Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Vận dụng dạy học trải nghiệm trong phần “Công dân với đạo đức” môn giáo dục công dân lớp 10 tại trường THPT yên hòa, hà nội”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.35 KB, 86 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách
thức, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, những thành
tựu về kinh tế của nước ta chưa vững chắc, chất lượng nguồn nhân lực và sức cạnh
tranh của nền kinh tế chưa cao, môi trường văn hoá còn tồn tại nhiều hạn chế, chưa
hội đủ các nhân tố để phát triển nhanh và bền vững. Cũng trong khoảng thời gian
trước và sau khi nước ta tiến hành đổi mới, thế giới chứng kiến những biến đổi sâu
sắc về mọi mặt. Các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và lần thứ tư nối tiếp
nhau ra đời, kinh tế tri thức phát triển mạnh đem lại cơ hội phát triển vượt bậc,
đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với mỗi quốc gia, nhất là
các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Mặt khác, những biến đổi về khí hậu,
tình trạng cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái và
những biến động về chính trị, xã hội cũng đặt ra những thách thức có tính toàn cầu.
Để bảo đảm phát triển bền vững, nhiều quốc gia đã không ngừng đổi mới, tập
trung phát triển giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bị cho các
thế hệ tương lai nền tảng văn hoá vững chắc và năng lực thích ứng cao trước mọi
biến động của thiên nhiên và xã hội. Không nằm ngoài xu thế đó, giáo dục nước ta
cũng cần phải giúp người học hình thành một hệ thống phẩm chất, năng lực đáp
ứng được với yêu cầu mới của thời đại.
Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4
tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong đó nêu rõ:“Chuyển mạnh quá trình giáo
2




dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triến toàn diện năng lực và phẩm chất
người học” [12]. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu việc dạy các môn học nói chung và
môn GDCD nói riêng phải giáo dục phẩm chất, năng lực cho HS phù hợp với yêu
cầu mới.
Môn GDCD ở trường THPT có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc hình
thành nên thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng và cung cấp tri
thức, kĩ năng sống cho con người, giúp hình thành nhân cách tốt đẹp. Là một trong
năm phần của chương trình môn GDCD, học phần “Công dân với đạo đức” góp
phần đào tạo những người lao động mới vừa có tri thức khoa học, vừa có đạo đức,
vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, vừa có phẩm chất chính trị tư tưởng, vừa có ý
thức trách nhiệm cộng đồng, vừa có trách nhiệm đối với gia đình và đối với chính
bản thân mình. Có thể thấy được, môn GDCD nói chung và học phần “Công dân
với đạo đức” nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức và
phẩm chất, năng lực cho HS THPT.
Để giáo dục đạo đức cho HS THPT nhằm phát triển năng lực của người học
có nhiều phương pháp dạy học có thể đáp ứng được trong đó DHTN là một
phương pháp dạy học có nhiều ưu thế.
Trong thực tiễn việc dạy và học môn GDCD nói chung và phần “Công dân
với đạo đức” nói riêng hiện nay chưa đạt được hiệu quả thực sự bởi nhiều nguyên
nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản là phương pháp dạy học chưa phù hợp, chủ yếu
vẫn là lối truyền thụ một chiều, thụ động, thiếu tính thực tiễn, việc sử dụng các
phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo của HS còn chưa
nhiều, từ đó đã làm giảm sút vị trí của môn học trong nhà trường THPT. Chính vì
vậy, cần phải tổ chức dạy học phần “Công dân với đạo đức” theo hướng tích cực
hóa hoạt động, tạo điều kiện cho HS phát huy hết khả năng của mình để có thể đi
đến mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực cho HS.

3



Vì những lí do trên, em mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Vận dụng DHTN trong
phần “Công dân với đạo đức” môn Giáo dục công dân lớp 10 tại trường THPT
Yên Hòa, Hà Nội”
2. Lịch sử nghiên cứu
Tài liệu nước ngoài
Trong công cuộc cải cách giáo dục căn bản và toàn diện của nước ta hiện
nay, HĐTN trong học tập của HS được coi trọng ở tất cả các môn học cũng như ở
các nội dung, hoạt động giáo dục nằm ngoài môn học. Tuy nhiên, trên thế giới, lí
luận và các thực tiễn coi trong HĐTN ở trường học đã xuất hiện từ rất sớm. Ngay
từ đầu thế kỉ XX, lí luận của nhà giáo dục người Mĩ John Dewwey (1859-1952)
với nguyên lý Học thông qua làm đã có ảnh hưởng tới giáo dục Mĩ và giáo dục thế
giới.
John Dewey cho rằng “quá trình sống và quá trình giáo dục không phải là
hai mà thực chất chỉ là một quá trình. Giáo dục tốt nhất phải là sự học tập trong
cuộc sống. Ông yêu cầu nhà trường phải là một dạng cuộc sống xã hội, trở thành
một xã hội thu nhỏ, phải đem những thứ thiết yếu của xã hội vào quá trình giáo
dục. Ông là người tuyên ngôn về học qua làm, học bắt đầu từ làm, trẻ em phải học
tập trong chính cuộc sống xã hội. Dạy học phải giao việc cho HS làm, chứ không
phải giao vấn đề cho HS học”[19;51]
Một trong những lý thuyết trực tiếp của hoạt động trải nghiệm sáng
tạo trong dạy học là “Lý thuyết học từ trải nghiệm của David A Kolb”. Trong
đó, Kolb đã chỉ ra rằng: “Học từ trải nghiệm là quá trình học theo đó kiến thức,
năng lực được tạo ra thông qua việc chuyển hóa kinh nghiệm học. Học từ trải
nghiệm gần giống với học thông qua làm nhưng khác ở chỗ nó gắn với kinh
nghiệm và cảm xúc cá nhân” [19]. Lý thuyết Học từ trải nghiệm là cách tiếp cận về
4



phương pháp học đối với các lĩnh vực nhận thức. Nếu như mục đích của việc dạy
học chủ yếu là hình thành và phát triển hệ thống tri thức khoa học, năng lực và
hành động khoa học cho mỗi cá nhân thì mục đích hoạt động giáo dục cho mỗi cá
nhân thì mục đích hoạt động giáo dục là hình thành và phát triển những phấm
chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, các giá trị sống, kĩ năng sống và những năng
lực chung khác. Để phát triển sự hiểu biết khoa học, chúng ta có thể tác động vào
nhận thức của người học nhưng để hình thành và phát triển phẩm chất thì người
học phải được trải nghiệm. Trải nghiệm sẽ làm cho việc học trở nên hiệu quả nếu
trải nghiệm có sự định hướng, tư vấn của người dạy.
Conrag và Hedin năm 1955 “đã phỏng vấn 4000 HS trong 33 chương trình
học tập trải nghiệm khác nhau và rút ra được kết luận là sự học qua trải nghiệm
đã đem lại kết quả tích cực đối với sự phát triển của tâm lý người học, chẳng hạn
như: làm tăng sự tự tin vào chính mình, đem lại nhiều lợi ích cho nhà trưởng, năng
lực tự chủ và khả năng lý luận của người học cũng được phát triển và cho kết quả
tích cực như phát triển cám xúc xã hội, có ý thức trách nhiệm với người khác,
năng lực xã hội tiến triển nhanh, có ý thức và thái độ tích cực khi làm việc nhóm
và làm việc với người lớn, tăng ham muốn tham gia các hoạt động xã hội, đặc biệt
là năng lực xác nhận và giải quyết vấn đề cũng tăng lên đáng kể”[19; 55]
Tại Hàn Quốc, trong cuốn “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo” của Bộ
khoa học – kĩ thuật và giáo dục Hàn Quốc năm 2009 đã đề cập đến một trong
những chương trình đổi mới giáo dục Hàn Quốc HĐTNST. HĐTNST là hoạt
động nằm ngoài các hệ thống môn học trong nhà trường; đó là những hoạt động tự
chủ, hoạt động câu lạc bộ, hoạt động từ thiện và hoạt động định hướng. HĐTNST
tại Hàn Quốc không tách rời hệ thống các môn học trong nhà trường mà có quan
hệ tương tác, bổ trợ nhau để hình thành và phát triển phẩm chất, tư tưởng, ý
chí, kĩ năng sống và những năng lực cần có trong xã hội hiện đại. Hoạt động
5


này mang tính thực tiễn rất cao, gắn bó với đời sống cộng đồng, có tính tổng hợp

nhiều lĩnh vực
Nhìn chung, DHTN là một lý thuyết học tập được thế giới rất coi trọng bởi
nó đề cao việc hình thành năng lực cho người học thông qua những trải nghiệm
thực tiễn, là hoàn toàn phù hợp với các quy luật về tâm lí trong việc hình thành,
phát triển nhân cách cho HS.
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có nhiều nhà giáo dục, các tác giả
nghiên cứu về HĐTN và tiến hành đưa vào vận dụng:
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
(khoá XI) đã đề cập đến việc tổ chức HĐTN sáng tạo cho HS như là một phương
pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học. Mục đích của việc tổ chức hoạt
động trải nghiệm sáng tạo nhằm hình thành và phát triển nhân cách, phẩm chất
cho người học; các giá trị sống, kĩ năng sống và những năng lực cần có của người
học để đáp ứng những yêu cầu con người trong xã hội hiện đại. Các HĐTNST sẽ
được thiết kế theo chủ đề của từng môn học và theo hướng tích hợp liên môn. Hình
thức và phương pháp tổ chức các HĐTNST cũng phong phú linh hoạt hơn, mở hơn
về thời gian, không gian, quy mô, đối tượng tham gia,... tạo điều kiện tối đa cho
người học tham gia trải nghiệm và phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo.
Hơn hết, người học được chú trọng xác định là trung tâm của quá trình trải nghiệm
sáng tạo.
Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể Việt Nam sau năm 2015
cũng đề cập đến tám lĩnh vực học tập chủ chốt và HĐTNST. Theo dự thảo,
HĐTNST sẽ được thiết kế, tổ chức ở cả ba cấp học, được phát triển từ các
hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khóa và được thiết kế theo các chuyên đề tự
chọn. HĐTNST có thể được tổ chức bằng các hình thức như: tham quan thực tế,
6


diễn đàn, giao lưu, trò chơi, câu lạc bộ,... Từ đó, HS được phát triển các kĩ năng,
năng lực cũng như cảm xúc, phẩm chất đạo đức,... nhờ việc vận dụng những kiến
thức, kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn cuộc sống một cách sáng tạo. Như

vậy, có thể thấy HĐTN chính là một nội dung quan trọng trong định hướng đổi
mới giáo dục phổ thông ở Việt Nam giai đoạn sau 2015.
GS.VS.NGND.Phạm Minh Hạc, tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 173
(10/1986) có bài viết “Phương pháp tiếp cận hoạt động – nhân cách và lý luận
chung về PPDH” nhấn mạnh việc học tập và giáo dục, rèn luyện, lĩnh hội tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo, lĩnh hội các giá trị xã hội là hoạt động chính của con người. Con
người có tự lực hoạt động mới biến kiến thức, kinh nghiệm mà xã hội tích lũy được
thành tri thức của bản thân.
Tác giả Lê Huy Hoàng, trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong bài viết “Một
số vấn đề về hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình giáo dục phổ
thông mới” có đề cập đến quan niệm về HĐTN sáng tạo. Theo tác giả, hoạt động
trải nghiệm sáng tạo sẽ giúp người học hình thành và phát triển được phẩm chất,
năng lực, nhận ra năng khiếu, sở thích, đam mê; bộc lộ và điều chỉnh cá tính; nhận
ra chính mình cũng như khuynh hướng phát triển của bản thân. [17]
Tác giả Đỗ Ngọc Thống trong bài nghiên cứu “Hoạt động trải nghiệm sáng
tạo – kinh nghiệm quốc tế và vấn đề của Việt Nam” đã kết luận rằng: “Lâu nay,
chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam đã có hoạt động giáo dục nhưng chưa
được chú ý đúng mức, chưa hiểu đúng vị trí, vai trò và tính chất của các hoạt động
giáo dục. Chưa xây dựng được một chương trình hoạt động đa dạng, phong phú và
chi tiết với đầy đủ các thành tổ của một chương trình giáo dục. Chưa có hình thức
đánh giá và sử dụng kết quả các hoạt động giáo dục một các phù hợp.”

7


Tác giả Đinh Thị Kim Thoa, trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà
Nội đã trình bày đến sự khác biệt giữa học đi đôi với hành, học thông qua làm và
học từ trải nghiệm trong bài viết“HĐTNST góc nhìn từ lí thuyết và học từ trải
nghiệm”. Trong đó,“học từ trải nghiệm gần giống với học thông qua làm nhưng
khác ở chỗ là nó gắn với kinh nghiệm và cảm xúc cá nhân” [9]

Trong “Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về Giáo dục đạo đức - GDCD trong giáo
dục phổ thông Việt Nam” do Bộ GD&ĐT tổ chức năm 2013 với hơn 200 bài tham
luận đã đánh giá bao quát nội dung chương trình GDCD, đề xuất định hướng đổi
mới trong đó hướng tới việc đổi mới PPDH, tiếp cận năng lực người học, đặc biệt
rất chú trọng đến tăng cường HĐTN để phát huy tối đa sự sáng tạo của HS. Tuy
nhiên tại thời điểm đó, bản chất, nội dung và phương pháp triển khai HĐTN cho
HS cẫn chưa được hệ thống lại một cách tường minh, đa số tài liệu còn ở dạng
tiếng nước ngoài, khó tiếp cận.
Bên cạnh đó, trong “Kỷ yếu hội thảo HĐTNST cho HS phổ thông” của Bộ
GD&ĐT cũng đã có nhiều bài viết của các tác giả đề cập đến HĐTNST trong
chương trình giáo dục phổ thông mới. Chẳng hạn như: Tác giả Nguyễn Thị Thu
Hoài – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã nêu lên sự cần thiết phải tổ chức
HĐTN sáng tạo để phát huy năng lực người học [18;50]. Tác giả Dương Thị Thúy
Nga – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội với bài viết: Học GDCD qua trải nghiệm,
tác giả đã nêu lên vai trò của học GDCD qua trải nghiệm và quy trình thực hiện.
[21;115]
Đến năm 2016 và 2017 và gần đây nhất là 2018, một loạt các sách nghiên
cứu và hướng dẫn DHTNđược xuất bản, trình bày một cách chi tiết, khoa học về tổ
chức HĐTN, áp dụng vào các bài học cụ thể trong từng môn, từng khối lớp, tiêu
biểu như:

8


Năm 2016 có “Tổ chức HĐTN sáng tạo trong nhà trường phổ thông” so
Nguyễn Thị Liên chủ biên; “Tài liệu hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục trải
nghiệm sáng tạo cho HS tiểu học – Tài liệu dùng cho GV” do Nguyễn Thị Chi chủ
biên; “Tài liệu hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo cho HS
trung học cơ sở - Tài liệu dùng cho GV” do Trương Xuân Cảnh chủ biên.
Năm 2017, một loạt sách hướng dẫn tổ chức HĐTN đã được ra đời. Xin

điểm qua một số đầu sách như: “Hướng dẫn tổ chức HĐTN cho HS tiểu học –
Dành cho GV và cán bộ quản lý giáo dục theo bộ tài liệu “HĐTN” từ lớp 1 đến lớp
5 do Nguyễn Quốc Vương và Lê Xuân Quang đồng tác giả; “HĐTN sáng tạo trong
các môn học lớp 6” do Tưởng Duy Hải tổng chủ biên,... Đây đều là những tài liệu
vô cùng bổ ích, hỗ trợ GV trong quá trình thực hiện đổi mới PPDH của bản thân.
Đồng thời trong năm 2017 và 2018, đã có thêm nhiều công trình nghiên cứu,
luận văn, luận án, bài báo khoa học đề cập đến HĐTN ở các lĩnh vực, các bộ môn
cụ thể như Vật lý, tâm lý, Lịch sử,... Tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội có luận
văn “Tổ chức HĐTN sáng tạo trong dạy học chương Dòng điện trong môi trường
Vật lí 11” của tác gải Phan Tuấn Anh; “Hứng thú học môn GDCD của HS trung
học cơ sở” của tác giả Phạm Thị Hiền; “Tổ chức HĐTN trong dạy học môn Giáo
dục công dân lớp 7 ở trường THCS & THPT Nguyễn Tất Thành” của tác giả Vũ
Thị Anh,... Tất cả đều khẳng định dạy học theo trải nghiệm là một phương pháp
dạy học phát triển toàn diện nhân cách cho HS cần được triển khai trong nhà
trường phổ thông.
Có thể nói, đã có rất nhiều tác giả quan tâm và bàn luận đến DHTN và
DHTN trong môn GDCD. Tuy nhiên chưa có một tài liệu cụ thể nào đề cập tới
DHTN trong phần “Công dân đạo đức” môn GDCD lớp 10 tại trường THPT Yên
Hòa, Hà Nội.

9


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng DHTN trong
phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 tại trường THPT Yên Hòa.
3.2. Nhiện vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung vào ba nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc DHTN trong phần “Công dân với đạo

đức” trong môn GDCD lớp10 ở trường THPT.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc DHTN trong phần “Công dân với đạo
đức” trong môn GDCD lớp 10 tại trường THPT Yên Hòa, Hà Nội.
- Đề xuất một số biện pháp nhầm nâng cao hiệu quả DHTN trong phần
“Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Yên Hòa, Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: DHTN trong phần “Công dân với đạo đức” trong
môn GDCD lớp 10 ở trường THPT.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu DHTN phần “Công
dân với đạo đức” trong môn GDCD lớp10 tại trường THPT Yên Hòa, Hà Nội
trong thời gian tháng 3 năm học 2018 - 2019.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Phương pháp phân tích – tổng hợp: sử dụng trong chương 1, 2 để nghiên
cứu cơ sở lí luận, thực trạng, đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả DHTN phần
“Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10.
10


+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sử dụng ở chương 1 để xuây dựng cơ sở
lí luận của việc DHTN phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát – điều tra: sử dụng ở chương 2 để đánh giá thực
trạng sử dụng DHTN trong phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở
trường THPT Yên Hòa.
+ Phương pháp thống kế và xử lý số liệu: sử dụng ở chương 2 để đánh giá
thực trạng sử dụng DHTN trong phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10
ở trường THPT Yên Hòa.
6. Ý nghĩa của đề tài

Hệ thống hóa những vấn đề lí luận về DHTN trong phần “Công dân với đạo
đức” môn GDCD lớp 10 ở trường THPT.
Tìm hiểu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận
dụng DHTN trong phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 tại trường
THPT Yên Hòa, Hà Nội.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính
của đề tài gồm 2 chương 4 tiết:
Chương 1. Cơ sở lí luận của việc dạy học trải nghiện trong phần “Công dân
với đạo đức” môn Giáo dục công dân lớp 10 ở trường THPT. (2 tiết)
Chương 2. Cơ sở thực tiễn và một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học
trải nghiệm trong phần “Công dân với đạo đức” môn Giáo dục công dân lớp 10 tại
trường THPT Yên Hòa, Hà Nội. (2 tiết)

11


NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA DẠY HỌC TRẢI NGHIỆM TRONG
PHẦN CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Một số vấn đề lí luận về dạy học trải nghiệm
1.1.1. Khái niệm hoạt động trải nghiệm và dạy học trải nghiệm
1.1.1.1. Hoạt động

Theo từ điển Tiếng Việt, hoạt động là tiến hành những việc có quan hệ với
nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã hội. [22;436]
Về phương diện Triết học, tâm lí học, hoạt động là phương thức tồn tại của
con người trong thế giới. Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con
người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cho cả thế giới, cho cả con người

(chủ thể). Trong mối quan hệ đó hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa diễn ra
đồng thời và bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau.
Trong hoạt động, con người vừa tạo ra sản phẩm, đồng thời tâm lý, ý thức,
nhân cách cũng được bộc lộ và hình thành.
1.1.1.2. Trải nghiệm

Theo Từ điển Tiếng Việt “trải nghiệm” là sự trải nghiệm qua, kinh qua và
chiêm nghiệm một quá trình. Trải nghiệm là hành động, kết quả của hành động là
người tham gia có được kinh nghiệm. [22]
Sự trải nghiệm sẽ mang lại cho con người những kinh nghiệm phong phú.
Quá trình trải nghiệm là quá trình tích lũy kinh nghiệm, giúp con người hình thành
vốn kinh nghiệm, vốn sống, hình thành phẩm chất và năng lực con người.

12


Theo các nhà khoa học giáo dục, trải nghiệm chính là những tồn tại khách
quan tác động vào giác quan cuả con người, tạo ra cảm giác, tri giác, biểu tượng,
con người có cảm thấy có tác động đó và cảm nhận nó một cách rõ nét, để lại ấn
tượng sâu đậm, rút ra bài học, vận dụng vào thực tiễn đời sống, hình thành nên các
thái độ giá trị.
Có rất nhiều dạng trải nghiệm phong phú và đa dạng: [15;29]
Căn cứ vào phạm vi diễn ra hoạt động của HS sẽ có các dạng: trải nghiệm
trên lớp học, trải nghiệm ngoài đời …
Căn cứ vào các cơ quan tham gia hoạt động sẽ có các dạng: trải nghiệm
trong đầu; trải nghiệm bằng các thao tác chân tay, trải nghiệm các giác quan.
Căn cứ vào quá trình tâm lý: trải nghiệm các cảm giác bên ngoài, trải
nghiệm các cảm giác bên trong.
Căn cứ vào các nội dung giáo dục sẽ có các dạng: trải nghiệm cảm xúc, trải
nghiệm đạo đức, trải nghiệm giá trị, trải nghiệm sáng tạo,…

1.1.1.3. Hoạt động trải nghiệm
Đến nay đã có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm HĐTN. Có thể
nêu một số quan niệm về HĐTN của các nhà nghiên cứu sau:
Theo Chương trình giáo dục phổ thông – Chương trình tổng thể, HĐTN là
hoạt động mà trong đó “HS dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức và kĩ năng từ
nhiều lĩnh vực giáo dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường,
gia đình, xã hội; tham gia hoạt động hướng nghiệp và hoạt động phục vụ cộng
đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục; qua đó hình thành những
phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và một số năng lực thành phần đặc thù của
hoạt động này như: năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động, năng lực điịnh hướng
13


nghề nghiệp, năng lực thích ứng với những biến động trong cuộc sống và những kĩ
năng sống khác.” [4;28]
Theo tác giả Bùi Ngọc Diệp – Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam:
“HĐTNST là các hoạt động dạy và học trong nhà trường phổ thông. Thông qua
các hoạt động thực hành, những việc làm cụ thể và các hành động của HS,
HĐTNST sẽ hai thác kinh nghiệm của mỗi cá nhân, tạo cơ hội cho các em vận
dụng một cách tích cực những kiến thức đã học vào thực tiễn và đưa ra những
sáng kiến của mình, từ đó phát huy và nuôi dưỡng tính sáng tạo của mỗi cá nhân”.
[11]
Theo tác giả Lê Huy Hoàng: “HĐTNST là hoạt động xã hội, thực tiễn giúp
HS tự chủ trải nghiệm trong tập thể, qua đó hình thành và thể hiện phẩm chất
năng lực; nhận ra năng khiếu, sở thích, bộc lộ và điều chỉnh cá tính, giá trị, nhận
ra chính mình cũng như khuynh hướng phát triển của bản thân; bổ trợ và cùng với
các hoạt động dạy học trong chương trình giáo dục thực hiện tốt nhất mục tiêu
giáo dục. Hoạt động này nhẫn mạnh sự trải nghiệm thức đẩy năng lực sáng tạo
của người học và được tổ chức một cách linh hoạt, sáng tạo. [17]
Nhìn chung, dù được diễn đạt bằng những cách khác nhau nhưng các tác giả

đều thống nhất ở một điểm: HĐTN là hoạt động giáo dục, được tổ chức theo
phương thức trải nghiệm nhằm phát triển toàn diện nhân cách HS.
Từ sự tiếp cận những quan điểm của các tác giả, kết hợp với thực tiễn tổ
chức HĐTN trong dạy học bộ môn ở trường THPT, theo tác giả “HĐTN là hoạt
động giáo dục, trong đó HS chủ động, tự giác, tích cực và được trực tiếp tham gia
các hoạt động thực tiễn trong môi trường nhà trường cũng như môi trường gia
đình và xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của GV, qua đó phát triển tình cảm,

14


đạo đức, phẩm chất, năng lực từ đó hình thành, phát triển nhân cách cá nhân đồng
thời tích lũy kinh nghiệm cũng như phát triển tiềm năng của bản thân”
1.1.1.4. Dạy học trải nghiệm
DHTN là hoạt động giáo dục, trong đó nội dung và cách thức tổ chức tạo
điều kiện cho từng HS được tham gia trực tiếp và làm chủ thể của hoạt động, tự lên
kế hoạch, chủ động xây dựng kế hoạch, mục tiêu của hoạt động học tập cho bản
thân và cho nhóm để hình thành và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí,
tình cảm, giá trị, kỹ năng sống và những năng lực cần có của công dân trong xã hội
hiện đại, qua hoạt động HS phát huy khả năng sáng tạo để thích ứng và tạo ra cái
mới, giá trị cho cá nhân và cộng đồng.
Nhiều quan điểm cho rằng “DHTN” là một hình thức dạy học, cũng có quan
điểm cho rằng đây là một PPDH. Những quan điểm này đều chưa đầy đủ và chính
xác. Vì “dạy học trải nghiệm là một phạm trù bao hàm nhiều phương pháp, hình
thức trong đó người dạy khuyến khích người học tham gia trải nghiệm thực tế, sau
đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển kĩ năng, định hình các
giá trị sống và phát triển tiềm năng bản thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng
đồng và xã hội”. Do đó, xem xét “DHTN” với tư cách là một quá trình dạy học với
sự tổng hoà, kết hợp của các phương pháp và hình thức dạy học là hợp lí hơn cả.
1.1.2. Nội dung dạy học trải nghiệm


Nội dung HĐTN rất đa dạng, mang tính tích hợp, tổng hợp kiến thức, kĩ
năng của nhiều môn, nhiều lĩnh vực, thiết thực và gần gũi với cuộc sống; đáp ứng
nhu cầu hoạt động của HS; qua đó giúp các em vận dụng hiểu biết của mình vào
trong thực tiễn một cách dễ dàng, thuận lợi. Có thể phân chia nội dung HĐTN
thành các nội dung chính sau:
Chính trị - xã hội:
15


Hoạt động thuộc lĩnh vực chính trị - xã hội là những hoạt động giúp HS tiếp
cận với các vấn đề chính trị, xã hội của cộng đồng, dân tộc, đất nước. Hoạt động
thuộc lĩnh vực này sẽ giúp các em HS có điều kiện để chia sẻ những suy nghĩ, tình
cảm, quan điểm, sự quan tâm của mình với các vấn đề thời sự, chính trị của đất
nước, đồng thời vận dụng những kiến thức đã học của các môn học vào cuộc sống
thực tiễn, đồng thời giúp các em quan tâm hơn đến những sự kiện xung quanh, từ
đó giáo dục các giá trị cho HS như: tôn trọng, chia sẻ, cảm thông, yêu thương,
trách nhiệm, hạnh phúc, giúp các em sống có ý thức cộng đồng.
Khoa học – kĩ thuật:
Hoạt động thuộc lĩnh vực khoa học - kỹ thuật giúp HS bước đầu tiếp cận với
các ngành khoa học liên quan tới việc phát triển kỹ thuật và cao hơn nữa HS có thể
thiết kế các sản phẩm trong đó có ứng dụng các kiến thức của các môn khoa học
vào thực tiễn cuộc sống. Thông qua các hoạt động thuộc lĩnh vực khoa học – kỹ
thuật HS có thể tìm hiểu về khoa học theo các chuyên đề học tập phù hợp với lứa
tuổi. Lĩnh vực này đồng thời cũng giúp HS tìm hiểu về các danh nhân, nhà bác
học, những tấm gương ham học, say mê phát minh, sáng chế, hoặc tìm hiểu về các
ngành nghề trong xã hội hay đưa ra những sáng kiến, ý tưởng hay về khoa học
được áp dụng trong thực tiễn cuộc sống.
Văn hóa – nghệ thuật:
Đây là lĩnh vực nội dung khá rộng của HĐTN trong nhà trường phổ thông.

Lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật ở trường phổ thông giúp HS tìm hiểu và khám phá
về văn hóa, nghệ thuật từ đó bước đầu giúp các em phát hiện ra năng lực, tố chất
và sở thích, khả năng, năng khiếu thật sự của bản thân để có thể tham gia vào các
hoạt động một cách tích cực, hứng thú.

16


Vui chơi – giải trí:
Vui chơi – giải trí là một trong các yếu tố để duy trì và phát triển các phong
trào và đoàn thể thanh thiếu niên. Vui chơi – giải trí giúp các em được thư giãn sau
những giờ học mệt mỏi với những bài vở, lý thuyết ở trong nhà trường.
Vui chơi – giải trí mang tính chất tự do hơn các lĩnh vực nội dung khác
HĐTN, đó là các hoạt động như thường thức nghệ thuật, chơi các trò chơi hay ca
hát và ca múa tập thể… Nó đáp ứng nhu cầu về việc nghỉ ngơi, thư giãn của HS
đồng thời phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi HS phổ thông. Bên cạnh chức năng thư
giãn vui chơi - giải trí còn chuyền tải những bài học về đạo đức, nhân bản, luân lý,
giá trị,.. đến với HS một cách nhẹ nhàng, hấp dẫn. Vui chơi – giải trí đồng thời
cũng giúp cho các em tiếp thu bài học một cách hiệu quả hơn.
Lao động công ích:
Lao động công ích là việc cá nhân đóng góp một phần sức lao động của
mình để tham gia xây dựng, tu bổ các công trình công cộng vì lợi ích chung của
cộng đồng nhằm duy trì, bảo tồn các công trình công cộng cũng như kịp thời phòng
chống và khắc phục hậu quả của thiên tại, hỏa hoạn, bệnh dịch. Lao động công ích
giúp HS hiểu được giá trị của lao động, từ đó trân trọng sức lao động và có ý thức
bảo vệ, giữ gìn những công trình công cộng. Thông qua lao động công ích HS
được rèn luyện các kỹ năng sống như: kỹ năng hợp tác, kỹ năng tìm kiếm và xử lý
thong tin, kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năn
đặt lục tiêu, kỹ năng lập kế hoạch.
Thể dục thể thao:

Thể dục thể thao là lĩnh vực không thể thiếu trong các lĩnh vực nội dung của
HĐTN ở trường phổ thông, bởi nó giúp các em HS nâng cao sức miễn dịch cơ thể
và giúp ngăn ngừa các loại bệnh tật, đồng thời nâng cao sức khỏe tinh thần, rèn
luyện bản thân và giúp phát triển chiều cao, có sức khỏe đẻ học tập tốt hơn. Ngoài
17


ra, các môn thể thao đồng đội cũng rèn luyện cho HS tinh thần đoàn kết, kỹ năng
hợp tác. Trong bất kỳ môn thể thao đồng đội nào, yếu tố đoàn kết là quan trọng
nhất để giành chiến thắng.
Định hướng nghề nghiệp:
Định hướng nghề nghiệp là một nội dung quan trọng của HĐTN, thông qua
hoạt động này, HS có được những trải nghiệm thực tiễn về nghề nghiệp, giúp các
em có cơ sở để nhìn lại khả năng của bản thân và phù hợp với nhu cầu lao động
của địa phương và xã hội.
1.1.3. Hình thức dạy học trải nghiệm

HĐTN được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như hoạt động câu lạc
bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các hội thi,
hoạt động giao lưu, hoạt động nhân đạo, hoạt động tình nguyện, hoạt động cộng
đồng, sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa (kịch, thơ, hát, múa rối,
tiểu phẩm, kịch tham gia,…), thể dục thể thao, tổ chức các ngày hội,… Mỗi hình
thức hoạt động trên đều mang ý nghĩa giáo dục nhất định. Dưới đây là một số hình
thức tổ chức của HĐTN trong nhà trường phổ thông:
CLB là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm HS cùng sở thích,
nhu cầu, năng khiếu,… dưới sự định hướng của những nhà giáo dục nhằm tạo môi
trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các HS với nhau và giữa HS với thầy cô
giáo, với những người lớn khác. Thông qua hoạt động của các CLB, nhà giáo dục
hiểu và quan tâm hơn đến nhu cầu, nguyện vọng mục đích chính đáng của các em.
CLB có thể được tổ chức với nhiều lĩnh vực khác nhau

Trò chơi là hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi với nội dung kiến thức
khoa học, nhằm lôi cuốn HS tham gia vào hoạt động giáo dục và tiếp thu tri thức
một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Trò chơi có thể được sử dụng để khởi động, dẫn
18


nhập vào nội dung bài học như: giải ô chữ, đuổi hình bắt chữ,... để tìm ra từ khóa
dẫn vào nội dung bài. Trò chơi có thể được sử dụng để cung cấp và tiếp nhận tri
thức, đánh giá kết quả, rèn luyện kĩ năng và củng cố những tri thức đã được tiếp
nhận, như: Trò chơi tiếp sức giúp HS tìm và liệt kê kiến thức; từ đó đối chiếu với
kiến thức bài học để đưa ra kết luận cho bản thân; trò chơi sắm vai giúp HS đặt
mình vào tình huống có vấn đề, trải nghiệm cảm xúc, suy nghĩ và quyết định hành
động; từ đó củng cố kiến thức đã học... [20; 254]
Diễn đàn là một hình thức tổ chức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy sự
tham gia của HS thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bày tỏ ý kiến của mình
với đông đảo bạn bè, nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ và những người lớn khác có
liên quan. Mục đích của việc tổ chức diễn đàn là để tạo cơ hội, môi trường cho HS
được bày tỏ ý kiến về những vấn đề các em quan tâm, giúp các em khẳng định vai
trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để khẳng định
vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để khẳng
định mình.
Sân khấu tương tác (hay sân khấu diễn đàn) là một hình thức nghệ thuật
tương tác dựa trên hoạt động diễn kịch, trong đó vở kịch chỉ có phần mở đầu đưa
ra tình huống, phần còn lại được sáng tạo bởi những người tham gia. Mục đích của
hoạt động này là nhằm tăng cường nhận thức, thúc đẩy để HS đưa ra quan điểm,
suy nghĩ và cách xử lí tình huống thực tế gặp phải trong bất kì nội dung nào của
cuộc sống. Thông qua sân khấu tương tác, sự tham gia của HS được tăng cường và
thúc đẩy, tạo cơ hội cho HS rèn luyện những kĩ năng.
Tham quan, dã ngoại là một hình thức tổ chức học tập thực tế hấp dẫn đối
với HS. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để các em HS được đi thăm, tìm hiểu

và học hỏi kiến thức, tiếp xúc với các di tích lịch sử, văn hóa, công trình, nhà

19


máy… ở xa nơi các em đang sống, học tập, giúp các em có được những kinh
nghiệm thực tế, từ đó có thể áp dụng vào cuộc sống của chính các em.
Hội thi/cuộc thi là một trong những hình thức tổ chức hoạt động hấp dẫn, lôi
cuốn HS và đạt hiệu quả cao trong việc tập hợp, giáo dục, rèn luyện và định hướng
giá trị cho tuổi trẻ. Thông qua việc thi đua, HS phải chủ động tìm kiếm thông tin
theo chủ đề và hoạt động đã được giáo viên định hướng, tiến hành phân tích, tổng
hợp để tạo ra sản phẩm đáp ứng với các tiêu chí của cuộc thi. Với hình thức tổ
chức cuộc thi, GV có thể tổ chức ngay tại giờ học nhưng cũng có thể cho HS chuẩn
bị trước ở nhà. Nội dung của hội thi rất phong phú, bất cứ nội dung giáo dục nào
cũng có thể được tổ chức dưới hình thức hội thi/cuộc thi. [20; 254]
Tổ chức sự kiện trong nhà trường phổ thông là một hoạt động tạo cơ hội cho
HS được thể hiện những ý tưởng, khả năng sáng tạo của mình, thể hiện năng lực tổ
chức hoạt động, thực hiện và kiểm tra giám sát hoạt động. Thông qua hoạt động tổ
chức sự kiện HS được rèn luyện tính tỉ mỉ, chi tiết, đầu óc tổ chức, tính năng động,
nhanh nhẹn, kiên nhẫn, có khả năng thiết lập mối quan hệ tốt, có khả năng làm việc
theo nhóm, có sức khỏe và niềm đam mê.
- Giao lưu là một hình thức tổ chức giáo dục nhằm tạo ra các điều kiện cần
thiết để cho HS được tiếp xúc, trò chuyện và trao đổi thông tin với những nhân vật
điển hình trong các lĩnh vực hoạt động nào đó. Qua đó, giúp các em có tình cảm và
thái độ phù hợp, có được những lời khuyên đúng đắn để vươn lên trong học tập,
rèn luyện và hoàn thiện nhân cách.
Hoạt động chiến dịch là hình thức tổ chức không chỉ tác động đến HS mà tới
cả các thành viên cộng đồng. Nhờ các hoạt động này, HS có cơ hội khẳng định
mình trong cộng đồng. Việc HS tham gia các hoạt động chiến dịch nhằm tăng
cường sự hiểu biết và sự quan tâm của HS đối với các vấn đề xã hội như vấn đề

20


môi trường, an toàn giao thông, an toàn xã hội,… giúp HS có ý thức hành động vì
cộng đồng; tập dượt cho HS tham gia giải quyết những vấn đề xã hội; phát triển ở
HS một số kĩ năng cần thiết như kĩ năng hợp tác, kĩ năng thu thập thông tin, kĩ
năng đánh giá và kĩ năng ra quyết định.
Hoạt động nhân đạo là hoạt động tác động đến trái tim, tình cảm, sự đồng
cảm của HS trước những con người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Hoạt động
nhân đạo giúp các em HS được chia sẻ những suy nghĩ, tình cảm và giá trị vật chất
của mình với những thành viên trong cộng đồng, giúp các em biết quan tâm hơn
đến những người xung quanh từ đó giáo dục các giá trị cho HS như: tiết kiệm, tôn
trọng, chia sẻ, cảm thông, yêu thương, trách nhiệm, hạnh phúc,…Hoạt động nhân
đạo trong trường phổ thông được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
1.1.4. Phương pháp dạy học trải nghiệm
HĐTN coi trọng các hoạt động thực tiễn mang tính tự chủ của HS, về cơ bản
là hoạt động mang tính tập thể trên tinh thần tự chủ cá nhân, với sự nỗ lực giáo dục
giúp phát triển sáng tạo và cá tính riêng của mỗi cá nhân trong tập thể. Đây là
những hoạt động giáo dục được tổ chức gắn liền với kinh nghiệm, cuộc sống để HS
trải nghiệm và sáng tạo. Điều đó đòi hỏi các hình thức và phương pháp tổ chức
HĐTN phải đa dạng, linh hoạt, HS tự hoạt động, trải nghiệm là chính.Có 4 phương
pháp chính, đó là:
Phương pháp GQVĐ
“Phương pháp GQVĐ là PPDH, trong đó GV tạo ra các tình huống mâu
thuẫn, đưa HS vào trạng thái tâm lí phải tìm tòi, khám phá từ đó hướng dẫn,
khuyến khích HS tìm cách giải quyết để nắm được kiến thức, phát triển trí tuệ và
thái độ học tập” [13;152]

21



Phương pháp GQVĐ có ý nghĩa quan trọng, phát huy tính tích cực, sáng tạo
của HS, giúp các em có cách nhìn toàn diện hơn trước các hiện tượng, sự việc nảy
sinh trong hoạt động, cuộc sống hàng ngày. Để phương pháp này thành công thì
vấn đề đưa ra phải sát với mục tiêu hoạt động, kích thích HS tích cực tìm tòi cách
giải quyết. Đối với tập thể lớp, khi GQVĐ GV phải coi trọng nguyên tắc tôn trọng,
bình đẳng, tránh gây ra căng thẳng không có lợi khi giáo dục HS.
Phương pháp trên được tiến hành theo các bước cụ thể như sau:
Bước 1: Nhận biết vấn đề
Bước 2: Tìm phương án giải quyết
Bước 3: Quyết định phương án giải quyết
Phương pháp sắm vai
Sắm vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành “làm thử” một số cách
ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Trong đó HS lựa chọn cách giải
quyết tối ưu nhất, nhằm tập duyệt cho HS có thể kịp thời ứng phó khi bắt gặp vấn
đề xảy ra trong cuộc sống.
Sắm vai là phương pháp giáo dục giúp HS thực hành cách ứng xử, bày tỏ
thái độ trong những tình huống giả định hoặc trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ
sáng tạo của các em. Việc "diễn" không phải là phần quan trọng nhất của phương
pháp này mà là xử lí tình huống khi diễn và thảo luận sau phần diễn đó.
Sắm vai có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành và phát triển các kĩ năng
giao tiếp cho HS. Thông qua sắm vai, HS được rèn luyện, thực hành những kĩ năng
ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực
tiễn, tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo của các em, khích lệ thay đổi thái độ và
hành vi theo hướng tích cực trước một vấn đề hay đối tượng nào đó.
22


Điều này trở thành phương tiện để thể hiện niềm vui, nỗi buồn, mối quan
tâm, băn khoăn, mong muốn được chia sẻ, sự do dự, ngập ngừng,... của chính các

em. Thông qua các vai được sắm, HS thể hiện các khía cạnh khác nhau trong tính
cách như: sự ưa thích, tình cảm, sự hiểu biết về nhân vật mà các em đang sắm vai
đó và những người bạn đang chơi cùng với hành động của chúng là điều đặc biệt
quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt đối với HS.
Phương pháp sắm vai được tiến hành theo các bước nhất định bao gồm:
Bước 1: Nêu tình huống sắm vai.
Bước 2: Các nhóm thảo luận chuẩn bị cho vai diễn
Bước 3: HS tiến hành đóng vai
Bước 4: HS thảo luận, nhận xét
Bước 5: GV nhận xét, đánh giá kết luận
Phương pháp làm việc nhóm
Trong DHTN, GV sử dụng làm việc theo nhóm để HS thực hiện một nhiệm
vụ nhất định trong khoảng thời gian nhất định tùy theo yêu cầu của GV đưa ra.
Trong hoạt động nhóm, với sự hướng dẫn và tổ chức của GV và sự chỉ đạo, phân
chia công việc của nhóm trưởng. HS kết hợp làm việc của cá nhân với việc hợp tác
với các thanh viên khác để hoàn thanh nhiệm vụ được giao.
Sở dĩ phương pháp làm việc nhóm được lựa chọn khi vận dụng DHTN là
bởi:
Làm việc nhóm giúp phát huy cao độ vai trò chủ thể, tính tự giác, tích cực,
sáng tạo, năng động, tinh thần trách nhiệm của HS, tạo cơ hội cho các em tự thể
hiện, tự khẳng định khả năng, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao.

23


Giúp HS hình thành các kĩ năng xã hội và phẩm chất nhân cách cần thiết
như: kĩ năng tổ chức, quản lí, GQVĐ, hợp tác, có trách nhiệm cao, tinh thần đồng
đội, sự quan tâm và mối quan hệ khăng khít, sự ủng hộ cá nhân và khuyến khích
tinh thần học hỏi lẫn nhau, xác định giá trị của sự đa dạng và tính gắn kết.
Thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn: tạo cơ hội bình đẳng

cho mỗi cá nhân người học được khẳng định và phát triển. Nhóm làm việc sẽ
khuyến khích HS giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những em nhút nhát,
thiếu tự tin có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học,....
Các bước thực hiện:
- Bước 1. Chuẩn bị cho hoạt động: GV hướng dẫn HS trao đổi, đề xuất vấn
đề, xác định mục tiêu, nhiệm vụ, cách thực hiện và lập kế hoạch; tự lựa chọn nhóm
theo từng nội dung; phân công nhóm trưởng và các vai trò khác cho từng thành
viên; hướng dẫn từng nhóm phân công công việc hợp lí, có liên quan, phụ thuộc
nhau;
- Bước 2. Thực hiện: GV quan sát, nắm bắt thông tin ngược từ HS xem các
nhóm có hiểu rõ nhiệm vụ không? có thể hiện kĩ năng làm việc nhóm đúng không?
các vai trò thể hiện như thế nào? giúp đỡ những nhóm vận hành đúng hướng và
duy trì mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực; khuyến khích, động
viên các nhóm hoặc cá nhân làm việc tốt; can thiệp, điều chỉnh hoạt động của
nhóm khi thấy cần thiết,...
- Bước 3. Đánh giá hoạt động: Gợi mở cho HS phân tích sự phối hợp hoạt
động giữa các thành viên trong nhóm, thể hiện cáckỹ năng làm việc nhóm; điều
chỉnh, bổ sung trên cơ sở đánh giá đúng sự cố gắng của từng nhóm.
Phương pháp dạy học dự án

24


“Dạy học dự án được hiểu là một phương pháp hay một hình thức dạy học,
trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự liên kết giữa lí
luận và thực tiễn, thực hành, tự lực lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá kết quả.
Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm, kết quả dự án là những sản phẩm hoạt
động có thể giới thiệu được” [13;17-18]
Trong quá trình thực hiện dự án, HS sẽ là người giữ vai trò chủ động thực
hiện kế hoạch đã xây dựng, đồng thời tự lực tham gia vào các giai đoạn của quá

trình dạy học: đề xuất hoặc đóng góp ý kiến cho sáng kiến dự án; xây dựng kế
hoạch; thực hiện dự án và trình bày kết quả. Do vậy, các công việc này thật sự đòi
hỏi và khuyến khích tinh thần trách nhiệm, thái độ tích cực và sự sáng tạo của
người học.
Với những đặc điểm như trên có thể thấy dạy học dự án là một phương pháp
dạy học tích cực đối với việc dạy học nói chung và môn GDCD nói riêng. Phương
pháp này không chỉ phát huy tính tích cực học tập mà còn hình thành cho HS kĩ
năng sống, kĩ năng giải quyết vấn đề của cuộc sống. Việc vân dụng phương pháp
dạy học theo dự án giúp GV dạy GDCD khẳng định được vị trí quan trọng của
môn học, thay đổi được cách nhìn nhận chưa đúng về môn học này.
Các bước tiến hành:
Bước 1: Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án
Bước 2: Xây dựng đè cương, thực hiện kế hoạch
Bước 3: Thực hiện dự án
Bước 4: Thu thập kết quả và công bố sản phẩm
Bước 5: Đánh giá dự án

25


×