Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.32 KB, 76 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Để đảm bảo phát triển kinh tế xã hội ổn định, bền vững và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay, việc hoàn thiện các chính sách tài
chính trong đó có hệ thống chính sách thuế nói chung, thuế thu nhập cá nhân nói
riêng là việc hết sức cần thiết, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phân bổ nguồn lực
đồng thời giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, giữa
tăng trưởng với công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo.
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ X về chính sách
thuế theo hướng “Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi
đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển …”,
Luật thuế thu nhập cá nhân đã được Quốc hội khóa XII thơng qua ngày 21 tháng
11 năm 2007 nhằm mục đích đảm bảo cơng bằng trong điều tiết thu nhập của các
tầng lớp dân cư, góp phần hạn chế khoảng cách về thu nhập trong xã hội và
khuyến khích mọi cá nhân lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập để
làm giàu chính đáng. Tuy nhiên để Luật thuế thu nhập cá nhân phát huy hết tính
hiệu quả và mục tiêu ban đầu đã được đặt ra thì yếu tố quyết định chính là cơng
tác quản lý thuế thu nhập cá nhân. Hiện nay khi mà nền kinh tế của nước ta ngày
càng phát triển, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước để giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh xã
hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế ... cũng ngày càng gia tăng, thêm vào đó,
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến việc thu ngân sách cũng thay đổi theo
hướng nguồn thu từ tích luỹ trong nước được tăng dần và chiếm tỷ trọng ngày
càng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước. Thuế thu nhập cá nhân cũng như
các sắc thuế khác đều góp phần ổn định thu cho ngân sách nhà nước trong quá
trình hội nhập. Chính vì vậy, việc quản lý thuế thu nhập cá nhân cần phải từng
1


bước thực hiện được việc quản lý các đối tượng nộp thuế và các khâu trong quá
trình thực hiện việc thu thuế, tiến tới kiểm soát được thu nhập nhưng vẫn phải


đảm bảo tính cơng bằng, minh bạch và cơng khai nhằm hướng tới mục tiêu phục
vụ cho công tác hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và
Nhà nước trong từng thời kỳ, mà cụ thể là Chiến lược cải cách và hiện đại hóa hệ
thống thuế giai đoạn 2006-2010 và cho giai đoạn tiếp theo 2011-2020.
Trước thực tế là Luật thuế thu nhập cá nhân đã được đưa vào triển khai thực
hiện được hơn một năm với khối lượng công việc lớn, và tâm lý người dân vẫn
chưa thực sự quan tâm đến thuế thu nhập cá nhân, thì địi hỏi cơng tác quản lý
cần phải được tổ chức và thực hiện một cách có hệ thống nhằm mục đích để Luật
thuế thu nhập cá nhân có tính khả thi cao nhất, mọi người dân đều có kiến thức
và ý thức tự giác trong việc chấp hành các quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến
thuế thu nhập cá nhân.
Với mong muốn tìm hiểu một cách cụ thể hơn về quản lý thuế thu nhập cá
nhân và hệ thống pháp luật điều chỉnh nó, góp phần nghiên cứu và tìm ra các
định hướng hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý thuế hiện đại trong quá
trình hội nhập hiện nay, em đã lựa chọn đề tài : “Pháp luật về quản lý thuế thu
nhập cá nhân ở Việt Nam hiện nay”.
Mục đích nghiên cứu đề tài : Tìm hiểu, nghiên cứu các nội dung của công
tác quản lý thuế thu nhập cá nhân trên cơ sở các quy định pháp luật có liên quan,
từ đó hệ thống và đưa ra các phương hướng phát triển và thực hiện trong giai
đoạn tới nhằm hướng tới mục tiêu cơ bản của quản lý thuế là đảm bảo công bằng
trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư và ổn định nguồn thu cho ngân
sách nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu : Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu, trong đó có phương pháp phân tích, phương pháp khảo nghiệm và tổng kết
2


thực tiễn, phương pháp định tính, định lượng … và hệ thống các thông tin liên
quan tới quản lý thuế thu nhập cá nhân.


Kết cấu khóa luận bao gồm 3 phần :
Chương I : Những vấn đề cơ bản về thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế
thu nhâp cá nhân.
Chương II: Thực trạng pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân hiện nay.
Chương III: Phương hướng hoàn thiện và phát triển hệ thống quản lý thuế
thu nhập cá nhân trong giai đoạn tới.

3


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN VÀ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN :
1.Khái niệm về thuế thu nhập cá nhân :
Thuế Thu nhập cá nhân là một trong các sắc thuế xuất hiện khá sớm trong
lịch sử phát triển thuế của hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là là những
nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế
vận động theo cơ chế thị trường đều coi thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế có
tầm quan trọng lớn trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách và thực hiện
cơng bằng xã hội. Có thể có một khái niệm tổng quát về thuế thu nhập cá nhân
như sau :
“ Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là sắc thuế trực thu đánh vào thu nhập
chịu thuế của cá nhân có được trong kỳ tính thuế.”(Thu nhập chịu thuế của các
cá nhân trong kỳ tính thuế là khoản thu nhập có được sau khi trừ các chi phí liên
quan để tạo ra thu nhập).
Thuế thu nhập cá nhân còn được gọi là thuế thu nhập dân cư áp dụng từ rất
lâu ở các nước phát triển. Thuế thu nhập cá nhân được áp dụng lần đầu tiên ở Anh
vào năm 1799, sau đó là Nhật (1887), Đức (1891), Mỹ (1913), Pháp ( 1914),
Trung Quốc ( 1936). Ở Việt Nam thì Miền Nam Việt Nam thời Việt Nam Cộng
hịa đã áp dụng loại thuế này năm 1962. Hiện nay trên thế giới có trên 140 quốc
gia áp dụng loại thuế này.

Thuế Thu nhập cá nhân ở nước ta lần đầu tiên được Quốc hội ban hành dưới
hình thức Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 1990, và
chính thức có hiệu lực từ ngày 01/04/1991. Cho đến năm 2004, Pháp Lệnh đã qua
6 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1992, 1993,1994, 1997, 1999, 2001, 2004. Sở
dĩ tới năm 2004, Nhà nước ta chưa ban hành một văn bản Luật thuế thu nhập cá
nhân hồn chỉnh vì trong giai đoạn đầu chuyển đổi nền kinh tế lúc đó, các thành
4


phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa phát triển, các thị trường đang trong quá trình
hình thành, thu nhập dân cư nhìn chung cịn thấp và chưa đa dạng (chủ yếu là tiền
lương, tiền cơng). Trong bối cảnh đó, Nhà nước đã sử dụng 3 sắc thuế để động
viên cho phù hợp với từng loại thu nhập: đối với thu nhập của cá nhân kinh
doanh áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp; đối với người có thu nhập từ tiền
lương tiền cơng cao hơn mức bình qn xã hội áp dụng Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao (gọi tắt là Pháp lệnh thuế thu nhập cao); đối
với người chuyển quyền sử dụng đất, áp dụng Luật thuế chuyển quyền sử dụng
đất. Áp dụng chính sách thuế như vậy trong giai đoạn hơn 15 năm khi đó là phù
hợp, đã góp phần phát huy tác dụng trong quản lý và thu ngân sách.
Trong những năm gần đây, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm (giai đoạn 2006 – 2010), các thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường vốn, thị
trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học cơng nghệ đang có
những sự phát triển mạnh mẽ hơn. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh tạo điều
kiện cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đầu tư, sản xuất kinh doanh, có thêm
nhiều nguồn thu nhập khác nhau: thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền cơng,
từ dịch vụ và đầu tư tài chính… Bên cạnh đó, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, số người nước ngoài đến làm ăn sinh sống tại Việt Nam và số người Việt
Nam có thu nhập từ nước ngồi cũng sẽ tăng lên.
Trước tình hình trên, Pháp lệnh thuế thu nhập dành cho người có thu nhập
cao 2004 và một số văn bản pháp luật khác đã bộc lộ một số hạn chế: chưa thực

sự đảm bảo cơng bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế vì cùng là thu nhập của cá
nhân nhưng thu nhập từ kinh doanh thì khơng được trừ khởi điểm và nộp thuế
theo mức 28%, trong khi thu nhập từ tiền công, tiền lương trên mức khởi điểm 5
triệu đồng/tháng mới phải nộp thuế và áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần từ
10% đến 40%; còn áp dụng biểu thuế khác nhau giữa người Việt Nam và người
nước ngoài, người Việt Nam phải nộp thuế cao hơn người nước ngoài. Chính sách
5


thuế hiện hành cũng chưa phù hợp với thông lệ quốc tế: chưa có một chính sách
thuế điều tiết thống nhất đối với thu nhập của cá nhân.Chính vì vậy, ngày
20/11/2007, tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá XII năm 2007, với tổng số 79,11%
số phiếu tán thành, các Đại biểu đã nhất trí thơng qua Luật Thuế thu nhập cá nhân
2007 và thống nhất là sau ngày 01/01/2009 Bộ Luật sẽ chính thức có hiệu lực.
Việc thơng qua luật thuế thu nhập cá nhân 2007 góp phần đảm bảo tính hợp lý,
cơng bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế và hạn chế sự gia tăng khoảng
cách chênh lệch giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời Nhà nước sẽ nắm
được thông tin về thu nhập của cá nhân góp phần phịng, chống tham nhũng, lãng
phí.
Thuế thu nhập cá nhân được xây dựng trên các ngun tắc "lợi ích", "cơng
bằng" và "khả năng nộp thuế". Theo đó mọi người trong xã hội đều được hưởng
những thành quả phát triển của đất nước về thể chế luật pháp, cơ sở hạ tầng, phúc
lợi xã hội, an ninh trật tự ... đồng thời cũng có nghĩa vụ đóng góp một phần thu
nhập của mình cho xã hội thông qua việc nộp thuế. Nguyên tắc "công bằng" và
“khả năng nộp thuế” thể hiện ở chỗ: người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều
hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hồn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế
ít hơn, người có thu nhập thấp chưa phải nộp thuế.
Luật thuế thu nhập cá nhân đã thể hiện được tính cần thiết của nó. Việc ban
hành Luật thuế thu nhập cá nhân là thể chế hoá chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tài chính; nhằm đảm bảo ổn định nguồn lực

cho ngân sách nhà nước và tăng cường công tác kiểm sốt, phân phối thu nhập và
điều tiết vĩ mơ nền kinh tế- xã hội.
Trong hệ thống thuế của Việt Nam, ngoài các loại thuế quan trọng như thuế
giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biêt,thuế thu nhập doanh
nghiệp … thì thuế thu nhập cá nhân cũng góp một phần khơng nhỏ vào việc tăng
thu ngân sách Nhà nước, góp phần đảm bảo chức các chức năng khác như điều
6


tiết nền kinh tế vĩ mô và tạo ra sự bình đẳng, cơng bằng Xã hội và điều tiết thu
nhập, tiết kiệm của người dân. Thuế thu nhập cá nhân mang một số đặc điểm cơ
bản sau:
+ Đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân có thể được xác định theo một trong
hai căn cứ là tình trạng cư trú và nguồn gốc của thu nhập.
+ Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu nên người nộp thuế cũng chính
là người chịu thuế.
+ Thuế thu nhập cá nhân có diện thu thuế rất rộng, tất cả các cá nhân có
thu nhập bao gồm: cơng dân nước sở tại và người nước ngồi cư trú thường
xun hay khơng thường xuyên tại nước đó và hầu như tất cả số thu nhập có
được của các cá nhân đều phải tính thuế không kể nguồn thu nhập phát sinh
trong nước hay ngồi nước. Chính vì vậy, khả năng tạo nguồn thu cho ngân
sách của thuế thu nhập cá nhân rất cao.
+ Xét về góc độ kinh tế, thuế thu nhập cá nhân có tính trung lập cao hơn so
với các loại thuế khác vì việc tăng hay giảm thuế thu nhập cá nhân hầu như
không kéo theo những biến đổi về cơ cấu kinh tế
+ Thuế thu nhập cá nhân là khoản đóng góp khơng hồn trả trực tiếp cho
người nộp. Nó vận động một chiều, khơng phải là khoản thù lao mà người nộp
thuế phải trả cho Nhà nước do được hưởng các dịch vụ Nhà nước cung cấp.
2.Khái niệm về Quản lý thuế thu nhập cá nhân :
Quản lý thuế là một phần rất quan trọng của quản lý tài chính Nhà nước.

Quản lý thuế là những biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu ngân
sách thực hiện. Khi Nhà nước đặt ra thuế để tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà
nước thì cũng cần phải quản lý và tổ chức một hệ thống để lập kế hoạch thu thuế,
tổ chức thu thuế, kiểm tra, thanh tra và xử phạt thuế, đó cũng chính là những
nghiệp vụ cơ bản của quá trình quản lý thuế.
Quản lý thuế là nhưng hoạt động thường xuyên của cơ quan thuế hướng
7


về phía đối tượng nộp thuế nhằm đảm bảo thu thuế đầy đủ, đúng pháp luật và
kịp thời vào ngân sách Nhà nước. Cơng tác quản lý thuế góp phần vào hỗ trợ và
bảo đảm quyền công dân thực hiền quyền và nghĩa vụ của mình trước pháp
luật. Do đó, cơ quan nhà nước. tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia quản lý
thuế.
Quản lý thuế thu nhập cá nhân là sự tác động có định hướng của các
cơ quan chức năng trong bộ máy nhà nước đối với q trình tính và thu thuế
thu nhập cá nhân để nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách và đạt được các mục
tiêu nhà nước đặt ra.
Quản lý thuế thu nhập cá nhân tuân thủ theo các nguyên tắc đã được khẳng
định trong Điều 4 Luật quản lý thuế 2006, đó là :
+ Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nộp thuế theo quy
định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ
chức, cá nhân đều có trách nhiệm tham gia quản lý thuế.
+ Việc quản lý thuế được thực hiện theo quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan.
+ Việc quản lý thuế phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng; bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.
Công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân nhằm đạt được các mục tiêu cơ bản
sau:
+ Tăng cường tập trung, huy động đầy đủ và kịp thời số thu cho ngân

sách nhà nước trên cơ sở không ngừng bổ sung và phát triển nguồn thu. Thuế
thu nhập cá nhân chiếm tỉ trọng chủ yếu trong số thu ngân sách nhà nước ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, làm tốt cơng tác quản lý thuế thu
nhập nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng sẽ có tác dụng lớn trong việc
tập trung, huy động đầy đủ và kịp thời số thu cho ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, thuế thu nhập cá nhân tác động trực tiếp đến thu nhập của các
8


cá nhân, có thể làm giảm nỗ lực làm việc và gây nên các phản ứng ngay lập
tức từ phía chịu thuế như hành vi trốn thuế... Để tăng cường và ổn định số thu
ngân sách nhà nước trong tương lai, công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân cũng
cần được chú ý để duy trì và phát triển cơ sở tạo nguồn thu thuế thu nhập của các
cá nhân.
+ Góp phần tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các tổ chức kinh tế
và dân cư :
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước thông qua công cụ luật pháp để tác
động vào nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Ý thức chấp hành luật pháp của các tổ
chức kinh tế và dân cư sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện những
tác động này. Qua công tác tổ chức thực hiện và thanh tra việc chấp hành các
luật thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng, cùng với việc tăng
cường tính pháp chế của chính sách thuế này, ý thức chấp hành chính sách thuế
sẽ được nâng cao, từ đó tạo thói quen “sống và làm việc theo pháp luật”.
Ở các nước phát triển, thu nhập trung bình của người dân cao nên thuế thu
nhập cá nhân đã trở nên vô cùng quen thuộc. Do là thuế trực thu nên tác động
của thuế thu nhập cá nhân mang tính trực tiếp, đối tượng chịu thuế có thể cảm
nhận được ngay. Họ biết mình phải nộp thuế và dần trở nên quen thuộc với việc
này. Từ đó, người dân sẽ nhận thức được rõ hơn về nghĩa vụ nộp thuế của mình.
Chính vì vậy, họ sẽ có ý thức rõ ràng hơn về tính pháp chế của chính sách thuế,
từ đó nâng cao ý thức chấp hành chính sách này. Cịn ở các nước đang phát

triển, do thu nhập dân cư còn thấp nên thuế thu nhập cá nhân là vấn đề còn mới
mẻ với khá nhiều người. Người dân vẫn phải nộp thuế nhưng có cảm nhận ít hơn
về tác động của thuế, thậm chí khơng biết gì đến thuế vì chủ yếu là thuế gián thu.
Người dân mua hàng hóa, dịch vụ với giá cả đã có thuế trong đó. Do đó, ý thức
về nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước nhìn chung là thấp hơn.
+ Phát huy tốt nhất vai trò của thuế thu nhập cá nhân trong nền kinh tế như
9


tăng cường cơng tác kiểm sốt, phân phối thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tếxã hội.. Tuy nhiên việc phát huy những vai trị đó khơng thể tự nó đạt được mà
để có kết quả thì việc thực hiện đó phải thơng qua những nội dung cơng tác quản
lý thuế thu nhập cá nhân.
2.1. Nội dung công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân
Như đã nói ở trên, quản lý thuế là một phần quan trọng của quản lý tài chính
Nhà nước, nó bao gồm các nội dung cơ bản sau :
- Ban hành hệ thống chính sách, pháp luật thuế thu nhập cá nhân.
- Tổ chức triển khai và thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân.
- Thanh tra, kiểm tra các sai phạm trong quá trình thực hiện.
Nội dung chi tiết được thể hiện qua các quá trình cơ bản như đăng ký thuế,
kê khai thuế, nộp thuế, thông báo ấn định thuế, miễn thuế, giảm thuế, thủ tục hoàn
thuế, kiểm tra thuế, thanh tra thuế, điều tra thuế, cưỡng chế thuế, xử lý vi phạm
pháp luật thuế, khiếu nại, tố cáo …
2.1.1.Ban hành hệ thống chính sách, pháp luật thuế thu nhập cá nhân :
Xây dựng hệ thống pháp luật về thuế thu nhập cá nhân để đảm bảo yêu cầu
hợp lý, chặt chẽ, có tính khả thi cao và là cơ sở để mọi người tuân theo và thực
hiện luôn là một mục tiêu được đề ra hàng đầu của các nhà làm luật Việc ban
hành chính sách thuế thu nhập cá nhân của cơ quan lập pháp là Ủy Ban thường
vụ Quốc hội và được Quốc hội thông qua. Bên cạnh đó các văn bản dưới luật,
nghị định, thơng tư của Chính Phủ, của Bộ Tài Chính và các cơ quan chuyên
ngành khác sẽ tạo ra những quy phạm pháp luật cơ bản làm cơ sở để thi hành

pháp luật thuế thu nhập cá nhân. Đồng thời, việc ban hành chính sách cũng nhằm
đưa ra những căn cứ để kiểm tra, thanh tra, và áp dụng các chế tài đối với q
trình này.
Để mỗi cơng dân đều sống và làm việc theo pháp luật thì chính sách
thuế thu nhập cá nhân cần được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản như
10


sau:
Trước hết, việc xây dựng các văn bản pháp luật và chính sách thuế cần
đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng và chặt chẽ. Vì loại thuế thu nhập cá nhân khá
phức tạp nên nguyên tắc này cần được đảm bảo để hạn chế hành vi trốn thuế của
các đối tượng nộp thuế.
Thứ hai, quy định trong chính sách thuế thu nhập cá nhân phải đảm bảo
được yêu cầu đặt ra trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước,
đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và đảm bảo tính cơng bằng đối
với cả người nộp thuế và xã hội.
Thứ ba, quy định trong chính sách thuế thu nhập cá nhân cũng cần đảm bảo
tính cơng bằng đối với người nộp thuế và xã hội. Thuế thu nhập cá nhân đóng vai
trị phân phối lại thu nhập trong xã hội, giảm bớt sự cách biệt quá lớn về mức
sống giữa các cá nhân trong xã hội nhưng cũng cần động viên sự phấn đấu làm
việc của người lao động. Các quy định phải đảm bảo cho thu nhập thực tế sau
khi nộp thuế của các đối tượng nộp thuế tương xứng với công sức lao động và
sự đóng góp của họ
Ngồi u cầu cơ bản trên, để đảm bảo chính sách thuế thu nhập cá nhân
phát huy hiệu quả cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho quá trình triển khai
thực hiện, bao gồm: Phát triển mạnh hệ thống thanh toán qua ngân hàng,
không dùng tiền mặt bằng các phương pháp bắt buộc và khuyến khích tự
nguyện; cải tiến và hồn thiện chế độ kế tốn, thống kê, thơng tin, báo cáo để tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt đối với

cá nhân, hộ gia đình tự doanh; Phát triển hệ thống dịch vụ kế toán, tư vấn, kê
khai thuế chuyên nghiệp; Tăng cường phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ
quan quản lý nhà nước, các tổ chức cá nhân có liên quan. Nâng cao vai trò và
thẩm quyền của cơ quan thuế trong việc kiểm tra, kiểm soát, thanh tra thuế,
cưỡng chế thuế; Tăng cường tuyên truyền, vận động sâu rộng về chính sách
11


thuế thu nhập cá nhân xây dựng cơ chế tiếp thu ý kiến thông tin phản hồi từ
người nộp thuế; Tăng cường hợp tác, tranh thủ trợ giúp kỹ thuật của các tổ chức
tài chính, tiền tệ quốc tế để xây dựng chính sách thuế thu nhập cá nhân theo các
tiêu chuẩn hiện đại và đảm bảo phù hợp thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, việc xây
dựng một sắc thuế thu nhập cá nhân hồn chỉnh, có thể thỏa mãn đầy đủ các
nguyên tắc trên là một điều hết sức khó khăn. Chính vì vậy, mỗi quốc gia khi
xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân cho nước mình cần phải căn cứ vào tình
hình thực tế, hiệu quả và chi phí kinh tế để quyết định xem cần chú trọng vào
vấn đề nào hơn.
2.2.2.Tổ chức triển khai và thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân.
2.2.2.1.Tuyên truyền và phổ biến luật thuế thu nhập cá nhân :
Cũng giống như pháp luật của bất cứ một lĩnh vực nào, muốn được triển khai
và thi hành một cách sâu rộng và có hiệu quả thì địi hỏi việc tun truyền, giáo
dục và phổ biến các quy định pháp luật đó tới tất cả mọi tầng lớp người dân trong
Xã hội phải được tiến hành đều đặn, thường xuyên. Pháp luật thuế thu nhập cá
nhân cũng vây, trên cơ sở đã được cơ quan quyền lực Nhà nước phê chuẩn và ban
hành, việc đưa các phương pháp tính thuế, nộp thuế, cách thức kê khai, đăng ký,
cấp mã số thuế cá nhân… phải được phổ cập tới mọi đối tượng nộp thuế - cũng là
nhằm nâng cao kiến thức và ý thức tự giác chấp hành của mọi người trong việc
chấp hành Luật thuế thu nhập cá nhân, tăng thu ngân sách Nhà nước, phục vụ
hiệu quả cho việc giải quyết các vấn đề của kinh tế - xã hội .
2.2.2.2. Thực hiện các quy trình đăng ký, khai và nộp thuế :

+ Quản lý đối tượng nộp thuế : Công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân hiệu
quả hay khơng đều phụ thuộc vào việc này. Chính vì thế, một hệ thống kiểm soát
chặt chẽ, thống nhất là điều rất cần, bên cạnh đó phương thức áp dụng cơng nghệ
thông tin và cấp mã số thuế với nguyên tắc mỗi đối tượng nộp thuế chỉ được gắn
12


một mã số cá nhân duy nhất. Mọi hồ sơ, thông tin cần thiết về đối tượng nộp thuế
sẽ được lưu giữ vào hệ thống. Đây là phương thức quản lý hiện đại mà rất nhiều
quốc gia trên thế giới đã áp dụng, giúp tiết kiệm được chi phí quản lý thuế.
+ Quy trình khai thuế và nộp thuế : Có hai dạng quy trình quản lý thu thuế
khác nhau. Quy trình đầu tiên đó là cơ quan thuế tính và ra thông báo số thuế phải
nộp. Phương thức này đảm bảo việc tính tốn chính xác số thuế mà cá nhân phải
nộp, tuy nhiên khối lượng công việc mà cơ quan thuế sẽ phải đảm nhận là rất
nhiều và phức tạp, đặc biệt trong hồn cảnh hiện nay thì số lượng nộp thuế thu
nhập cá nhân ngày càng nhiều, mà cán bộ ngành thuế đâu chỉ có phục vụ cho việc
thu thuế thu nhập cá nhân. Phương pháp này đã thể hiện sự bất cập và khơng thích
hợp trong cơ chế quản lý thời hiện đại. Vì vậy, đa số các quốc gia phát triển trên
thế giới đã chọn quy trình thu thuế thuế thứ hai, đó là cơ chế nộp thuế tự kê khai,
tự tính thuế và nộp thuế. Phương thức này sẽ làm giảm đi nhiệm vụ của cơ quan
thuế rất nhiều, nhưng nó cũng đồng nghĩa với việc mọi người dân đã nắm vững và
tự giác chấp hành nghĩa vụ thuế của mình và cơng tác kiểm tra, kiểm soát được
thực hiện thường xuyên và hiệu quả.
Sau khi kê khai thì việc tính thuế sẽ dựa trên cơ sở là các tờ khai đó để xác
định số thuế phải nộp, đa phần thuế thu nhập cá nhân đều đã được khấu trừ tại
nguồn, nơi phát sinh thu nhập của đối tượng chịu thuế. Phương pháp tính thuế này
khá phức tạp trong việc tính tốn, quản lý và theo dõi, nhưng lại đảm bảo tập
trung được đầy đủ số thu vào ngân sách nhà nước.Tuy nhiên, để đạt được kết quả
đó, cơ quan thuế cần phải kiểm tra các tờ khai, đối chiếu tờ khai với sổ sách kế
toán và các chứng từ gốc, với thực tế sản xuất kinh doanh của cơ sở, kịp thời phát

hiên và xử lý nghiêm minh những trường hợp gian lận trong kê khai thuế. Muốn
vậy, cần phải có những quy định rõ rang về việc sử dụng chứng từ, hóa đơn, sổ
sách kế toán.

13


2.2.3. Thanh tra thuế thu nhập cá nhân :
2.2.3.1. Mục đích, u cầu cơng tác của thanh tra thuế :
Cơng tác thanh tra được thực hiện trước hết bởi hệ thống các cơ quan thanh
tra chuyên ngành về thuế . Ngồi ra, thanh tra thuế cịn được thực hiện bởi sự phối
hợp của cơ quan chức năng có liên quan.
Đối tượng của thanh tả thuế là các tổ chức kinh tế và cá nhân có nghĩa vụ
nộp thuế cho Nhà nước và chính bản thân các đơn vị thuộc ngành thuế. Có thể
quy mơ và tính chất của thanh tra thuế khơng giống nhau, nhưng nhìn chung đều
nhằm mục đích phát hiện để từ đó có các biện pháp xử lý kịp thời các trường hợp
vi phạm pháp luật thuế ; đảm bảo nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế cho
các đối tượng nộp thuế và cho người thi hành công vụ trong ngành thuế. Để đạ
được các mục đích đó, cơng tác thanh tra thuế phải đảm bảo một số yêu cầu sau :
- Tính khách quan , trung thực
-

Dựa trên cơ sở là các văn bản pháp quy của nhà nước.

-

Tính chính xác, rõ ràng.

2.2.3.2. Nội dung công tác thanh tra thuế thuế thu nhập cá nhân :
- Thanh tra việc chấp hành những quy định về đăng ký, kê khai nộp thuế, cấp

mã số thuế .
- Thanh tra việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân.
- Thanh tra việc tuân thủ quy trình và sự phối hợp giữa các bộ phận trong cơ
quan thuế khi thực hiện quy trình quản lý thuế.
2.2.4. Tổ chức bộ máy thuế :
Bên cạnh ba nội dung chủ yếu của mình, cơng tác quản lý thuế cịn bao gồm
cả việc tổ chức bộ máy ngành thuế :
Ở nhiều nước trên thế giới hiện nay, cơ quan thuế đều được tổ chức thành
một hệ thống , bao gồm nhiều cấp. Tuy nhiên có những nước mà hệ thống cơ
quan thuế khơng hồn tồn phù hợp với hệ thống chính quyền Nhà nước, bao gồm
14


cơ quan thuế Trung ương, cơ quan thuế địa phương thuộc vùng và cơ quan thuế
các địa phương thuộc vùng ( Thụy Điển, Hàn Quốc, Nhật Bản …). Một số nước
khác hệ thống ngành thuế lại được tổ chức phù hợp với hệ thống hành chính Nhà
nước, bao gồm : cơ quan thuế trung ương,cơ quan thuế cấp tỉnh, cơ quan thuế cấp
quận, huyện ( Việt Nam, Trung Quốc … ). Tùy theo mỗi quốc gia, ở mỗi cấp, bộ
máy cơ quan thuế có thể được tổ chức theo một trong các mơ hình :
+ Mơ hình tổ chức theo sắc thuế : Trong mơ hình này, các phịng ban riêng
biệt được thành lập để quản lý một số loại thuế cụ thể. Do vậy mỗi phòng ban
phải thực hiện tất cả các chức năng , nghiệp vụ để quản lý các loại thuế mà mình
quản lý.
+ Mơ hình tổ chức theo chức năng : Trong mơ hình này, trong một cơ quan
thuế, người ta tổ chức ra các phòng ban chức năng riêng lẻ, mỗi phòng ban thực
hiện một nghiệp vụ riêng có thể liên quan đến tất cả các sắc thuế.
+ Mơ hình tổ chức theo đối tượng nộp thuế : Trong mơ hình này, đối tượng
nộp thuế đươc chia thành các nhóm, dựa trên quy mơ hoạt động, hình thức sở
hữu, hoặc ngành kinh tế … Mỗi phòng ban chịu trách nhiệm quản lý và cung cấp
những thơng tin đầy đủ về từng nhóm đối tượng nộp thuế.


15


CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP
CÁ NHÂN HIỆN NAY :
Trong mục tiêu của chiến lược cải cách và hiện đại hóa hệ thống thuế năm
2006 – 2010 và chuẩn bị thực hiện Chiến lược phát triển giai đoạn tiếp theo
2011-2020, ngành thuế sẽ đặc biệt chú ý đến công tác quản lý thuế, trong đó sẽ
có thuế thu nhập cá nhân.Hiện nay, hệ thống pháp luật về quản lý thuế thu nhập
cá nhân đã được ban hành, với nền tảng cơ bản là Luật quản lý thuế 2006 và Luật
thuế thu nhập cá nhân 2007, hai bộ luật này đã được triển khai và có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong cơng tác quản lý thuế thu nhâp cá nhân hiện nay. Bên cạnh
đó, các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư, công văn … của các Bộ, cơ
quan quản lý thuế, cơ quan chuyên ngành cũng là một thành phần rất quan trọng
hình thành nên hệ thống quy phạm pháp luật về thuế thu nhập cá nhân, ví dụ như:
+ Nghị định số 85/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25 tháng 5 năm 2007
Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế.
+ Thông tư số 60/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 14/6/2007 Hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và hướng dẫn thi hành Nghị định
số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Quản lý thuế.
+ Nghị định số 100/2008/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật
Thuế thu nhập cá nhân.
+ Thông tư 84/2008/TT-BTC ngày 30/09/2008 của Bộ Tài chính về việc
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn
Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân.
+ Thông tư 62/2009/TT-BTC ngày 27/03/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn
sửa đổi, bổ sung Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi
16


hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân. (…)
Hệ thống các quy phạm pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân được quy
định khá chi tiết và cụ thể về các khâu cơ bản của quá trình quản lý thuế như đăng
ký, kê khai, quyết toán, miễn giảm và thanh tra kiểm tra thuế thu nhập cá nhân.
1.Quản lý đối tượng nộp thuế :
1.1 Quản lý người nộp thuế :
Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân đã được quy định rất rõ tại Điều 2 Luật
thuế thu nhập cá nhân 2007 ( TNCN ), theo đó thì đối tượng nộp thuế thu nhập cá
nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế theo quy định ( bao gồm thu nhập từ
kinh doanh,tiền lương, tiền công, đầu tư và chuyển nhượng vốn, chứng khoán
hoặc thừa kế, quà tặng …) mà phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá
nhân khơng cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam.
Một điểm mới của Luật thuế TNCN 2007 đó là việc bổ sung thêm quy định
về đối tượng cư trú. Nếu như trước đây, đối tượng cư trú chỉ là cá nhân có mặt ở
Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên
tục kể từ khi đến Việt Nam ( Pháp lệnh thuế thu nhập dành cho người thu nhập
cao 2004) thì Luật thuế TNCN đã bổ sung thêm một điều kiện nữa được coi là cư
trú ở Việt Nam, đó là "cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có
nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê
có thời hạn" (khoản 2 Điều 2 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007). Việc bổ sung này
làm cho việc xác định đối tượng nộp thuế được thuận lợi hơn, bao quát hết đối
tượng nộp thuế và mở rộng đối tượng nộp thuế một cách hợp lý.
Bên cạnh đó, một thay đổi cơ bản về đối tượng nộp thuế so với quy định thuế
thu nhập cá nhân trước kia, đó là việc đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế
TNCN ( trước kia cá nhân kinh doanh thuộc diện chịu thuế thu nhập doanh

nghiệp). Hầu hết các nước trên thế giới đều công nhận và đưa các cá nhân kinh
17


doanh vào diện chịu thuế thu nhập cá nhân, đây chính là một chính sách rất thuận
lợi đối với những đối tượng này vì theo quy định trước đây họ phải nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp với thuế suất chung bằng với các doanh nghiệp ( thông thường
là những tổ chức kinh doanh có quy mơ lớn). Áp dụng thuế suất như vậy với các
doanh nghiệp là quá cao đối với hộ cá nhân kinh doanh. Khi Luật thuế thu nhập cá
nhân triển khai thì áp ụng điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo phương
pháp lũy tiến, sẽ đảm bảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư. Hơn nữa nó cũng sẽ
đảm bảo tính cơng bằng của Luật thuế thu nhập cá nhân, bởi đã là cá nhân có thu
nhập chịu thuế thì dù thu nhập từ bất kì nguồn nào cũng đều được đối xử như
nhau, tức là đều chịu thuế TNCN.
Quản lý người nộp thuế là một khâu rất quan trọng của quản lý thuế thu nhập
cá nhân. Tại điều 6 và điều 7 Luật quản lý thuế 2006 cũng đã nêu ra các quyền và
nghĩa vụ của ngươi nộp thuế như người nộp thuế, cụ thể quyền lợi của người nộp
thuế thu nhập cá nhân là : được hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế thu nhập cá
nhân; cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện nghĩa vụ về thuế thu nhập cá
nhân ;yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải thích về việc tính thuế, ấn định thuế;
người nộp thuế sẽ được giữ bí mật thơng tin theo quy định của pháp luật và hưởng
các ưu đãi về thuế, hoàn thuế theo quy định của pháp luật về thuế nếu như thực
hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục của thuế thu nhập cá nhân. Bên cạnh đó người
nộp thuế có thể được bồi thường thiệt hại do cơ quan quản lý thuế, cơng chức quản
lý thuế gây ra và có thể khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, người nộp thuế cũng cần thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình
như đăng ký thuế, sử dụng mã số thuế thu nhập cá nhân theo quy định của pháp
luật; thực hiện việc khai thuế thu nhập cá nhân một cách tự giác, chính xác, ghi
chép trung thực, đầy đủ những hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế, khấu trừ thuế và

nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn ; hơn nữa ngươi nộp thuế cần cung cấp đầy đủ, kịp
18


thời thông tin, tài liệu liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế, số hiệu và nội
dung giao dịch làm phát sinh thuế thu nhập cá nhân, giải thích việc tính thuế, khai
thuế, nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế và chấp hành quyết định,
thông báo, yêu cầu của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế theo quy
định của pháp luật.
1.2. Quản lý việc đăng ký thuế :
Đăng ký thuế là việc người nộp thuế kê khai những thơng tin của mình theo
mẫu quy định và nộp tờ khai cho cơ quan quản lý thuế để bắt đầu thực hiện nghĩa
vụ về thuế với Nhà nước theo các qui định của pháp luật. Theo quy định tại Điều
21 của Luật Quản lý thuế; Điều 2 và Điều 8 của Luật Thuế thu nhập cá nhân, đối
tượng phải đăng ký thuế thu nhập cá nhân bao gồm các tổ chức trả thu nhập, cá
nhân có thu nhập chịu thuế. Cụ thể được nêu rõ tại Mục I Phần D Thông tư số
84/2008/TT- Bộ Tài Chính (BTC) ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị
định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân ( sau đây gọi tắt là Thông tư 84/2008/TTBTC), đã quy định đối tượng phải đăng kí thuế là :
“- Tổ chức, cá nhân trả thu nhập, bao gồm:
+ Các tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh kể cả các chi
nhánh, đơn vị phụ thuộc, thuộc đối tượng phải đăng ký thuế theo hướng dẫn tại
Thông tư số 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi
hành Luật Quản lý thuế về việc đăng ký thuế.
+ Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước các cấp.
+ Các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp.
+ Các đơn vị sự nghiệp.
+ Các tổ chức quốc tế và tổ chức nước ngoài.
+ Các Ban quản lý dự án, Văn phịng đại diện của các tổ chức nước ngồi.

19


+ Các đơn vị trả thu nhập khác.
Trường hợp cơ quan trả thu nhập có đơn vị trực thuộc, có tư cách pháp nhân,
hạch tốn riêng thì các đơn vị này cũng phải thực hiện đăng ký thuế.
- Cá nhân có thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân, bao gồm:
+ Cá nhân có thu nhập từ sản xuất, kinh doanh bao gồm cả cá nhân hành
nghề độc lập; cá nhân, hộ gia đình sản xuất nơng nghiệp khơng thuộc đối tượng
miễn thuế thu nhập cá nhân. Cá nhân có thu nhập từ sản xuất, kinh doanh thực
hiện đăng ký thuế thu nhập cá nhân đồng thời với việc đăng ký các loại thuế
khác.
+ Cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền cơng.
+ Các cá nhân có thu nhập chịu thuế khác (nếu phát sinh thường xuyên).
(Các đối tượng nêu trên nếu đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế thì
khơng phải đăng ký mới. Mã số thuế đã cấp được tiếp tục sử dụng trong việc
thực hiện nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân. Cá nhân có nhiều khoản thu nhập
chịu thuế thu nhập cá nhân thì chỉ đăng ký thuế một lần. Mã số thuế được sử
dụng chung để khai thuế đối với tất cả các khoản thu nhập).”
Việc đăng kí thuế thu nhập cá nhân của các đối tượng nộp thuế và các tổ
chức trung gian được quy định khá rõ ràng, cụ thể về thủ tục, thời gian và địa
điểm nộp hồ sơ. Khi các cá nhân nộp hồ sơ đăng kí thuế hợp lệ thì đương nhiên
họ sẽ được cơ quan quản lý thuế cấp mã số thuế cá nhân. Vào tháng 7/2009,
Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính đã đưa vào hoạt động website
www.tncnonline.com.vn nhằm hỗ trợ đăng ký thuế thu nhập cá nhân một cách
đơn giản, nhanh chóng và chính xác. Đây là một giải pháp rất đáng khen ngợi
của Tổng cục thuế trong việc giảm thiểu thời gian và chi phí của người nộp
thuế - một yếu tố rất quan trọng trong việc đánh giá thành công của công tác
quản lý thuế trong thời gian tới. Các tổ chức, cá nhân chỉ cần truy cập vào
website và tải về phần mềm (gồm các tài liệu, phần mềm và hướng dẫn quy

20


trình kê khai thuế) đăng ký mã số thuế cá nhân, cập nhật các thông tin đăng ký
thuế vào phần mềm theo hướng dẫn sử dụng của chương trình rồi gửi lại cho cơ
quan thuế cũng tại website này. Việc đăng ký thuế thu nhập cá nhân trực tuyến
này đã kết thúc vào tháng 10/2009 và đã thực hiện đăng kí được cho hơn 4 triệu
mã số thuế cá nhân trong tổng số 10 triệu mã số thuế cá nhân đã cấp trong năm
2009.
Trong thông tư 84/2008 – BTC cũng đã quy định về trình tự và thủ tục,hồ
sơ đăng ký thuế tại cơ quan quản lý thuế. Chi tiết được dẫn chiếu tới Thông tư
số 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật
Quản lý thuế về việc đăng ký thuế ( Sau đây gọi tắt là Thông tư 85/2007/TTBTC) . Cụ thể như sau :
1.2.1. Đối với cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công :
Theo quy định tại điểm 2.3 mục I phần D Thơng tư số 84/2008/TT-BTC
của Bộ Tài chính hướng dẫn về việc đăng ký thuế đối với cá nhân có thu nhập
từ tiền lương, tiền cơng. Hồ sơ đăng ký thuế gồm:
- Tờ khai đăng ký thuế theo mẫu số 01/ĐK-TNCN ban hành kèm theo
Thông tư 84/2008/TT-BTC.
- Bản sao chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu.
Cá nhân có thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công nộp hồ sơ đăng ký
thuế tại đơn vị trả thu nhập hoặc cơ quan thuế trực tiếp quản lý đơn vị trả thu
nhập. Trường hợp cá nhân nộp hồ sơ đăng ký thuế tại đơn vị trả thu nhập, đơn
vị trả thu nhập có trách nhiệm tổng hợp tờ khai đăng ký thuế của các cá nhân và
nộp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý.
Đối với cá nhân có thu nhập thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn
(bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán) và các cá nhân có thu nhập chịu
thuế khác cũng nộp hồ sơ đăng ký thuế giống như với cá nhân có thu nhập từ
tiền lương, tiền công.
21



1.2.2. Đối với cá nhân, tổ chức có thu nhập từ kinh doanh :
Đối với tổ chức và cá nhân kinh doanh, hồ sơ đăng ký thuế thực hiện theo
quy định tại điểm 2.1 mục I phần II Thông tư số 85/2007/TT- hướng dẫn thi
hành Luật Quản lý thuế về việc đăng ký thuế. Hồ sơ bao gồm :
- Tờ khai đăng ký thuế theo mẫu 01-ĐK-TCT và các bảng kê kèm theo
đăng ký thuế (nếu có).
- Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam; hoặc Bản sao Quyết định thành lập.
Trường hợp nhiều người cùng góp vốn, cùng tham gia kinh doanh (nhóm
cá nhân kinh doanh) thì người đại diện của nhóm cá nhân kinh doanh thực hiện
đăng ký thuế theo hướng dẫn tại Thông tư 85/2007/TT-BTC nêu trên để được
cấp mã số thuế cho bản thân. Mã số thuế của người đại diện của nhóm cá nhân
kinh doanh được sử dụng khai, nộp thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế môn bài,... chung cho cả nhóm và khai thuế thu nhập cá nhân cho bản thân
người đại diện. Mỗi cá nhân góp vốn khác đều phải thực hiện đăng thuế để được
cấp mã số thuế riêng như đối với cá nhân kinh doanh.
1.2.3. Đối với đơn vị trả thu nhập (không phải là tổ chức kinh doanh) :
Hồ sơ đăng ký thuế thực hiện theo quy định tại điểm 2.10 mục I phần II
Thông tư số 85/2007/TT-BTC, theo đó thì hồ sơ đăng ký thuế đối với người
nộp thuế là tổ chức được ủy quyền thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác
theo quy định của pháp luật; các chủ dự án, các nhà thầu chính nước ngồi của
các dự án ODA; tổ chức khấu trừ thuế thu nhập cá nhân nhưng đơn vị khơng có
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ là tờ khai đăng ký thuế theo mẫu 01ĐK-TCT (chỉ kê khai các chỉ tiêu: 1, 2, 3, 4, 12, 18).
Riêng tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nước phải có
thêm Tờ khai đăng ký thu phí, lệ phí theo Mẫu số 1 qui định tại Thông tư số
22



63/2002/TT-BTC ngày 24/07/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn về phí, lệ phí.
Đơn vị thu phí, lệ phí được cấp một mã số thuế để dùng chung cho việc kê khai
nộp phí, lệ phí và kê khai nộp thuế đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ (nếu có).Cơ quan chi trả thu nhập tổng hợp tờ khai đăng ký thuế của từng cá
nhân để nộp cho cơ quan Thuế trực tiếp quản lý thu thuế.
1.3. Quản lý việc cấp mã số thuế cá nhân :
Cấp mã số thuế cá nhân (MSTCN) là một quá trình quan trọng trong việc
tiến hành quản lý thu nhập cá nhân. Việc cấp mã số thuế đã được triển khai
nhanh chóng cho tất cả người lao động thuộc diện chịu thuế TNCN. Đợt cấp mã
số thuế đầu tiên đã hoàn thành vào tháng 10/2009.
Việc cấp mã số thuế cá nhân cho các đối tượng là các cá nhân có thu nhập
từ tiền lương, tiên công, từ kinh doanh và từ các nguồn thu nhập khác như
chuyển nhượng bất động sản, chứng khoán ... đã diễn ra rất thuận lợi. Với hệ
thống phần mềm ứng dụng tin học hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế và thông
qua cổng thông tin điện tử , cuối năm 2009 đã có
gần 10 triệu cá nhân đã được cấp mã số thuế.
Quá trình đăng ký mã số thuế đã diễn ra được hơn 1 năm, nhằm đẩy nhanh
tiến độ cấp mã số thuế trong năm 2009 vừa qua, Tổng cục Thuế đã phát triển và
cung cấp tiện ích đăng ký thuế qua mạng internet. Nhờ đó, các tổ chức, cá nhân
đã rất dễ dàng trong việc đăng ký và nhận mã số thuế cá nhân. Việc cấp mã số
thuế cá nhân gắn liền với việc đăng ký thuế của các tổ chức, cá nhân.
Khi có mã số thuế cá nhân, người được cấp MST cá nhân có được một số
quyền lợi như là giảm trừ gia cảnh, đối với bản thân người có MST sẽ được trừ
4 triệu đồng/tháng và trừ 1,6 triệu đồng/tháng/người cho người phụ thuộc.
Trong trường hợp người nộp thuế nộp thừa tiền thuế sẽ được hoàn lại số thuế
thừa và được giảm thuế nếu bị thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc bị bệnh
23


hiểm nghèo. Những người có MST cá nhân, cơ quan thuế có thể hướng dẫn

miễn phí về thuế.
Đối với người kinh doanh chứng khốn, việc có MST cá nhân cũng liên
quan đến cách tính thuế và thuế suất.Theo Thơng tư 84/2007 của Bộ Tài chính
ngày 30/9/2008 hướng dẫn thi hành Luật Thuế TNCN quy định cá nhân chuyển
nhượng chứng khoán theo biểu thuế toàn phần với thuế suất là 20% trên lợi
nhuận (đã trừ ra các chi phí liên quan đến chứng khoán) phải đáp ứng một số
điều kiện, trong đó có điều kiện thực hiện đăng ký thuế và có MST. Trường
hợp cá nhân chuyển nhượng chứng khốn khơng đăng ký nộp thuế theo biểu
thuế toàn phần với thuế suất là 20% trên lợi nhuận thì áp dụng thuế suất 0,1%
trên giá chuyển nhượng chứng khoán từng lần.
Người cho thuê nhà cũng cần phải đăng ký kinh doanh và cấp MST cá
nhân. Quyền lợi của người cho thuê nhà có MST cá nhân là có thể nhận hóa
đơn từ cơ quan thuế cung cấp cho người thuê nhà. Đồng thời người cho th
nhà có thể quyết tốn nguồn thu nhập này vào cuối năm.
Có thể nói, đại bộ phận người đăng ký và được cấp mã số thuế cá nhân là
có thu nhập từ tiền lương, tiền cơng. Chính vì thế, Tổng cục thuế đã rất quan
tâm tới việc cấp mã số thuế cá nhân cho những đối tượng này. Cụ thể Ngày
3/6/2009, Tổng cục Thuế đã ban hành Công văn số 2188/TCT-CNTT gửi Cục
Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hướng dẫn cụ thể việc triển khai
đăng ký thuế (ĐKT) cho cá nhân làm công ăn lương qua tổ chức trả thu nhập
trong năm 2009. Công văn nêu rõ: đối tượng được cấp mã số thuế (MST) cá
nhân là người lao động có thu nhập từ tiền lương, tiền công kê khai đăng ký
thuế TNCN thông qua tổ chức trả thu nhập.
Với việc tận dụng những ưu điểm của internet và dịch vụ bưu điện, thủ tục
và quy trình đăng ký mã số thuế cá nhân trở nên rất đơn giản, thuận tiện; theo
đó cá nhân làm công ăn lương không phải trực tiếp đến cơ quan thuế để đăng
24


ký thuế mà sẽ được hướng dẫn, cung cấp ứng dụng nhập tờ khai đăng ký thuế

cho các tổ chức trả thu nhập. Tổ chức trả thu nhập thực hiện nhập tờ khai đăng
ký thuế vào ứng dụng và kết xuất ra file dữ liệu tải lên website
www.tncnonline.com.vn hoặc qua đĩa mềm, CDROM, USB gửi cho cơ quan
thuế, sau đó in bảng kê đăng ký thuế từ dữ liệu đã được nhập vào ứng dụng,
đóng dấu và ký xác nhận gửi cho cơ quan thuế qua đường bưu điện.
Trong khi tổ chức chi trả thu nhập thực hiện lưu hồ sơ đăng ký thuế bằng
giấy của các cá nhân để cung cấp cho cơ quan thuế khi có yêu cầu thì Cục Thuế
tập trung tồn bộ file dữ liệu của các cơ quan thuế trên địa bàn rồi gửi về Tổng
cục Thuế. Sau khi nhận, xử lý và cấp mã số thuế tập trung theo từng địa bàn
tỉnh, thành phố, Tổng cục Thuế sẽ gửi trả lại dữ liệu MST cho các Cục Thuế,
trên cơ sở đó, mỗi Chi cục Thuế trực thuộc sẽ nhận lại dữ liệu MST để truyền
về cho các tổ chức chi trả thu nhập trên địa bàn, kịp thời thông báo cho các cá
nhân làm công ăn lương.
Để đảm bảo việc đăng ký thuế được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả,
Tổng cục Thuế yêu cầu Cục Thuế các địa phương cần thành lập Tổ triển khai
đăng ký thuế tại cơ quan thuế; Tổ chức tập huấn, hướng dẫn cho các cán bộ
Cục Thuế, Chi cục Thuế về các bước thực hiện cấp mã số thuế, vận hành hệ
thống ứng dụng đăng ký thuế; chuẩn bị trang thiết bị, địa điểm, thiết lập hệ
thống, ứng dụng. Riêng việc tổ chức tập huấn các bước thực hiện đăng ký thuế
cho các tổ chức trả thu nhập sẽ giao cho các cấp Chi cục Thuế đảm nhiệm.
Tổ chức trả thu nhập hướng dẫn người lao động lập hồ sơ đăng ký thuế và
khai thông tin trên mẫu 01/ĐK-TNCN kèm theo Thông tư 84/2008/TT-BTC
ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính tại trang điện tử www.gdt.gov.vn. Trường
hợp có vướng mắc trong việc cài đặt, sử dụng ứng dụng, tổ chức trả thu nhập
liên hệ với bộ phận Tuyên truyền – Hỗ trợ của cơ quan thuế quản lý trực tiếp để
được hướng dẫn cụ thể. Bảng kê hồ sơ đăng ký thuế và file dữ liệu được chuyển
25



×