Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Thơ văn huỳnh thúc kháng trong tiến trình hiện đại hóa văn học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.93 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------

VŨ THỊ VÂN

THƠ VĂN HUỲNH THÚC KHÁNG TRONG TIẾN TRÌNH
HIỆN ĐẠI HOÁ VĂN HỌC VIỆT NAM

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học : PGS – TS Trần Ngọc Vương

Hà Nội – 2009


Lời cảm ơn !
Lời đầu luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất tới
PGS – TS Trần Ngọc Vương – người thầy đã tận tình hướng dẫn, góp ý cho
tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn tới nhà nghiên cứu Chương Thâu, nhà nghiên cứu
Phạm Ngô Minh - Đà Nẵng đã giúp đỡ tôi về mặt tư liệu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới song thân và gia đình tôi, bạn bè
tôi đã tạo điều kiện về thời gian và động viên về tinh thần để tôi hoàn thiện
luận văn này.


MỤC LỤC


Trang
Phần một : Mở đầu

1

1. Lí do chọn đề tài

1

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3

3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài

4

4. Lịch sử nghiên cứu của đề tài

4

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

5

6. Cấu trúc của luận văn

5

Phần hai : Nội dung


7

Chương 1 : Con người và sự nghiệp

7

1. Cốt cách xứ Quảng trong con người Huỳnh Thúc Kháng 7
2. Con người và sự nghiệp

10

Chương 2 : Văn nghiệp Huỳnh Thúc Kháng

19

1. Giai đoạn 1 : trước năm 1908

24

1.1. Bối cảnh lịch sử

24

1.2. Tác phẩm chính

27

2. Giai đoạn 2 : từ 1908 đến 1921


32

2.1. Bối cảnh lịch sử

32

2..2. Tác phẩm chính

34

3. Giai đoạn 3 : từ 1921 đến 1943

42

3.1. Hoàn cảnh lịch sử

42


3.2. Tác phẩm chính

Chương 3 : Huỳnh Thúc Kháng và tiến trình hiện đại hoá

45

62

văn học Việt Nam
1. Tổng quan về sự vận động của nền văn học Việt Nam


63

những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
2. Huỳnh Thúc Kháng và tiến trình hiện đại hoá văn học

67

Việt Nam
2.1. Những tác động tích cực

69

2.2. Một số hạn chế

84

Phần ba : Kết luận

91

Tài liệu tham khảo

96

Phụ lục

100


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam


PHẦN MỘT : MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam diễn ra quá
trình chuyển biến từ xã hội phong kiến cổ truyền phương Đông sang xã hội cận
hiện đại tư sản phương Tây. Đó là bước chuyển cực kì sâu sắc cả về thời gian
lẫn không gian lịch sử. Sự thay đổi này xảy ra sớm nhất và nổi bật nhất trong
phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc. Xã hội Việt Nam xuất hiện nhiều xu
hướng mang tính chất cải cách. Điểm mới là các phong trào cách mạng này đều
do các sĩ phu nặng lòng trung nghĩa khởi xướng và nó đã diễn ra mạnh mẽ, công
khai, mượn hình thức của một cuộc vận động văn hoá và dùng văn chương làm
công cụ tuyên truyền. Đó chính là không gian tư tưởng và không khí văn
chương để các nhà nho chí sĩ xuất hiện trên văn đàn Việt Nam.
Trong sự vận động của văn học đầu thế kỉ, từ một nền văn học trung đại
mang tính khu vực, văn học Việt Nam bắt đầu chuyển dần từng bước sang nền
văn học hiện đại mang tính quốc tế với những tên tuổi lớn như Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và nhiều nhà yêu nước khác. Vốn là
những học trò ưu tú của Nho môn trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động,
hơn ai hết họ thấm nhuần lí tưởng “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.
Lí tưởng nam nhi, tinh thần tự nhiệm, sự xuất hiện của trách nhiệm công dân
của các nhà nho chí sĩ hồi đầu thế kỉ đã tạo ra “những vùng, những mảng mờ
trong tư tưởng, tư duy nghệ thuật với những nỗ lực cách tân to lớn”. Trong số
những nhà nho chí sĩ coi văn chương là một vũ khí lợi hại để đấu tranh với kẻ
thù ấy, Huỳnh Thúc Kháng và sự nghiệp văn học của ông gắn bó chặt chẽ với
những biến động của thời đại và phản ánh rõ nét không khí thời đại cũng như

1


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam


khuynh hướng vận động của văn học Việt Nam trong giai đoạn giao thời nhạy
cảm ấy. Nói đúng hơn, Huỳnh Thúc Kháng từ một nhà nho đã vươn lên trở
thành một trong những lãnh tụ tiêu biểu nhất của phong trào yêu nước và cách
mạng đầu thế kỉ XX, đồng thời là một tác gia văn học tiêu biểu và quyền uy của
văn học Việt Nam giai đoạn đó. Chúng tôi nhận thấy ở Huỳnh Thúc Kháng hội
tụ đầy đủ đặc điểm của một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế
hệ ông :
Thứ nhất, Huỳnh Thúc Kháng đã để lại một văn nghiệp khá đồ sộ thuộc
nhiều thể loại khác nhau, từ thơ, phú (chữ Hán, chữ quốc ngữ), điếu, văn xã
thuyết, phê bình, dịch thuật,… quan trọng hơn là khi khảo sát thơ văn ông
chúng tôi thấy ông đóng một vai trò rất quan trọng, là một trong những người
tiên phong và quyền uy nhất trong quỹ đạo vận động của văn học Việt Nam từ
phạm trù trung đại tiến dần sang phạm trù hiện đại, hội nhập vào quỹ đạo văn
học thế giới hai mươi, ba mươi năm đầu thế kỉ XX. Chính những nhà nho chí sĩ
đầu thế kỉ mà tiểu biểu là Huỳnh Thúc Kháng đã làm nên một diện mạo mới
cho văn học Việt Nam, đồng thời tạo nên vẻ đẹp đặc biệt của hình tượng “cái
tôi” trong thơ ca Việt Nam.
Thứ hai, trong số những nhà nho chí sĩ nhập thế bằng con đường lập ngôn,
sáng tác văn chương đương thời, Huỳnh Thúc Kháng là một trong số không
nhiều người tiến xa nhất trong văn nghiệp : hoạt động trên một mặt trận rất mới,
rất “hiện đại” là báo chí, viết phê bình, dịch thuật,… hơn thế nữa, ông là người
duy nhất trong số họ mà sự nghiệp hoạt động cách mạng cũng như văn nghiệp
đến được với cách mạng tháng Tám và những ngày đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Sự hiện diện của một lão thành cách mạng, một cựu “quốc sự
phạm”, một nhà văn nhà thơ mà nhân cách và tài năng đã được nhân dân ghi
nhận và ngưỡng vọng giữa văn đàn trong một bối cảnh lịch sử mới chắc hẳn sẽ

2



Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

đem đến những ảnh hưởng có tác động tích cực đối với sự phát triển của văn
học Việt Nam.
Với những lí do kể trên cùng với mong muốn bổ sung thêm một tên tuổi
lớn nhưng vì những lí do nào đó còn bị khuất lấp vào đội ngũ những nhà văn –
chí sĩ tiêu biểu hồi đầu thế kỉ, người viết lựa chọn đề tài này với hi vọng bước
đầu tìm hiểu về sáng tác của Huỳnh Thúc Kháng – một trong những nhà hoạt
động cách mạng chân chính và nổi bật vào bậc nhất trong 30 năm đầu thế kỉ
XX. Những năm qua chúng ta đã nghiên cứu thơ văn và trả lại vị trí xứng đáng
cho Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế,… thì không có lí do gì
chúng ta không đặt ra vấn đề nghiên cứu Huỳnh Thúc Kháng với tư cách một
tác giả văn học, một nhà văn hoá tiêu biểu của dòng văn học yêu nước và cách
mạng đầu thế kỉ trên cả hai phương diện những đóng góp tích cực vào tiến trình
hiện đại hóa nền văn học nước nhà cũng như những điểm hạn chế làm cản trở
sự vận động của văn học Việt Nam những năm hai mươi, ba mươi của thế
kỉ XX.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Như trên đã trình bày, trong quá trình hoạt động cách mạng, để phục vụ
cho mục đích chính trị, Huỳnh Thúc Kháng cũng như nhiều nhà cách mạng
đương thời đã sử dụng văn chương như một phương tiện đấu tranh đắc lực.
Song, nói như thế đúng nhưng vẫn chưa đủ, còn phải là họ làm chính trị bằng
văn chương. Chính vì thế mà các sáng tác của họ gắn liền với những thăng trầm
của lịch sử và đời sống văn hoá, xã hội
Trong quá trình tìm hiểu trước tác của Huỳnh Thúc Kháng chúng tôi nhận
thấy : ông có một sức viết không thể xem thường ở nhiều thể loại và với nhiều
bút danh khác nhau. Tuy nhiên, để làm rõ về vai trò của thơ văn Huỳnh Thúc
Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam trong phạm vi giới hạn


3


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

của luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ những đóng góp của nhà chí sĩ
ở các phương diện : ý thức cá nhân nghệ sĩ, quan điểm thẫm mĩ, hệ thống hình
tượng, thể loại, ngôn ngữ văn học,… biểu hiện trong một số tác phẩm tiêu biểu
ở mỗi giai đoạn sáng tác của ông.
Trong luận văn này, chúng tôi khảo sát trước tác của Huỳnh Thúc Kháng
trên quan điểm khách quan hoá sự nghiệp văn học của ông, từ đó đi đến những
đánh giá khách quan giá trị thơ văn Huỳnh Thúc Kháng cả về những đóng góp
tích cực cũng như những hạn chế, thậm chí kìm hãm, nhất là khi đặt nó vào quỹ
đạo vận động của văn học sử nước nhà đầu thế kỉ XX.

3. Mục đích, Ý nghĩa của đề tài
Trên quan điểm xem xét những đóng góp của thơ văn Huỳnh Thúc Kháng
đối với tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam trong những thập niên đầu thế
kỉ XX, tác giả luận văn mong muốn làm sáng tỏ những đóng góp cũng như
nhấn mạnh tác động (cả tích cực lẫn hạn chế, thậm chí là kìm hãm) của thơ văn
Huỳnh Thúc Kháng về mặt nội dung cũng như về nghệ thuật đến sự hình thành
của văn học hiện đại, qua đó khẳng định vị trí của ông với tư cách là một tác giả
văn học, một nhà văn hoá tiêu biểu trong 30 năm đầu thế kỉ.
Luận văn không mong muốn gì hơn là qua việc khảo sát và sự tìm tòi
nghiêm túc của mình, trả lại cho thơ văn Huỳnh Thúc Kháng một vị trí xứng
đáng và khách quan trong lịch sử văn học (chứ không phải là trong lịch sử chính
trị), qua đó, mong muốn tạo điều kiện cho những người tiếp theo nghiên cứu
sâu hơn thơ văn Huỳnh Thúc Kháng.


4. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay, nếu như việc nghiên cứu về vai trò, vị trí của Huỳnh Thúc
Kháng trên phương diện lịch sử – chính trị đã được khẳng định, thì ở phương

4


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

diện sáng tác văn chương đều chưa được thoả đáng, còn có phần phiến diện. Ví
dụ như tác giả Vương Đình Quang ngay trong công trình Thơ văn Huỳnh Thúc
Kháng đã nhận xét : “… Cái phần để cho người ta thừa nhận Huỳnh Thúc
Kháng là một nhà văn theo quan điểm văn học, mĩ học không có mấy…”. Ngoài
một số công trình sưu tầm, tuyển chọn các tác phẩm của Huỳnh Thúc Kháng,
phổ biến nhất là cuốn Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng chọn lọc của nhà nghiên cứu
Chương Thâu và Huỳnh Thúc Kháng – tác giả, tác phẩm của Nguyễn Q.
Thắng, ngoài ra chưa có một công trình nghiên cứu khoa học kĩ càng và nghiêm
túc nào về văn nghiệp cũng như đưa ra những đánh giá về đóng góp của thơ văn
Huỳnh Thúc Kháng đối với sự phát triển của văn học Việt Nam đầu thế kỉ.
Trong chương trình Văn học ở nhà trường phổ thông cũng không có tác phẩm
nào của ông, còn các khoá luận, luận văn trong trường đại học hay những
chuyên luận về thơ văn Huỳnh Thúc Kháng cũng gần như vắng bóng. Đó là một
thực trạng đáng phải xem xét lại, nhất là khi đặt các tác phẩm của Huỳnh Thúc
Kháng trong tiến trình vận động của văn học Việt Nam những thập niên đầu thế
kỉ XX.

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, triển khai đề tài luận văn này, chúng tôi đã sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu truyền thống như : Phương pháp thống
kê, phân loại ; phương pháp đối chiếu, so sánh ; phương pháp đồng đại, lịch đại;

phương pháp phân tích, tổng hợp ; phương pháp lịch sử – cụ thể. Tuỳ từng vấn
đề đưa ra mà chúng tôi sử dụng một hay kết hợp một vài phương pháp với nhau
để đạt hiệu quả biểu đạt tốt nhất.

6. Cấu trúc luận văn
Chúng tôi trình bày luận văn với 4 phần chính:
- Phần I : Phần Mở đầu

5


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

- Phần II : Phần Nội dung gồm 3 chương :
+ Chương 1 : Con người và sự nghiệp
+ Chương 2 : Văn nghiệp Huỳnh Thúc Kháng
+ Chương 3 : Huỳnh Thúc Kháng và tiến trình hiện đại hoá văn học
Việt Nam
- Phần III :
+ Phần Kết luận
+ Danh mục Tài liệu tham khảo
+ Phụ lục

6


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

PHẦN HAI : NỘI DUNG
Chương 1

CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP
1. Cốt cách xứ Quảng trong con người Huỳnh Thúc Kháng
Quảng Nam – quê hương nhà chí sĩ thường được hình dung như là điểm
giữa của chiếc đòn gánh – miền Trung, nơi mà bao đời phải oằn mình gánh hai
thúng gạo ở hai đầu là hai miền Nam – Bắc. Đó còn là nơi thường xuyên hứng
chịu những hà khắc của thiên nhiên, khí hậu. Theo Nguyễn Q. Thắng, làng quê
nơi Huỳnh Thúc Kháng sinh ra và sống trọn vẹn trong thời niên thiếu là một
làng hẻo lánh thuộc miền “nguồn” tây nam xứ Quảng, chung quanh đều rừng
núi khô cằn. Đây là một miền cách trở mọi giao thông, liên lạc với bên ngoài,
nhân dân trong làng quanh năm phải lăn lộn trong cảnh sống “Lam sơn chướng
khí”. Những nét phác hoạ trên đã phần nào lí giải được cốt cách, tình cảm con
người xứ Quảng nói chung, và con người Huỳnh Thúc Kháng nói riêng. Đó là
tính chịu thương chịu khó, can đảm, sẵn sàng làm việc nghĩa nhưng cũng lại là
người “khô khan, tằn tiện, ương ngạnh, khảng khái,...”. Chính Huỳnh Thúc
Kháng trong một lần tự họa chân dung mình đã thẳng thắn nói : “Tôi, một anh
học trò, gốc sanh trưởng nhà nông nghèo trong thôn quê, đã là cái hoàn cảnh
phác dã, thô vụng, khô khan, quê kệch, gia dĩ trời phú ham mê về sự học, nửa
đời người tôi, ngoài thơ văn sách vở ra, gần như không có cái gì gọi là
“mĩ cảm”.

7


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

Nhiều tài liệu lịch sử cho thấy, ngay từ những năm cuối thế kỉ XIX khi
thực dân Pháp bắt đầu vào xâm lược nước ta, Nghệ – Tĩnh và Nam – Ngãi đã
trở thành một “địa chỉ đỏ”, nơi xuất thân của rất nhiều lãnh tụ các cuộc khởi
nghĩa, trong đó tiêu biểu nhất là hai chí sĩ họ Phan : Phan Bội Châu và Phan
Châu Trinh. Hai vùng ấy cũng là những địa bàn diễn ra nhiều phong trào yêu

nước và cách mạng nhất trong cả ba xứ, “kể cả khi các hoạt động cụ thể diễn ra
trên một địa chỉ khác thì các chí sĩ của Nghệ – Tĩnh và Nam – Ngãi vẫn có một
địa vị ít nhiều nổi trội”. “Nam – Ngãi và Nghệ – Tĩnh từ lúc nổ ra cuộc xâm
lược và chống xâm lược Pháp vốn thường xuyên là những địa danh nổi tiếng cả
nước về sự “ngạnh trực”, những nơi mà từ sĩ phu, thân hào cho đến người bình
dân cùng đều nhiệt tình với quốc sự, hay có ý kiến khác, nhiều trường hợp là
ngược lại với “sự chỉ đạo của cấp trên”, thậm chí ngược cả với ý chỉ của vua”
[39].
Cốt cách xứ Quảng dường như đã nhiễm rất sâu vào Huỳnh Thúc Kháng,
đến mức mà khi đi tìm lời giải đáp cho cá tính và cốt cách của nhà chí sĩ, người
ta thường tìm về cội nguồn quê hương, mảnh đất Quảng Nam “Lam sơn chướng
khí” nhưng cũng là nơi sản sinh ra những nhân vật kiệt hiệt nhất trong thời đại
“mưa Âu gió Á”, cái “thế cục” đang quăng quật và rắp tâm vùi dập những kiếp
người, và cao hơn, hạ gục cả một dân tộc giàu truyền thống. Ở một bình diện
nào đó, chúng ta có thể nói rằng, chính những biến loạn của đất nước, cùng sự
thất bại “đầu rơi, máu chảy” của Nghĩa hội Quảng Nam hoạt động trong phong
trào Cần vương mà ông tận mắt được chứng kiến từ thuở thiếu niên là một trong
những yếu tố đẩy những nhà nho giàu tâm huyết và tinh thần tự nhiệm như
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế,… “phải
hiện diện giữa vòng xoáy của những cơn lốc ấy” với mong muốn tìm được một
phương kế cho con đường giải phóng dân tộc.

8


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

Là người con ưu tú của quê hương Nam – Ngãi, ngay từ nhỏ, Huỳnh Thúc
Kháng đã ham học, thông hiểu học thuyết của Nho gia. Tinh thần “khắc kỉ phục
lễ” được ông tiếp thu và thực hành đến mức sâu đậm. Chính điều này đã tạo nên

một Huỳnh Thúc Kháng vừa hết sức trang nghiêm, cẩn trọng, cương quyết,
chân thành nhưng cũng lại tới tận mức bảo thủ, ương ngạnh,... Đó chính là
những nét tiêu biểu nhưng cũng là những điểm hạn chế trong tính cách con
người Huỳnh Thúc Kháng. Từ những nét phác thảo trên ta thêm hiểu, vì sao
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của nhà chí sĩ, dù luôn bị thực dân
Pháp và tay sai tìm cách cám dỗ, mua chuộc ông vẫn vững vàng, kiên trung trên
trận tuyến đầu trong cuộc chiến đấu chống quân thù, vẫn được quốc dân đồng
bào ta ngưỡng vọng, hướng đến như một trong ít tấm gương trung nghĩa sáng
ngời trong số những nho sĩ yêu nước tiêu biểu đầu thế kỉ XX.
Có thể nói, trong cuộc đời hoạt động cách mạng cũng như trong sáng tác
văn học, Huỳnh Thúc Kháng đã luôn đứng ở vị trí trung tâm của cơn bão thời
đại, trung tâm của công cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc và là một
trong những cây bút tiêu biểu, quyền uy nhất trong số những nhà nho chí sĩ
chọn con đường lập ngôn làm con đường nhập thế và tham gia tích cực vào quỹ
đạo hiện đại hoá văn học nước nhà như một trong những cây bút tiên phong.
Cuộc đời ông, sự nghiệp sáng tác văn chương của ông là một minh chứng đầy
đủ nhất cho quan niệm :
Giàu sang lợi lộc đừng ham
Chông gai, cay đắng cũng cam một bề
(Khuyên con đi học)
Nét tính cách này in đậm trong con người thường nhật của ông và cũng là
cơ sở để ta nói rằng nó in đậm trong dấu ấn sáng tạo văn chương của Huỳnh
Thúc Kháng. Ở chương sau của luận văn này chúng tôi sẽ có dịp đề cập sâu hơn
vấn đề này.

9


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam


2. Con người và sự nghiệp
Huỳnh Thúc Kháng (1876 – 1947) còn có tên là Huỳnh Hanh, tự là Giới
Sanh, hiệu Minh Viên, quê làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang thượng, huyện
Tiên Phước, phủ Tam Kì (nay thuộc thôn I, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước),
tỉnh Quảng Nam. Tổ tiên ông vốn là người Bắc vào xứ Quảng lập nghiệp từ thế
kỉ XIV, XV và chỉ đơn thuần làm nghê nông. Tuy xuất thân từ gia đình nhiều
đời làm nông, nhưng thân sinh Huỳnh Thúc Kháng lại mang giấc mộng khoa
cử, đi thi vài lần nhưng không đỗ đạt gì, thêm vào đó những biến cố đau lòng
của gia đình sau sự ra đi của hai người anh trai vốn nổi tiếng thông minh, ham
học hỏi là những nguyên nhân thúc giục Huỳnh Thúc Kháng khắc kỉ đến cùng
để theo đuổi nghiệp khoa cử, “trải trên 20 năm như một ngày theo khuôn khổ
nghiêm huấn không lúc nào sai”. Chính nỗ lực không ngừng nghỉ ấy mà ngay từ
nhỏ, Huỳnh Thúc Kháng đã nổi danh là một trong tam hùng xứ Quảng (Huỳnh
Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Phạm Liệu). Tuy vậy, mãi đến năm 29 tuổi (1904)
ông mới đỗ tiến sĩ nhưng lại không lựa chọn con đường hoạn lộ mà cùng với
các bạn đồng chí hướng như Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp,... rẽ sang một
hướng khác nhiều gian nan, cực nhọc hơn nhưng tiếng thơm lưu lại đến muôn
đời : con đường hoạt động cách mạng.
Những năm cuối thế kỉ XIX, đất nước ta gần như chìm đắm trong vòng nô
dịch cuả thực dân Pháp. Những biến động lớn lao trong đời sống xã hội cùng
những biến cố từ bên ngoài bằng nhiều con đường được đưa vào Việt Nam đã
thúc giục những nhân sĩ tâm huyết với dân tộc không thể mãi khoanh tay nhìn
đất nước trong cảnh lầm than, cơ cực. Để cứu đất nước ra khỏi thực trạng bi
thảm ấy, họ phải nhập cuộc với tất cả sự tự giác và nghị lực phi thường. Trong
số không ít những khả năng hành chỉ đương thời, duy tân, tự cường là con
đường được những chí sĩ như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh, Trần Quý
Cáp lựa chọn và theo đuổi.

10



Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

Đỗ đạt theo đúng ước nguyện thân phụ hằng gửi gắm nhưng khá đột ngột
khi Huỳnh Thúc Kháng rẽ sang một bước ngoặt khác mà không vì bất kì một
biến cố hay áp lực bên ngoài nào tác động vào. Đây là một sự lựa chọn dũng
cảm, hoàn toàn chủ động có ý thức và có ý nghĩa bước ngoặt không chỉ đối với
sự nghiệp Huỳnh Thúc Kháng mà còn đối với lịch sử dân tộc trong một giai
đoạn có nhiều biến động lớn lao đầu thế kỉ XX. Sự kiện quan trọng này đã được
lịch sử ghi nhận : “Người đỗ đạt mà không ra làm quan thì không phải đến thời
điểm này mới có, nhưng đỗ chính thức đại khoa mà không ra làm quan thì
những người như vậy trong lịch sử khoa cử Việt Nam không nhiều. Trước
Nguyễn Thượng Hiền, tôi không nhớ được có yếu nhân nào đã từng làm như
thế. Sau Nguyễn Thượng Hiền, giờ tới lượt hai ông, nghè Ngô và nghè Huỳnh –
những người cùng trang lứa (Huỳnh Thúc Kháng sinh năm 1876, Ngô Đức Kế
sinh năm 1878), cùng tâm trạng và rồi, sẽ cùng chung nhiều chặng của số phận”
[39].
Cuộc tiếp xúc với các sách báo Tân thư, Tân văn từ phương Tây đưa vào,
từ Trung Quốc đưa sang dường như ngay lập tức có tác động mạnh mẽ khiến
nhà chí sĩ đi đến một quyết định dứt khoát, cùng các đồng chí thực hiện nam du
kêu gọi bài xích lối học khoa cử cũ, đả kích chế độ quân chủ, đề xướng tân học,
… Phong trào Duy tân mà Huỳnh Thúc Kháng là một trong ba lãnh tụ đã nhanh
chóng lan rộng khắp Trung Kì, nó cho thấy những lời kêu gọi có tính chất hoà
bình của một cuộc vận động xã hội để thức tỉnh, giục giã nhân dân tham gia vào
công cuộc xây dựng lối sống mới của các ông một khi đã đi vào lòng quần
chúng, tới tận từng thôn xóm sẽ làm bùng phát các làn sóng đấu tranh xã hội,
kích thích họ nổi dậy thành những phong trào có tính chất bạo lực cách mạng,
dù chỉ là đấu tranh tự phát nhưng những phong trào ấy đã góp phần không nhỏ
làm thay đổi tính chất và mục tiêu các phong trào đấu tranh đang có phần im
ắng lúc bấy giờ - một không khí mà như Toàn quyền Pháp ở Đông Dương Paul


11


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

Doumer trong bức thư gửi về nước đã viết : “Từ năm 1897 đến nay không hề có
một tên lính nào chết vì trận mạc ở Đông Dương1”.
Trong Huỳnh Thúc Kháng niên phổ, tác giả đã viết rằng : “Thành Thái
năm thứ 18 (Bính Ngọ – 1906), nửa năm đầu dạy học tại làng Mỹ An trong
tổng; kế đó cùng các thân hào bằng hữu đề xướng chung vốn lập thương cuộc
tại các phố (Hội An – Faifoo) cùng lập trường học, hội nông, trồng quế,… Tùy
theo phong khí biến đổi trong nước, nào ăn mặc theo Âu Tây, cúp tóc náo nhiệt
một thời, khiến cho bọn thủ cựu ngó nghiêng cặp mắt”.
Như vậy, những nỗ lực hoạt động của bộ ba hào kiệt xứ Quảng đã thu
được ít nhiều thành quả, chỉ trong một thời gian ngắn họ đã vươn lên trở thành
những lãnh tụ của một trong hai khuynh hướng cách mạng tiêu biểu nhất thời kì
cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.
Những hoạt động cách mạng mang tính chất ôn hòa của các ông đã tạo nên
những phong trào đấu tranh rộng rãi của quần chúng nhân dân. Phong trào
chống sưu bùng nổ ở Quảng Nam và sau đó lan rộng ra khắp dải đất từ Hà Tĩnh
vào Bình Định, lan sâu vào cả những thôn làng miền ngược hẻo lánh (năm
1908) khiến thực dân Pháp nhận ra rằng những lời “huyết lệ” ấy của các sĩ phu
yêu nước, một khi được truyền rộng và thấm sâu vào ý thức quần chúng nhân
dân thì có thể tác động tới trái tim và khối óc, thôi thúc họ hành động tạo nên
những phong trào có tính chất bạo động đáng sợ. Chính vì lẽ đó, các chí sĩ hiển
nhiên trở thành cái gai mà bọn thực dân và tay sai không thể làm ngơ, chúng
phải hành động. Hàng loạt sĩ phu yêu nước mà đứng đầu là những lãnh tụ của
phong trào Duy Tân phải nhận án lưu đày Côn Đảo. Trần Quý Cáp đang làm
1


Theo Philippe Devillers, Đông Dương, An Nam là tên gọi chung thực dân Pháp dùng để gọi Việt Nam.

Trên thực tế, ngay từ khi mới đặt được ách thống trị trên đất nước ta, để thực hiện chính sách chia để trị,
thực dân Pháp đã chia Việt Nam thành ba xứ : Trung Kì – Cochinchine, Bắc Kì – Tonkin, Nam Kì – Basse
– Cochinchine).

12


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

giáo thụ ở Khánh Hòa phải lên đoạn đầu đài, Huỳnh Thúc Kháng và cả Phan
Châu Trinh (khi đó đang ở Hà Nội) phải chịu án lưu đày, “ngộ xá bất nguyên”
trở thành một trong những “đệ nhất tù nhân” của “địa ngục trần gian” Côn Đảo.
Năm 1921, sau 13 năm bị lưu đày Huỳnh Thúc Kháng và một số bạn tù
được mãn hạn. Trở về từ “trường học thiên nhiên” Côn Đảo, Huỳnh Thúc
Kháng càng trở nên già dặn, kiên trung, đến mức dù sống trong lòng nghi kị của
một số bạn hữu cũ, dù trong hoàn cảnh nghèo khó, nhưng khi thực dân Pháp
đưa quan chức, bổng lộc ra làm mồi nhử thì ông vẫn rất mực tỏ thái độ bất hợp
tác. “Sau khi nhận trát, liền viết đơn từ chức, nhờ Huyện chuyển đạt, trong đó
có câu : “Ngày trước từ chức Giáo thọ Điện Bàn, đã sinh ra lụy lớn tới thân gia,
nay nhận chức thuộc viên tại Cổ Học, còn mặt mũi nào ? Chỉ vì 60 đồng bạc
lương, đem cán bút cùn mơ mộng cảnh hoa tàn còn trở lại, nhìn lại trên mười ba
năm tù đày sống thừa, hai mái tóc rối bù, há dám lò đầu ra khỏi núi” [19, tr.60].
Tưởng như chấp nhận cuộc sống “nằm im ngắm thời cuộc, giữ thái độ trầm
mặc” trong suốt quãng đời còn lại thì vào năm 1926, thực hiện “chính sách ve
vãn thuộc địa”, thực dân Pháp chủ trương cải tổ Hội đồng Tư phỏng thành Viện
Nhân dân đại biểu (gọi tắt là Viện dân biểu), Huỳnh Thúc Kháng ra ứng cử và
trúng cử, rồi được bầu làm Viện trưởng Viện dân biểu.

Ngay từ khi mới được bầu làm Viện trưởng, Huỳnh Thúc Kháng đã tranh
thủ sự hợp pháp này để đấu tranh công khai đưa ra một số yêu sách đòi mở rộng
dân chủ, thực hiện những chính sách mà chính quyền thuộc địa đã hứa hẹn.
Những hoạt động mà Huỳnh Thúc Kháng thực hiện trong thời gian này đã một
lần nữa cho thấy nhiệt huyết cách mạng, lòng yêu nước mãnh liệt của một trong
những lãnh tụ cách mạng kiệt hiệt đầu thế kỉ XX.
Với nhãn giới chính trị sắc bén của mình, Huỳnh Thúc Kháng nhận thấy
rằng trong vòng xoáy của bão táp thời đại lúc bấy giờ, một dân tộc nhỏ bé, lạc
hậu như nước ta không thể đủ sức chống lại một nước phương Tây hùng mạnh.

13


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

Ông trăn trở và nhận thấy rằng, đấu tranh văn hóa là một trong những con
đường hứa hẹn mang lại thành công cho sự nghiệp cứu nước. Làm Viện trưởng
Viện dân biểu để đại diện cho nhân dân nói lên những quyền lợi của mình,
thành lập Công ty Huỳnh Thúc Kháng chuyên về In và báo chí, ra đời báo Tiếng
Dân (10 – 08 – 1927), đó là một bước rẽ lịch sử đánh dấu một bước chuyển mới
cao hơn về chất, quyết liệt hơn về tư tưởng của nhà chí sĩ họ Huỳnh. Sự kiện
một nhà nho chí sĩ ra làm báo, mà lại đứng đầu trên trận tuyến chống quân thù
(ông vừa làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Tiếng Dân), giữa vòng xoáy mờ mịt
của “văn hóa nô dịch” mà những tờ báo do Pháp lập ra và bảo hộ đang làm mưa
làm gió (Nam Phong tạp chí, Đông Dương tạp chí), quả là một sự kiện lớn mà
những người cùng thời với ông, ngoài Ngô Đức Kế – chủ bút báo Hữu Thanh
(1921) ra không có nhiều người đủ can đảm và niềm tin để lựa chọn và
theo đuổi.
Đầu những năm 1940, trong cơn chính biến của cả thế giới, trong nước
Nhật đảo chính Pháp, nắm lấy toàn bộ quyền hành trong tay, để “thu phục nhân

tâm”, ổn định dư luận, lẽ đương nhiên người Nhật phải tìm đến những nhân sĩ
“có máu mặt”, có đủ uy tín và tài năng kéo theo mình đám đông quần chúng
nhân dân. Một lần nữa cái tên Huỳnh Thúc Kháng trở thành “địa chỉ nóng”.
Phát xít Nhật bày đủ trò từ dụ dỗ, dọa dẫm những mong được Huỳnh Thúc
Kháng nhận lời ra giúp sức cho chính phủ bù nhìn của chúng, nhưng một lần
nữa chí khí khảng khái, tấm lòng yêu nước kiên trung của ông lại thể hiện, ông
thẳng thắn từ chối cộng tác với Nhật. Trong một bức thư gửi Bảo Đại, Huỳnh
Thúc Kháng khẳng định : “Ta thấy người Nhật có chút gì là thực tâm với người
Việt Nam chúng ta. Điều này Ngài ở trong chính quyền càng nhận thấy rõ hưn
phải không ? Như thế dù có ai tài giỏi mấy đi nữa cũng chưa chắc làm nên việc,
trừ phi mình có thực lực vững vàng. Riêng đối với nhà vua, tôi thành thật
khuyên Ngài thoái vị mà giao quyền cho nhân dân. Hiện trên thế giới ngày nay

14


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

chế độ quân chủ đã lỗi thời. Riêng ở Việt Nam chúng ta, trong con mắt dân
chúng lại càng không nên duy trì lắm. Ngài giao quyền lại cho dân, họa may sẽ
có những vị anh hùng trong đồng quê núi thẳm xuất đầu lộ diện làm nên việc
cũng chưa biết chừng và như thế riêng phần ngài cũng tự tỏ mình là người thức
thời vậy” [28].
Cách mạng tháng Tám thành công, chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn
năm ở nước ta bị đánh đổ, chính quyền cách mạng được thành lập hướng nhân
dân tiến bước theo mục tiêu độc lập dân tộc và xây dựng chế độ cộng hòa. Hòa
chung tâm trạng náo nức, phấn khởi thoát khỏi vòng nô lệ của hàng triệu đồng
bào, Huỳnh Thúc Kháng cảm khái thốt lên : “Sướng ôi là sướng! thoát thân nô
mà làm chủ nhân ông. Vui thật là vui! đổi quyền vua mà làm dân quốc mới”.
Khi nước nhà được độc lập, phải đối diện với trùng điệp những khó khăn, thử

thách mới, đất nước cần những tấm gương mà đạo đức và tầm nhân cách đủ lớn
để có thể hiệu triệu sự đồng thuận đồng lòng của quốc dân. Nhà lão thành cách
mạng Huỳnh Thúc Kháng là gương mặt được Đảng, Chính phủ lâm thời đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh “chọn mặt gửi vàng”, mời ra làm việc trong Chính
phủ Liên hiệp kháng chiến, giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Lễ ra mắt Hội đồng
Chính phủ ngày 7 tháng 3 năm 1946 đã được báo Sự thật đưa tin và bình luận
như sau :
“Lần đầu tiên Cụ ra mắt quốc dân trước tiếng hoan hô vang dậy của hàng
vạn đồng bào ở Quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội. Lần đầu tiên quần chúng
được mắt thấy tai nghe nhà chí sĩ lão thành vẫn hằng ngưỡng mộ. Cụ già yếu
quá, nhưng giọng nói sang sảng ấy, điệu bộ hăng hái ấy là của thanh niên. Lòng
nhà chí sĩ đã bị xúc động quá mạnh trước cảnh đồng bào sum họp đoàn kết thân
mật, trước vận hội mới của nước nhà. Khi Cụ nói lên cái chí căm thù giặc Pháp
suốt đời nung nấu tâm can Cụ, mọi người thấy truyền vào mình tất cả sĩ khí

15


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

trầm hùng của thời xuân. Ai quên được giữa buổi ấy, hình ảnh Hồ Chủ tịch cảm
động ôm chầm lấy Cụ, hình ảnh hai người bạn già tương ái” [29, tr.34].
Sự kiện lịch sử này đánh dấu một cuộc tiếp xúc lớn trong hành trình tư
tưởng và hoạt động cách mạng của Huỳnh Thúc Kháng. Từ chủ nghĩa yêu nước
và lấy chủ nghĩa dân tộc làm hệ quy chiếu, nhà chí sĩ đến với chính quyền cách
mạng với niềm tin gửi trọn vào nhà yêu nước cách mạng Hồ Chí Minh như một
tất yếu lịch sử nhưng cũng lại là một lối hành xử hoàn toàn chủ động có ý thức.
Trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp theo lời mời của Chính
phủ Pháp, Huỳnh Thúc Kháng được cử làm Quyền Chủ tịch nước. Khi cuộc
kháng chiến chống Pháp bắt đầu, Huỳnh Thúc Kháng được cử đi kinh lí miền

Trung. Tại đây, hưởng ứng lời “Kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí
Minh, với tư cách là Hội trưởng Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam, Huỳnh Thúc
Kháng cũng viết thư “Kêu gọi đồng bào phụ lão kháng chiến”. Hai bức “huyết
thư” của hai lãnh tụ cách mạng cộng hưởng, cùng đồng vọng khắp non sông, đã
giục giã, thôi thúc mọi tầng lớp nhân dân tham gia nhiệt thành vào cuộc trường
chinh cứu nước.
Trong quá trình kinh lý miền Trung, do tuổi cao sức yếu, Huỳnh Thúc
Kháng tạ thế ngày 21 tháng 4 năm 1947 tại thôn Phú Bình, thị trấn Chợ Chùa,
tỉnh Quảng Ngãi – nơi Ủy ban hành chính kháng chiến Nam Trung bộ đóng trụ
sở, hưởng thọ 71 tuổi. Trước khi ra đi, Huỳnh Thúc Kháng còn kịp gửi cho Chủ
tịch Hồ Chí Minh một bức điện báo, trong đó bày tỏ rõ tâm sự của mình :
“Gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tôi bệnh nặng chắc không qua khỏi. Bốn mươi năm ôm ấp độc lập và dân
chủ, nay nước đã độc lập, chế độ dân chủ đã thực hiện, thế là tôi chết hả. Chỉ

16


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

tiếc không gặp được cụ lần cuối cùng ! Chúc cụ sống lâu để dìu dắt quốc dân
lên đường vinh quang, hạnh phúc”.
Chào vĩnh quyết.
(Quảng Ngãi, ngày 14 tháng 4 năm 1947)
Huỳnh Thúc Kháng ra đi trong niềm tiếc thương và thành kính vô hạn của
quốc dân, đồng bào. Nhà chí sĩ được Đảng, Chính phủ, đứng đầu là Hồ Chủ tịch
cùng toàn thể nhân dân để quốc tang. Trong bức thư gửi đồng bào trong lễ quốc
tang Huỳnh Thúc Kháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá thoả đáng những
cống hiến của ông đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc : “Cụ Huỳnh là một
người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nước mà

trước đây cụ bị bọn thực dân làm tội đày ra Côn Đảo, mười mấy năm trường
gian nan cực khổ. Nhưng lòng son, dạ sắt, yêu nước thương nòi của cụ chẳng
những không sờn, mà lại thêm kiên quyết.
Cụ Huỳnh là một người giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khó không
làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan.
Cả đời Cụ không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm làm giàu. Cả
đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập ...”.
Hồ Tùng Mậu cũng điếu văn Huỳnh Thúc Kháng bằng mấy câu thơ chứa
chan niềm đau xót :
Bể Đà Nẵng triều thẫm
Đèo Hải Vân mây sầu
Tháng tư tin buồn đến
Huỳnh bộ trưởng đi đâu?
Trông vào Bộ Nội vụ
Tài đức tiếc thương nhau
Đồng bào ba chục triệu
Đau đớn lệ rơi châu

17


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

Huỳnh Thúc Kháng mất đúng lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống
thực dân Pháp đang trong giai đoạn đầy cam go, khó khăn, nhưng dường như sự
ra đi ấy không những không làm nao lòng quốc dân, mà ngược lại, nó tiếp thêm
sức mạnh cho muôn triệu đồng bào ta trên dưới một lòng dốc chí, bền gan học
tập tấm gương yêu nước của nhà chí sĩ để tiếp tục chiến đấu không khoan
nhượng, không nản chí. Với ý nghĩa đó, Huỳnh Thúc Kháng mãi là một tấm
gương yêu nước ngời sáng. Sự nghiệp cách mạng của ông sẽ sống mãi, và hơn

thế nữa, trước tác của ông với những tác phẩm bàn luận đến những vấn đề trọng
đại của dân tộc, của đất nước trong một thời đoạn lịch sử nhiều biến động, xứng
đáng được quan tâm, đánh giá một cách khách quan và công bằng hơn.
Trong số các nhà nho yêu nước đầu thế kỉ, có thể nói Huỳnh Thúc Kháng
là người tiến xa nhất, đúng hơn, là người duy nhất trong số họ đến được với
cách mạng tháng Tám, tiến xa nhất trong phong trào đấu tranh yêu nước và giải
phóng dân tộc với hành trạng là tinh thần yêu nước kiên trung. Cuộc đời ông,
văn nghiệp ông, vì vậy vắt ngang qua hai thời kì với bước rẽ lịch sử đặc biệt
quan trọng không chỉ trong đời sống chính trị – xã hội mà cả trong đời sống
văn chương.

18


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

Chương 2
VĂN NGHIỆP HUỲNH THÚC KHÁNG
Huỳnh Thúc Kháng được biết đến trước tiên với tư cách một nhà nho chí sĩ
tiêu biểu của cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XIX, một nhân cách cao khiết với
bản lĩnh chính trị kiên trung, vì thế khi nghiên cứu thơ văn của ông, lẽ dĩ nhiên
chúng tôi không tránh khỏi việc có đôi lúc lấy sự nghiệp chính trị của ông như
một hệ tham chiếu để tìm hiểu văn học Huỳnh Thúc Kháng trên một số phương
diện tiêu biểu nào đó. Nhưng dù sao, mục đích cuối cùng của tác giả luận văn
này vẫn là hướng đến làm sáng rõ vai trò và những đóng góp của Huỳnh Thúc
Kháng với tư cách một nhà văn đối với tiến trình vận động tiến vào quỹ đạo
hiện đại hóa của nền văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ cả ở những mặt
tích cực, có tác động nhất định đến sự phát triển và cả những mặt hạn chế, thậm
chí có tác động kìm hãm tiến trình ấy trong một thời đại đầy bão táp và hết sức
nhạy cảm.

Trong quá trình tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp Huỳnh Thúc Kháng, chúng
tôi nhận thấy, các sáng tác văn chương của ông luôn gắn liền với những mốc
lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng. Trên cơ sở đó, để thuận lợi cho việc
triển khai đề tài luận văn, chúng tôi đã bám sát các mốc quan trọng ấy và chia
trước tác của ông làm ba giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn sáng tác, chúng tôi sẽ điểm
nhanh lại hoàn cảnh sáng tác trước khi đưa ra một vài nhận xét, đánh giá có tính
chất khái quát về giá trị thơ văn nhà chí sĩ. Tuy nhiên để hình dung rõ về văn
nghiệp của ông, chúng tôi xin đưa ra đây một niên biểu tương đối đầy đủ dựa
trên những tư liệu mới nhất mà chúng tôi có được về các sáng tác thơ văn của

19


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

Huỳnh Thúc Kháng theo tiến trình thời gian. Trên cơ sở niên biểu này, chúng
tôi sẽ chọn một số tác phẩm tiêu biểu cho từng giai đoạn sáng tác của ông để
khảo sát và phân tích.
Niên biểu văn nghiệp của Huỳnh Thúc Kháng :

1904 – 1905 - Cùng Trần Quý Cáp viết bài Lương ngọc danh sơn phú

1908 - 1921

- Ở tù Côn Đảo viết : Mậu thân dân biến ký, Khả tác lục,
những bản trên đều đã mất tích.

1926

- Phan Tây Hồ Tiên sinh lịch sử.

- Xuất bản Tập diễn văn của ông Huỳnh Thúc Kháng. Chân
Phương ấn quán, Hà Nội, 1926.

1927

- Mộ chí ông Phan Châu Trinh.
- Bài Tựa tiểu thuyết “Tây phương mỹ nhơn” của Huỳnh Thị
Bảo Hoà. Nhà in Bảo Tồn – Sài Gòn,1927.

1929

- Nhà học giả phải có một cái quê hương.
- Vài nét đặc sắc của vận văn nước ta (T.D số 195, 200, 203 –
1929).

1930

- Cuộc canh tân với lớp thanh niên (T.D số 304 (2 – 8 – 1930)

20


Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam

1930 - 1934

* Tranh luận Truyện Kiều :
- Chánh học cùng tà thuyết có phải là vấn đề chung không?
(T.D, ngày 17 – 9 – 1930).
- Lại vấn đề chánh học cùng tà thuyết (T.D ngày 18 – 10 –

1930).
- Vịnh Kiều (T.D ngày 1 – 11 – 1933).
- Mê người trong tiểu thuyết cũng mê người trong tuồng hát
(T.D, ngày 24 – 4 – 1934).
- Lại câu chuyện bác Truyện Kiều (T.D, ngày 17 – 9 – 1934)
* Tranh luận về Hán học :
- Những khuyết điểm của Khổng giáo (T.D số 324 ngày 11 –
10 – 1930).
- Hán học trong xã hội ta ngày nay (T.D số 375 ngày 15 – 4 –
1931).
- Lối học khoa cử và lối học của Tống nho có phải là học đạo
Khổng Mạnh không? (T.D từ số 431 (28 – 10) đến 18 – 11 –
1931).
- Những thảm hoạ quái gở trong chuyện thi cử (T.D số 417 (9

21


×