp lý, mặc dù đâu đó đã có những định
nghĩa của một số người nghiên cứu về quản lý thuế nhưng đó chỉ là những định
nghĩa không chính thức. Vì vậy, thực tế này khiến cho việc nghiên cứu lý thuyết về
quản lý thuế trở nên khó khăn hơn.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu lý thuyết về quản lý thuế cho thấy, có hai luồng
quan điểm, ý kiến khác nhau về khái niệm và bản chất của quản lý thuế nói chung
và quản lý thuế nhập khẩu nói riêng.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, quản lý thuế là hoạt động quản lý hành chính
nhà nước về thuế, do cơ quan thuế và các cơ quan hành chính nhà nước khác thực
hiện với tư cách là chức năng quản lý hành chính của nhóm chủ thể này. Quan điểm
này thể hiện cách tiếp cận quản lý thuế theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm hoạt động quản

lý hành chính về thuế của các cơ quan hành chính nhà nước mà thôi.
Ví dụ điển hình cho quan điểm này là: “Quản lý thuế là những biện pháp
nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu ngân sách nhà nước (NSNN) thực hiện”11.
Ngoài ra, tác phẩm này cũng cho rằng quản lý thuế “đó là những hoạt động thường
xuyên của cơ quan thu hướng về phía đối tượng nộp nhằm đảm bảo thu thuế đầy đủ,
kịp thời và đúng luật định”. Với quan niệm như vậy, quản lý thuế được hiểu gần

Xem: Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Hán Việt, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội 2002, trang 555.
Xem: Thanh Nghị, Từ điển Việt Nam, NXB Thời Thế, Sài Gòn, 1958, trang 1063.
11
Xem: Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, “Tài chính công” xuất bản năm 2005.
9

10

11


như đồng nghĩa với quản lý thu thuế. Nó bao gồm việc xây dựng kế hoạch thu thuế,
tổ chức các biện pháp hành thu và tổ chức bộ máy ngành thuế. Theo quan điểm này,
quản lý thuế là quá trình Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ và phương pháp
thích hợp tác động lên đối tượng của quản lý thuế làm cho chúng vận động phù hợp
với mục tiêu đặt ra.
Như vậy, với quan điểm tiếp cận coi quản lý thuế là quản lý hành chính nhà
nước thì đương nhiên chủ thể quản lý thuế sẽ được xác định là Nhà nước (thông qua
các cơ quan nhà nước cụ thể được trao thẩm quyền như cơ quan thuế, cơ quan hải
quan, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp tham gia vào hoạt động quản lý thuế…)
và đối tượng quản lý thuế sẽ là các tổ chức, cá nhân – với tư cách là người nộp thuế.
Cũng theo quan điểm này, các công cụ được Nhà nước sử dụng trong quản lý thuế
chính là pháp luật, là kế hoạch, chính sách và một số công cụ khác.

Pháp luật là công cụ quản lý thuế có tính định hướng và điều tiết quan trọng
nhất. Nó tạo tiền đề để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự ổn định lâu dài của
nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững. Nó tạo
cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ về thuế
giữa các chủ thể kinh tế.
Kế hoạch cũng là một công cụ không thể thiếu trong quản lý thuế. Nếu quản
lý thuế không lên kế hoạch ngắn hạn, trung và dài hạn một cách cụ thể thì không thể
đánh giá so sánh được chất lượng hiệu quả của quản lý thuế qua các từng giai đoạn,
không rút ra được những kinh nghiệm bổ ích phục vụ công tác quản lý thuế. Đặc
biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với nhiều nhân tố tác động đến quản lý
thuế từ trong và ngoài nước, công tác lập kế hoạch và quản trị chiến lược trong quản
lý thuế càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Trong hệ thống các công cụ quản lý, các chính sách được xem là bộ phận
năng động nhất, có độ nhạy cảm cao trước những biến động trong đời sống kinh tế
xã hội của đất nước. Các chính sách về kinh tế rất đa dạng, nhưng đều có tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp tới quản lý thuế. Những chính sách chủ yếu tác động tới
quản lý thuế gồm có chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách cơ cấu kinh tế, chính
12


sách thuế. Chính sách kinh tế đối ngoại thay đổi theo hướng mở cửa, hội nhập sâu
vào nền kinh tế thế giới thì công tác quản lý thuế trở nên khó khăn, phức tạp hơn,
phải đối mặt với những vấn đề mới phát sinh như thuế trùng, giá chuyển nhượng,
cạnh tranh thuế... Chính sách cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng chuyển dịch từ
nông nghiệp, công nghiệp sang dịch vụ thì cơ cấu nguồn thu từ thuế cũng có sự thay
đổi. Chính sách thuế thay đổi để phù hợp với yêu cầu của hội nhập như cắt giảm
thuế quan và tuân theo các nguyên tắc quốc tế thì nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu
cũng bị ảnh hưởng. Ngoài ra, nó có thể tác động tới bộ máy quản lý thuế, chu trình
quản lý thuế. Bộ máy quản lý thuế phải hình thành thêm những phòng chức năng
mới, chu trình quản lý thuế phải thiết kế phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Với những

lý do trên, hệ thống các chính sách kinh tế là công cụ vô cùng quan trọng cần được
xây dựng phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế trong nước và xu thế toàn cầu hóa,
hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng gia tăng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, quản lý thuế là hoạt động của nhiều chủ thể
khác nhau, trong đó có chủ thể là Nhà nước (thông qua các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền) và các tổ chức, cá nhân (trong đó có những người nộp thuế). Quan
điểm này thể hiện cách tiếp cận quản lý thuế theo nghĩa rộng, theo đó quản lý thuế
không chỉ là hoạt động có tính chất quyền lực của Nhà nước, mà còn là hoạt động
có tính cách xã hội và cộng đồng của các tổ chức, cá nhân, trong đó bao gồm cả
những người trực tiếp hoặc gián tiếp nộp thuế cho Nhà nước.
Ở Việt Nam hiện nay, quan điểm này đã được thể hiện khá rõ trong Luật
quản lý thuế 2019, theo đó Khoản 3 Điều 5 đạo luật này quy định một trong những
nguyên tắc quản lý thuế là: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia
quản lý thuế theo quy định của pháp luật”12.
Theo quan điểm này, các yếu tố cấu thành của quản lý thuế có sự khác biệt
nhất định so với quan điểm thứ nhất về quản lý thuế. Cụ thể là:
(i) Về chủ thể quản lý thuế, không chỉ là các cơ quan hành chính nhà nước
mà còn bao gồm rất nhiều chủ thể khác như các cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ
12

Xem: Điều 5 Luật quản lý thuế 2019.

13


quan tư pháp, các tổ chức đoàn thể xã hội, mọi doanh nghiệp và cá nhân, trong đó
bao gồm cả những người trực tiếp nộp thuế cho Nhà nước;
(ii) Về đối tượng quản lý thuế, không chỉ là hoạt động đăng ký, kê khai, nộp
thuế, quyến toán thuế của người nộp thuế mà còn bao gồm cả hoạt động hành thu
thuế, giải quyết khiếu nại về thuế, xét miễn giảm thuế, hoàn thuế hay truy thu thuế

của các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước có thẩm quyền trong quá trình
thực thi công vụ.
Tóm lại, từ sự phân tích các quan điểm trên đây về quản lý thuế, tác giả luận
văn đồng ý với quan điểm thứ hai về quản lý thuế, theo đó cần phải tiếp cận khái
niệm quản lý thuế nói chung và quản lý thuế nhập khẩu nói riêng theo nghĩa rộng.
Với quan điểm như vậy, tác giả cho rằng có thể định nghĩa về quản lý thuế nhập
khẩu như sau:
Quản lý thuế nhập khẩu là hoạt động có mục đích của các chủ thể liên quan
gồm các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân thông qua việc áp dụng những
biện pháp nhất định nhằm đảm bảo cho việc đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế,
quyết toán thuế, truy thu, hoàn thuế, miễn giảm thuế và giải quyết khiếu nại, khởi
kiện về thuế nhập khẩu được thực hiện hiệu quả, đúng pháp luật.
1.1.2.2. Đặc điểm của quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu
Xét về phương diện lý thuyết, có thể cho rằng quản lý thuế nhập khẩu đối với
hàng hóa nhập khẩu thể hiện những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể quản lý thuế nhập khẩu.
Như đã đề cập ở trên, chủ thể tham gia quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng
hóa nhập khẩu bao gồm trước hết là các cơ quan nhà nước (cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp, cơ quan tư pháp), trong đó các cơ quan hành pháp nói chung và cơ
quan thuế, hải quan nói riêng đóng vai trò chủ đạo trong quản lý thuế. Ngoài ra, chủ
thể tham gia quản lý thuế nhập khẩu còn bao gồm các tổ chức, cá nhân, kể cả các tổ
chức, cá nhân là người có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế nhập khẩu.
Thực tế cho thấy, mặc dù thành phần chủ thể tham gia quản lý thuế nhập

14


khẩu tương đối đa dạng nhưng thực tế đa số các ý kiến đều cho rằng chủ thể chính
tham gia quản lý thuế là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như cơ quan thuế, cơ
quan hải quan, các cơ quan hành chính nhà nước khác.

Thứ hai, về đối tượng quản lý thuế nhập khẩu.
Trong khoa học pháp lý, đối tượng quản lý thuế là khái niệm gây nhiều tranh
cãi. Có ý kiến cho rằng: Đối tượng của quản lý thuế là các quan hệ phát sinh trước,
trong và sau quá trình triển khai tổ chức thu nộp thuế cho nhà nước. Các quan hệ
này có thể diễn ra giữa cơ quan thuế với người nộp thuế, giữa người nộp thuế với
nhau, giữa nội bộ cơ quan thuế, thậm chí giữa cơ quan thuế trong nước với cơ quan
thuế các nước khác... Vì vậy, nó hết sức đa dạng và phức tạp đòi hỏi phải có các
công cụ và phương pháp quản lý thích hợp. Quan điểm này coi đối tượng quản lý
thuế chính là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thuế giữa cơ quan thuế với
nhau hoặc với người nộp thuế. Tuy nhiên, quan điểm khác lại cho rằng: Đối tượng
quản lý thuế chính là hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ thuế, ví dụ, hành vi
của người nộp thuế, hành vi của cơ quan thuế hoặc công chức thuế, hành vi của các
tổ chức, cá nhân khác có liên quan (tổ chức cung cấp dịch vụ thuế, tổ chức khấu trừ
thuế tại nguồn…).
Thứ ba, về phương pháp quản lý thuế nhập khẩu.
Về lý thuyết, phương pháp quản lý thuế nói chung và quản lý thuế nhập khẩu
nói riêng bao gồm: phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp
giáo dục... Phương pháp hành chính được sử dụng khi các chủ thể của quản lý thuế
muốn các đòi hỏi của mình phải được khách thể quản lý tuân thủ một cách bắt buộc,
vô điều kiện. Quản lý thuế bằng phương pháp hành chính cần tránh kiểu quản lý
hành chính quan liêu, lạm dụng quyền hành. Sử dụng phương pháp này chỉ có hiệu
quả khi các quyết định mà chủ thể quản lý thuế đưa ra có căn cứ khoa học, được
luận chứng đầy đủ về mặt kinh tế. Sử dụng phương pháp hành chính phải gắn chặt
quyền hạn và trách nhiệm của cấp ra quyết định, mỗi bộ phận, mỗi cán bộ khi sử
dụng các quyền hạn đó. Phương pháp kinh tế được sử dụng thông qua việc dùng lợi
ích vật chất để kích thích tính tích cực của các khách thể quản lý, tức là tác động tới
15


các tổ chức và cá nhân đang thực hiện các hoạt động quản lý thuế nhập khẩu.

Phương pháp kinh tế trong quản lý thuế nhập khẩu thể hiện dưới hình thức khoán,
thưởng, ưu đãi... Phương pháp giáo dục trong quản lý thuế nhập khẩu được sử dụng
thông qua việc Nhà nước tác động vào nhận thức và tình cảm của khách thể quản lý
nhằm nâng cao tính tự giác, tính tích cực của họ trong việc thực hiện các nghĩa vụ
đối với Nhà nước. Nhà nước có thể sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng
như sách, báo, đài phát thanh, truyền hình... sử dụng các đoàn thể, các hoạt động có
tính xã hội để thực hiện tuyên truyền, giáo dục nhằm góp phần quản lý thuế nhập
khẩu tốt hơn.
Thứ tư, về mục tiêu quản lý thuế nhập khẩu.
Tùy vào đặc điểm của từng nước mà quản lý thuế nói chung và quản lý thuế
nhập khẩu nói riêng sẽ có các mục tiêu khác nhau. Nhìn chung, quản lý thuế nhập
khẩu ở các nước thường nhằm vào các mục tiêu cơ bản như:
Một là, phải tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN trên cơ sở
không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Thuế là nguồn thu chủ yếu của
NSNN ở hầu hết các nước trên thế giới. Thuế tài trợ cho các hoạt động cơ bản của
chính phủ. Vì vậy, quản lý thuế phải hướng đến việc khai thác tối đa nguồn thu này.
Tuy nhiên, để tăng trưởng và ổn định số thu của NSNN trong tương lai, công tác
quản lý thuế cũng cần chú ý duy trì và phát triển các cơ sở tạo ra nguồn thu thuế.
Không nên thu thuế với thuế suất quá cao, thu thuế bằng mọi giá. Xây dựng một
chính sách thuế phải phối hợp với việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô
khác. Các chính sách thuế của nhà nước, dù trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động
đến thu nhập của các tổ chức kinh tế và cá nhân, tác động đến các hoạt động kinh tế
- cơ sở tạo ra nguồn thu thuế trong tương lai.
Hai là, phải tối thiểu hóa chi phí để từ đó nâng cao hiệu quả quản lý thuế
nhập khẩu.
Chi phí cho quản lý thuế nhập khẩu trước hết là những chi phí của chính phủ
liên quan đến quản lý thuế. Nó bao gồm chi phí trả lương cho đội ngũ cán bộ ngành

16



thuế hay hải quan, chi phí in ấn tài liệu, ghi chép lưu giữ sổ sách hóa đơn chứng từ,
chi cho cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc, chi phí tư vấn cho người nộp thuế,
chi phí khác... Ngoài ra, chi phí cho quản lý thuế nhập khẩu còn phải kể đến các chi
phí tuân thủ của người nộp thuế. Nếu Nhà nước chỉ quan tâm đến tối thiểu hóa chi
phí cho bộ máy hành thu, đẩy gánh nặng chi phí cho người nộp thuế thì không giải
quyết được một cách căn cơ mối quan hệ giữa cơ quan thuế với người nộp thuế. Sở
dĩ như vậy là bởi vì, nếu người nộp thuế phải gánh chịu các chi phí cao của viêc
tuân thủ pháp luật thuế thì tất yếu họ sẽ phản ứng bằng cách tránh thuế, trốn thuế
hoặc dây dưa nộp thuế, từ đó gây khó khăn cho cơ quan thuế trong quá trình hành
thu.
Ba là, phát huy tối đa vai trò của thuế trong nền kinh tế.
Vai trò của thuế nói chung và thuế nhập khẩu nói riêng mang tính toàn diện
trên nhiều lĩnh vực. Thuế (trong đó có thuế nhập khẩu) là nguồn thu chủ yếu của
NSNN, là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, điều tiết thu nhập, giảm bớt chênh lệch
giàu nghèo, thuế góp phần kiểm tra, giám sát các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Song, những vai trò đó không mang tính khách quan, mà nó là kết quả của những
tác động từ phía con người. Những tác động này được thực hiện thông qua những
nội dung, những công việc cụ thể của công tác quản lý thuế nhập khẩu.
Bốn là, tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các tổ chức kinh tế và
dân cư. Quản lý thuế nhập khẩu là một trong những nội dung cơ bản của quản lý tài
chính nhà nước. Giống như các hoạt động quản lý khác, quản lý thuế nhập khẩu
cũng phải thông qua công cụ luật pháp, chính sách để điều chỉnh hành vi của các cá
nhân, các tổ chức kinh tế. Đồng thời, trong quá trình triển khai thực hiện các chính
sách đó, bằng công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế, ý thức chấp hành
pháp luật thuế của người dân được nâng cao. Ý thức chấp hành pháp luật thể hiện
trình độ phát triển của một xã hội văn minh, hiện đại, theo đó Nhà nước phải quản
lý bằng luật pháp, mọi tổ chức, cá nhân, kể cả Nhà nước cũng phải hoạt động trong
khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.


17


1.1.3. Nội dung quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu
Trong khoa học kinh tế và khoa học pháp lý hiện nay, không có một quan
điểm chính thống nào về nội dung quản lý thuế nói chung và quản lý thuế nhập
khẩu nói riêng. Do đó, có thể tham chiếu quan điểm của nhà làm luật tại Điều 4
Luật quản lý thuế 2019 để xác định các nội dung cơ bản về quản lý thuế bao gồm
các khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, hoạt động đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế nhập
khẩu. Đây là một trong những thủ tục ban đầu để giúp Nhà nước nắm được đầy đủ
thông tin về người nộp thuế nhập khẩu và các hoạt động làm phát sinh nghĩa vụ
thuế nhập khẩu, thông qua đó góp phần quản lý thuế hiệu quả nhất.
Thứ hai, hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, không thu thuế nhập khẩu. Đây là
một nội dung của công tác quản lý thuế nhập khẩu nhằm đảm bảo việc thu thuế hợp
lý, đúng pháp luật, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp
thuế nhập khẩu. Việc Nhà nước ra quyết định hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế hoặc
không thu thuế nhập khẩu được xem là các quyết định hành chính của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Thứ ba, khoanh tiền thuế nợ; xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; miễn
tiền chậm nộp, tiền phạt; không tính tiền chậm nộp; gia hạn nộp thuế; nộp dần tiền
thuế nợ. Về lý thuyết, có thể nhận thấy việc khoanh tiền thuế nợ; xóa nợ tiền thuế,
tiền chậm nộp, tiền phạt, miễn tiền chậm nộp, tiền phạt, không tính tiền chậm nộp,
gia hạn nộp thuế, nộp dần tiền thuế nợ được xem là hoạt động quản lý thuế nói
chung và quản lý thuế nhập khẩu bởi vì, thông qua việc việc khoanh tiền thuế nợ,
xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt, miễn tiền chậm nộp, tiền phạt, không tính
tiền chậm nộp, gia hạn nộp thuế, nộp dần tiền thuế nợ, Nhà nước có thể đạt được
các mục tiêu quản lý của mình.
Thứ tư, quản lý thông tin người nộp thuế. Việc quản lý thông tin người nộp
thuế được xem là một nội dung quản lý thuế bởi vì, thông qua việc nắm bắt thông

tin về người nộp thuế, Nhà nước có thể kiểm soát được các hoạt động làm phát sinh
nghĩa vụ thuế đối với người nộp thuế, ví dụ như doanh thu, chi phí, lợi nhuận (đối
18


với thuế thu nhập doanh nghiệp), người phụ thuộc thuộc diện được giảm trừ gia
cảnh (đối với thuế thu nhập cá nhân)...
Thứ năm, quản lý hóa đơn, chứng từ. Sở dĩ việc quản lý hóa đơn, chứng từ
được xem là nội dung quản lý thuế bởi vì, các hóa đơn chứng từ có ý nghĩa rất quan
trọng đối với Nhà nước trong việc kiểm soát hoạt động kinh doanh của người nộp
thuế, từ đó giúp Nhà nước xác định chính xác thông tin về doanh thu, chi phí và lợi
nhuận của người nộp thuế để xác định số thuế phải nộp đối với người nộp thuế.
Thứ sáu, kiểm tra thuế, thanh tra thuế và thực hiện biện pháp phòng, chống,
ngăn chặn vi phạm pháp luật về thuế. Trong quản lý nhà nước nói chung và quản lý
thuế nhập khẩu nói riêng, việc kiểm tra, thanh tra thuế và thực hiện các biện pháp
phòng chống, ngăn chặn vi phạm pháp luật thuế là hoạt động có tính tất yếu khách
quan, xuất phát từ bản chất của quan hệ quản lý nhà nước về thuế nhập khẩu. Vì
vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý thuế nhập khẩu thì nhất thiết phải thực hiện công
tác thanh tra, kiểm tra thuế, thông qua việc quy định chức năng, nhiệm vụ cho các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quản lý thuế nhập khẩu.
Thứ bảy, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế. Thực tế
cho thấy không phải khi nào người nộp thuế cũng tự giác tuân thủ, tự giác thực hiện
các quyết định hành chính về thuế (ví dụ: quyết định ấn định thuế, quyết định xử
phạt vi phạm hành chính về thuế, quyết định truy thu thuế…). Vì vậy, việc cưỡng
chế thi hành các quyết định hành chính này trở nên cần thiết trong công tác quản lý
thuế nói chung và quản lý thuế nhập khẩu nói riêng, góp phần đảm bảo tính hiệu
quả cho công tác quản lý thuế.
Thứ tám, xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế. Trong quản lý thuế
nói chung và quản lý thuế nhập khẩu nói riêng, nếu đã không tránh được việc vi
phạm pháp luật thuế thì cũng không thể tránh được việc xử lý hay áp dụng chế tài

đối với các hành vi vi phạm đó. Chính vì vậy, việc thiết kế một hệ thống chế tài
hoàn chỉnh, hợp lý nhằm xử lý khách quan, chính xác đối với các hành vi vi phạm
pháp luật về thuế nói chung và về quản lý thuế nói riêng là rất cần thiết. Thực tế cho
thấy, ở các quốc gia trên thế giới đều quan tâm, chú ý đến việc xây dựng các chế tài
19


này, trong đó bao gồm chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài dân sự và chế tài
kỷ luật.
Thứ chín, giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế. Quan hệ thuế nói chung và
quan hệ quản lý thuế nói riêng vốn dĩ liên quan trực tiếp đến vấn đề lợi ích của các
chủ thể hoặc nhóm chủ thể. Chính vì vậy, việc xung đột, mâu thuẫn hay bất đồng về
phương diện lợi ích giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế là điều khó
tránh khỏi, từ đó làm phát sinh nhu cầu giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc giải quyết
tranh chấp về thuế, trong đó có thuế nhập khẩu.
Thứ mười, hợp tác quốc tế về thuế và tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế.
Trong bối cảnh thế giới “phẳng” như ngày nay, hợp tác và chia sẻ thông tin, kinh
nghiệm giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ về công tác quản lý thuế là điều tất yếu.
Chính vì vậy, việc hợp tác quốc tế về thuế và tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế
luôn được các quốc gia chú ý phát triển và đã trở thành một xu hướng tất yếu trong
quản trị quốc gia hiện đại.
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng
hóa nhập khẩu
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và cấu trúc của pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu
Trong hoạt động kinh tế nói chung, pháp luật về quản lý thuế nói chung và
quản lý thuế nhập khẩu nói riêng là một chế định tương đối đặc thù của pháp luật
thuế. Tính đặc thù của chế định này thể hiện ở chỗ, chế định pháp luật về quản lý
thuế chủ yếu bao gồm các quy phạm pháp luật về hình thức. Trong pháp luật về
thuế thì Luật quản lý thuế là văn bản pháp luật quan trọng nhất, có nhiệm vụ quy
định những vấn đề cơ bản trong quản lý thuế nói chung và quản lý thuế nhập khẩu

nói riêng như: chủ thể và quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quản lý thuế; nội
dung và các nguyên tắc quản lý thuế; trình tự, thủ tục quản lý thuế...
Từ quan điểm nhận thức như vậy, tác giả luận văn cho rằng có thể đưa ra
khái niệm pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu như sau:
Pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do

20


×