Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận triết học đề tài: Mối quan hệ giữa Triết học Mác Lênin và Khoa học tự nhiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.4 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI: Mối quan hệ giữa triết học Mác-Lênin với khoa học tự
nhiên.
GVHD: Vũ Thị Mai Lương
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
Trần Văn Thành
Nguyễn Đức Long
Nguyễn Minh Quang
Phạm Việt Linh

MSSV:
20190564
20190508
20190550
20190504

Hà Nội tháng 04/2020

Mã lớp: 115078


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1.Lí do chọn đề tài:


Trong những năm gần đây, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển
như vũ bão, cũng như những biến động cách mạng lớn lao làm thay đổi tận gốc rễ
bộ mặt của cuộc sống xã hôi, đòi hỏi các nhà triết học và các nhà khoa học chuyên
môn giải quyết đúng đắn và kịp thời những yêu cầu lý luận và thực tiễn cấp bách.
Sự giải đáp này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở nắm vững và vận dụng một
cách đúng đắn và sáng tạo thế giới quan và phương pháp luận của triết học của chủ
nghĩa Mác – Lê nin. Do đó việc nghiên cứu những vấn đề về mối quan hệ giữa triết
học và khoa học cụ thể và vấn đề về chức năng phương pháp luận của triết học đối
với các khoa học cụ thể có ý nghĩa quan trọng.
2. Lịch sử vấn đề:
Vấn đề về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên (KHTN) nói riêng hay
khoa học cụ thể nói chung, đặc biệt là vấn đề về chức năng phương pháp luận của
triết học đối với khoa học cụ thể, vốn là những vấn đề hết sức quan trọng trong di
sản triết học của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lê nin. Vấn đề này cũng đã được nhiều
tác giả ở nước ta bắt đầu nghiên cứu từ những năm 1960 – 1970. Vào hè năm 1965,
nói chuyển ở Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước, đồng chí Phạm Văn Đồng dặn

2


dò: “Các đồng chí cần tự rèn luyện và giúp người khác rèn luyện phương pháp và
tác phong con người làm công tác khoa học và kỹ thuật, phương pháp suy nghĩ,
phương pháp làm việc, phương pháp nghiên cứu, phương pháp giải quyết vấn đề,
phương pháp trình bày,.. và tác phong điều tra, nghiên cứu, tác phong chính xác,...”.
Đối với Nhà trường đồng chí nói: “ Ở trường Đại học, điều chủ yếu là học phương
pháp bên cạnh việc học được điều này điều nọ. Điều này điều nọ có người nói là sau
8 – 10 năm, có thể là sau 15 năm sẽ trở nên lạc hậu. Cái còn lại đáng quý là phương
pháp. Nếu anh tự vũ trang được một phương pháp vững mạnh thì anh dùng nó suốt
đời vì anh phải học mãi mãi.” (Bài nói chuyện trước Đại hội Đại biểu lần thứ tư Hội
liên hiệp học sinh đại học Việt Nam). Như vậy, ngay từ những thập niên 1960 –

1970, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã thấy rõ được tầm quan trọng của
việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Triết học Mác và Khoa học cụ thể, và chỉ có việc
nằm vùng, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo những tư tưởng về các vấn đề này của
các tác giả kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin mới có thể thực hiện được những
vấn đề mà các đồng chí lãnh đạo đã dặn dò.
3. Mục đích nghiên cứu:
Triết học tác động vào KHTN trước tiên là thông qua thế giới quan và phương
pháp luận khoa học. Như chúng ta đã biết, V.I Lê nin đã nói đến ý nghĩa to lớn của
phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác đối với KHTN. Chủ nghĩa duy
vật biện chứng, với tính cách là phương pháp luận của KHTN, giúp cho việc khái
quát và giải thích đúng đắn những thành tựu mới của khoa học. Trong những điều
kiện ngày nay, khi KHTN đang ra sức tìm kiếm một lý luận khái quát mới, những tư
tưởng mới, thì việc chú ý đến những vấn đề phương pháp luận là đặc biệt quan
trọng. Con đường để làm phong phú và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng
chính là ở đây và tác động chủ yếu của nó đối với sự phát triển của khoa học cũng
chính là ở đây. Nếu chúng ta không hiểu điều này thì cũng có nghĩa là không hiểu gì
về vai trò tích cực của triết học cũng như về con đường phát triển của nó một cách
sáng tạo.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài này được nghiên cứu dựa trên toàn bộ quá trình lịch sử và phát triển của
triết học duy vật và khoa học tự nhiên để thấy rằng, hai lĩnh vực tri thức này luôn có
mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Vì thời gian nghiên cứu không được nhiều, đề tài này chỉ mang tính thu thập lại
một số kết quả của những người đi trước với ý tưởng nêu lại một cách khái quát và
ngắn gọn về một vấn đề có ý nghĩa to lớn – mối liên hệ giữa triết học và KHTN.

6. Đóng góp của đề tài:
Mặc dù còn nhiều hạn chế, tuy nhiên, hy vọng rằng tiểu luận này sẽ giúp chúng
ta thấy rõ hơn được tầm quan trọng của vấn đề, đặc biệt là vấn đề về chức năng
phương pháp luận của triết học đối với KHTN.
7. Kết cấu đề tài gồm 2 chương:
Chương I: Phép biện chứng và phép siêu hình với KHTN
Chương II: Mối quan hệ giữa triết học Mác – Lê nin và KHTN
II.1. Mối quan hệ giữa triết học và KHTN là tất yếu của lịch sử
II.2. Mối quan hệ giữa triết học và KHTN qua các thời kỳ
II.3. Sự tương tác giữa triết học duy vật biện chứng và KHTN

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP SIÊU HÌNH VỚI KHTN
Vào thế kỷ XIX, trong lịch sử triết học và khoa học, người ta nói đến phương
pháp siêu hình là một phương pháp nhận thức khoa học, được đưa vào khoa học từ
nửa cuối thế kỷ XV và là yếu tố thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của khoa học.
Đó là phương pháp nhận thức áp dụng trong khoa học với nội dung là tập hợp, phân
loại, các tài liệu, sau đó mới so sánh, phân tích chia ra từng loại, từng hạng và tìm
mối quan hệ giữa các đối tượng tĩnh tại. Về phương pháp này, Ph.Ăngghen nhận

4


xét: “Những phương pháp nghiên cứu ấy đồng thời cũng truyền lại cho chúng ta
thói quen là xem xét cá sự vật và cá quá trình tự nhiên trong trạng thái cô lập của
chúng, ở bên ngoài mối liên hệ to lớn chung, và do đó không xem xét chúng trong
vận động mà là trong trạng thái tĩnh, không xem xét chúng về căn bản là tiến hóa
mà lại vĩnh viễn cố định; không xem xét chúng trong trạng thái sống mà lại xem xét
chúng trong trạng thái chết. Và khi các nhận xét này được Bê cơn và Lốc cơ đem từ
KHTN sang triết học thì nó đã tạo ra một sự hạn chế đặc biệt của những thế kỷ vừa

qua, tạo ra phương pháp tư duy siêu hình”. Như vậy, từ một phương pháp nhận thức
khoa học, khi chuyển sang triết học, đã trở thành một phương pháp tư duy có ý
nghĩa phổ biến trong các hoạt động khoa học thời bấy giờ, và cả trong mọi hoạt
động khác của con người. Từ đó, phương pháp tư duy siêu hình cũng có nghĩa là
một quan điểm triết học trong việc xem xét trạng thái tồn tại của thế giới – quan
điểm siêu hình, phép siêu hình đối lập với quan điểm biện chứng, phép biện chứng.
Quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình là hai cách xem xét trạng thái tồn
tại của thế giới, đối lập nhau nhưng đồng thời cũng là hai cách tiếp cận thế giới
khác nhau: cách tiếp cận toàn bộ và cách tiếp cận trừu tượng hóa.
Về quan điểm biện chứng trong việc xem xét trạng thái của thế giới, lịch sử triết
học cũng đã biết đến nhiều người thời cổ Hy Lạp, trong đó có người đầu tiên diễn
đạt được rõ ràng nội dung là Hêracơit mà Ph.Ăngghen đã tóm tắt như sau: “Mọi vật
đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều
không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến
đi”. Và tiếp ngay đó, ông đã nói lên nhận xét về giá trị và hạn chế quan điểm nói
trên trong việc nhận thức thế giới: “Nhưng dù đã nắm đúng tính chất chung của toàn
bộ bức tranh các hiện tượng đến thế nào đi nữa, quan điểm ấy vẫn không đủ để giải
thích chi tiết kết thành toàn bộ bức tranh các hiện tượng đến thế nào đi nữa, quan
điểm ấy vẫn không đủ để giải thích những chi tiết kế thành toàn bộ bức tranh ấy, và
chừng nào chúng ta chưa giải thích nổi các chi tiết thì chúng ta cũng chưa thể có
một quan niệm rõ rệt về bức tranh chung được”. Và để giải thích được các chi tiết
trong bức tranh chung luôn luôn vận động, biến hóa đó Arixiốt đã đề ra nguyên tắc
đồng nhất trừu tượng, cơ sở của cách tiếp cận trừu tượng trong việc nhận thức các

5


đối tượng cụ thể trong hiện thực. Tình hình đó nói rằng, để nhận được đúng đắn thế
giới vốn diễn biến một cách khách quan và biện chứng, cần có sự kết hợp của cả hai
cách tiếp cận nhận thức toàn bộ - biện chứng và trừu tượng – siêu hình”.Trong thực

tế cuộc sống thường ngày và thường không tự giác, mọi người bình thường đều đã
kết hợp sử dụng cả hai cách tiếp cận trên. Trong khoa học, tình hình cũng như vậy,
nhưng do đặc điểm tư duy lý luận, đã có những vấn đề phức tạp hơn.
Tư duy lý luận trong khoa học bao giờ cũng phải dựa trên các khái niệm được
định nghĩa một cách chặt chẽ. Các khái niệm này phản ánh những đối tượng khác
quan, nằm trong mối quan hệ chằng chịt với những đối tượng khác, và tất cả luôn
luôn ở trong trạng thái vận động. Rõ ràng là sự phản ánh này chỉ có thể được thực
hiện trên cơ sở của cách tiếp cận trừu tượng – siêu hình. Cách tiếp cận này cho phép
trừu tượng hóa các yếu tố, các mối liên hệ hoặc các tác động qua lại không ảnh
hưởng lớn đến trạng thái tồn tại của đối tượng được phản ánh trong khái niệm.
Chẳng hạn, một hòn bị thép được bắn vào một hòn bi thép khác đang đứng yên, làm
cho hòn này chuyển động. Trong thực tế, sự va chạm giữa hai hòn bi bao giờ cũng
gây ra sự biến dạng và tỏa nhiệt. Có nghĩa là năng lượng cơ học từ hòn bi thứ nhất
truyền sang hòn bi thứ hai không được bảo toàn, tức là có hao hụt, do có một phần
cơ năng biến thành nhiệt năng. Tuy vậy, những sự biến dạng và tỏa nhiệt nói trên
trong thực tế là rất nhỏ, nhỏ đến mức mà người ta có thể bỏ qua, coi như không có –
trừu tượng hóa – mà việc nghiên cứu cũng không bị ảnh hưởng, các kết luận của nó
vẫn được coi là đúng, vì khi áp dụng vào các tính toán kỹ thuật vẫn đem lại kết quả
đúng như dự đoán (tất nhiên trong phạm vi sai số cho phép).
Như vậy, cách tiếp cận này đưa đến những khái niệm chỉ phản ảnh gần đúng
những đối tượng khách quan, dựa trên một cái khuôn chung được quy định bởi các
nguyên tắc siêu hình. Rõ ràng là cái khuôn siêu hình này, tức là quan điểm siêu hình
về trạng thái thế giới, không phản ánh đúng trạng thái tồn tại của thế giới xét toàn
bộ, nhưng ở trong một phạm vị nào đó thì nó phản ánh gần đúng, nên các khái niệm
được xây dựng trên cơ sở các quan điểm siêu hình vẫn được sử dụng làm bậc thang
của quá trình nhận thức các đối tượng khác quan nằm trong phạm vi ấy. Đó là phạm

6



vi của thế giới trung bình (thế giới trung bình là thế giới nằm giữa thế giới vĩ mô –
vũ trụ và thế giới vi mô – nguyên tử ).
Phạm vi các hiện tượng của thế giới trung bình mà con người có thể trực quan
được là rất hẹp, các mối liên hệ giữa sự vật thu nhận được qua trực quan cũng
không nhiều, nhưng để có được các khái niệm, con người đã phải áp dụng cách tiếp
cận trừu tượng – siêu hình và cách tiếp cận này phù hợp với quan điểm siêu hình về
trạng thái thế giới. Trong thí dụ nói ở đoạn trên, khi trừu tượng hóa sự biến dạng và
sự tỏa nhiệt trong sự va chạm của hai hòn bi, sự nghiên cứu sẽ đơn giản hơn rất
nhiều, mặt khác sự trừu tượng hóa đó thì hiện tượng xảy ra lại phù hợp với quan
niệm siêu hình là vật chất và vận động là tách rời nhau.
Trong giai đoạn đầu của sự phát triển của vật lý học – giai đoạn cơ học – đặc
điểm của đối tượng nghiên cứu là các sự vật của thế giới trung bình, đã tạo ra sự
thống nhát giữa hai mặt của phép siêu hình – quan điểm về cách tiếp cận nhận thức
và quan điểm về trạng thái – nhờ đó đã thúc đẩy sự phát triển của cơ học, đem lại
nhiều thành tựu rực rỡ. Đó là biểu hiện tích cực của chủ nghĩa duy vật siêu hình,
trong giai đoạn đầu của sự phát triển của vật lý học.
Nhưng vật lý học càng phát triển, nhất là từ giải đoạn sau cơ học, với các đối
tượng nghiên cứu là hình thức vận động của vật chất, bề ngoài rất khác nhau và rất
khác với vận động cơ học (nhiệt, quang, điện từ), cách tiếp cận nhận thức trừu
tượng – siêu hình, tách rời từng dạng vận động để nghiên cứu đã không phù hợp,
đòi hỏi phải chuyển mạnh sang cách tiếp cận nhận thức toàn bộ - biện chứng ở
những mức độ khác nhau, tùy theo đối tượng nghiên cứu. Ở đây xuất hiện mâu
thuẫn giữa một bên là đối tượng nhận thức giai đoạn sau cơ học, đòi hỏi phải thay
đổi cách tiếp cận nhận thức (cách tiếp cận nhận thức trừu tượng siêu hình mang tính
tương đối không đáp ứng dược) và một bên là quan điểm về trang thái được cố định
ở các khái niệm (thể hiện sự cứng nhắc của các nguyên tắc siêu hình). Về mâu
thuẫn này, Ăngghen cũng đã đề cập tới khi ông nói rằng: “Phương pháp tư duy siêu
hình dù là chính đáng và cần thiết đến đâu đi nữa trong nhiều lĩnh vực, thì sớm hay
muộn thế nào nó cũng vấp phải một hàng rào mà vượt qua hàng rào đó thì trở thành


7


phiến diện, chật hẹp, trừu tượng và sa vào những mâu thuẫn không thể nào giải
quyết được”.
Để giải quyết những mâu thuẫn trên đã xuất hiện những tư tưởng biện chứng
trong một số nhà triết học và khoa học ngay trong giải đoạn cơ học và tiếp diễn cho
đến thế kỷ XIX khi Mác, Ăngghen sáng lập ra chủ nghĩ duy vật biện chứng. Ngoài
các tiền đề về kinh tế - xã hội, về lý luận, sự xuất hiện của triết học Mác còn dựa
trên các tiền đề về KHTN, trong đó có ba phát minh lớn là định luật bảo toàn và
chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa, đã chứng minh cho phép
biến chứng về mặt tự nhiên. Nhưng các tư tưởng biện chứng về mặt tự nhiên cũng
không thế làm thay đổi được nền móng của tòa lâu đài vật lý học cổ điển, bao gồm
hệ thống khái niệm quán triệt các nguyên tắc siêu hình, và in sâu trong đầu óc của
các nhà khoa học. Ph.Ăngghen đã nhận xét: “... nền triết học cận đại, tuy cũng có
những đại biểu xuất sắc của phép biện chứng như Đềcác Spinôda nhưng lại ngày
càng sa lầy vào phương pháp tư duy gọi là siêu hình, ...”. Mãi đến khi vật lý học
chuyển sang thời kỳ hiện đại, với đối tượng nghiên cứu là thế giới vi mô, có cấu
trúc và quy luật vận động khác hẳn so với thế giới vĩ mô, lúc này hệ thống các khái
niệm của vật lý học cổ điển mới sụp đổ hoàn toàn, cùng với các quan điểm cơ học
và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Từ đây, quan điểm biện chứng về trạng thái tồn tại
của thế giới và quan điểm tiếp cận nhận thức toàn bộ - biện chứng là thống nhất, và
chính trên ý nghĩa này mà V.I.Lê nin nói rằng vật lý học hiện tại đẻ ra chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Tất nhiên, không nên hiểu sự sụp đổ của hệ thống các khái niệm của
vật lý học cổ điển, có nghĩa là sự ra đời của hệ thống các khái niệm mới tách rời
hoàn toàn các khái niệm cũ. Ngoài những khái niệm mới được xây dựng do đặc
điểm riêng của thế giới vi mô, nhiều tên gọi các khái niệm trong hệ thống cũ vẫn
được duy trì, với điều kiện là cần hiểu được nội hàm của chúng trên cơ sở của lôgic
biện chứng.
Mặt khác, cần nói ngay rằng, trong vật lý học hiện đại, nói chung chung quan

điểm về trạng thái và quan điểm tiếp cận nhận thức toàn bộ - biện chứng là thống
nhất, nhưng điều đó không có nghĩa là trong vật lý học hiện đại nói riêng hay trong
khoa học nói chung không còn chỗ nào cho quan điểm tiếp cận nhận thức trừu

8


tượng – siêu hình. Chính quan điểm về trạng thái biện chứng đòi hỏi phải có sự kết
hợp của hai quan điểm tiếp cận nhận thức siêu hình và biện chứng, bởi vì trong sự
vận động tuyệt đối của thế giới bao giờ cũng có sự đứng im tương đối, và ở những
nơi đó, quan điểm tiếp cận nhận thức trừu tượng – siêu hình vẫn có giá trị. Chẳng
hạn, trong thuyết tương đối hẹp, vẫn áp dụng khái niệm không gian và thời gian
tuyệt đối, tách rời nhau,... các quan niệm và khái niệm nói trên là của vật lý học cổ
điển.
Tóm lại, khi nói về phép siêu hình và phép biện chứng, với tính cách là những
quan điểm triết học, chúng ta cần phân biệt hai mặt: mặt nói về cách xem xét tốn tại
của thế giới, vắn tắt là quan điểm về trạng thái, và mặt nói về cách tiếp cận nhận
thức, vắn tắt là quan điểm về tiếp cận nhận thức. Ở mặt thứ nhất, hai phép siêu hình
và biện chứng là hoàn toàn đối lập, còn ở mặt thứ hai, hai mặt này nói lên hai cực
bao gồm trong đó các mức độ trừu tượng hóa trong quá trình phản ánh đối tượng
nhận thức. Với cách hiểu nói trên, chúng ta có thể giải thích được các đặc điểm
trong lịch sử phát triển của cuộc đấu tranh triết học trong KHTN. Khi mà khoa học
ngày càng đạt đến tầm cao mới thì phép biện chứng càng thế hiện vài trò to lớn của
nó, đúng như Ph.Ăngghen đã nói: “là phương pháp tư duy duy nhất, cao nhất và
thích hợp nhất với gia đoạn phát triển hiện nay của KHTN”.

CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHTN
II.1.Mối liên hệ giữa giữa triết học và KHTN là tất yếu của
lịch sử:
Triết học được KHTN cung cấp cho những tài liệu nhận thức về tự

nhiên và mỗi lần có những phát minh vạch thời đại trong lĩnh vực tự nhiên thì
chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải thay đổi hình thức của nó.
F.Engen đã nói: “Cái thúc đẩy các nhà triết học, hoàn toàn không phải chỉ
riêng sức mạnh của tư duy thuần túy như họ tưởng tượng. Trái lại, trong thự tế,
cái thật ra đã thúc đẩy họ tiến lên chủ yếu là sự phát triển mạnh mẽ ngày càng
nhanh chóng và ngày càng mãnh liệt của KHTN và của công nghiệp”.
Luận điểm này đã vạch rõ về mặt lý luận, quy luật phát triển tiến lên của triết học

9


sát cánh với KHTN.
KHTN về phần mình cũng ra đời và phát triển trên cơ sở sự phát
triển của đời sống vật chất, kinh tế của hội, liên hệ chặt chẽ với triết học và ngay
từ đầu đã được xây dựng trên cơ sở nhận thức luận duy vật. KHTN
được triết học cung cấp cho phương pháp nghiên cứu chung những phạm trù,
những hình thức tư duy logic mà bất kỳ KHTN nào cũng không thể
thiếu. Với tư cách là thế giới quan, phương pháp luận chung đó, triết học đã đi
trước KHTN trên nhiều lĩnh vực, và bằng những tư tưởng chỉ đạo
đúng đắn, bằng những dự kiến thiên tài, triết học đã không ngừng vạch đường
cho KHTN tiến lên và giúp cho KHTN phương pháp và
công cụ nhận thức để khắc phục những khó khăn, trở ngại vấp phải trên đường đi
của mình.
Như vậy, trong suốt quá trình lịch sử ra đời và phát triển của mình, triết học
duy vật và KHTN luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau, nương tựa và
thúc đẩy lẫn nhau. Trong lịch sử, mỗi hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật đều
tương ứng với một trình độ nhất định của KHTN. Logic của sự phát
triển bên trong của triết học duy vật là trùng hợp với logic của sự phát triển bên
trong của KHTN. Sự phát triển của KHTN đến một trình độ nhất định sẽ vạch ra
phép biện chứng khách quan của tự nhiên. Thích ứng với trình độ KHTN hiện đại là

triết học duy vật hiên đại – triết học của
chủ nghĩa C.Mac, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Và
mối liên minh giữa các nhà triết học biện chứng duy vật với các nhà khoa học tự
nhiên hiện đại ngày càng chặt chẽ là một tất yếu lịch sử.
II.2.Mối liên hệ giữa triết học và KHTN qua các thời kỳ:
Thời cổ đại Hy Lạp, triết học duy vật mộc mạc và phép biên chứng tự phát là
tương ứng với trình độ ban đầu của KHTN. Thời bấy giờ, những kiến
thức khoa học về tự nhiên, dưới hình thức những dự kiến, những phát kiến rời
rạc, chưa có hệ thống, đang hòa lẫn trong kho tàng các kiến thức triết học. Những
kiến thức khoa học về KHTN lúc này về cơ bản được quy vào khoa
học hình học của Euclide, lý thuyết về hệ thống mặt trời của Ptôlêmê, cách tính

10


thập phân của người Ả-rập, vào những kiến thức sơ đẳng về đại số học, những
chữ số hiên nay.
Lúc này triết học và KHTN chưa có sự phân biệt rõ rệt. các nhà
triết học duy vật đồng thời cũng là những nhà KHTN. Triết học duy
vật mộc mạc và biên chứng tự phát cổ đại Hy Lạp được gọi là triết học tự nhiên.
Nhận thức triết học và KHTN đã tạo nên một bức tranh về thế
giới , một bức tranh tổng quát đầu tiên trong lịch sử nhận thức khoa học coi thế
giới như là một chỉnh thể, một toàn bộ không phân chia về các sự vật và hiện
tượng xảy ra trong tự nhiên. Ở đó, mọi cái đều trôi qua, mọi cái đều biến đổi, đều
liên hệ, tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau, không có cái gì là vĩnh viễn, là
bất biến.
Bức tranh đầu tiên về thế giới đầu tiên này , về căn bản là tính đúng đắn. Nó
được tạo ra trên những dự kiến thiên tài và những kết luận chính xác về
trạng thái của các sự vật và hiện tượng xảy ra trong tự nhiên. Nhưng bức tranh
mới chỉ nêu lên những hiểu biết về cái toàn thể, mà chưa nêu lên được những

hiểu biết chi tiết , những biểu tượng cụ thể của các sự vật, hiện tượng. Nó nêu lên
được trạng thái vận động, liên hệ, tác động và chuyển hóa lẫn nhau trong giới tự
nhiên, nhưng không nêu lên được vì chính cái gì đó đang vận động, liên hệ, tác
động và chuyển hóa lẫn nhau.
Thời kỳ Phục hưng, giữa thế kỷ XV, như Enggen nói, đó là thời đại khi mà
giai cấp tư sản đập tan sự thống trị của chế độ phong kiến, khi mà ở hậu trường
của cuộc chiến đấu giữa giai cấp tư sản thành thị với giai cấp phong kiến quý tộc
đã xuất hiện giai cấp nông dân bạo động, và đi sau nông dân là những người tiền
bối cách mạng của giai cấp vô sản hiện đại, lúc đó tay cầm cờ đỏ và đã hô vang
chủ nghĩa cộng sản, đó là thời đại đã tạo ra những nhà nước quân chủ lớn ở Châu
Âu, đã đập tan sự chuyên chính về tinh thần của Giáo Hoàng, đã làm sống lại
thời cổ đại Hy Lạp, đã phá vỡ những giới hạn của thế giới cũ và nói đúng hơn là
là lần đầu tiên khám phá ra trái đất. Đó là thời đại cần có những người khổng lồ
và đã sinh ra những người khổng lồ về tư tưởng, về nhiệt tình, về tính cách, về tài
năng, về mặt học thức….Đó là thời đại của cuộc cách mạng vĩ đại nhất mà trước
đó trái đất chưa từng thấy.

11


Chính trong bầu không khí cách mạng sôi sục ấy của thời đại, khoa học tự
nhiên thông qua đấu tranh chống tôn giáo, thần học, chống triết học kinh viện mà
phục hồi lại và phát triển lên với một tinh thần triệt để cách mạng chưa từng thấy,
nó đã phát triển lên song song với nền triết học mới nổi dậy.
KHTN đi sâu vào phần cụ thể, chi tiết, đã bổ sung vào bức tranh
về thế giới mà các nhà triết học và các nhà KHTN thời cổ đại Hy Lạp
đã không làm được. Nhưng phương pháp phân tích của KHTN đã bộc
lộ nhược điểm của nó. Sự vật và hiên tượng trong tự nhiên được xem xét trong
trạng thái yên tĩnh, cố định, ở ngoài mọi vận động, biến hóa, trong trạng thái tách
biệt, cô lập, ở ngoài mọi liên hệ, tác động, chuyển hóa qua lại lẫn nhau.

Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII về căn bản là máy móc, siêu hình. Nó
tương ứng với trình độ KHTN lúc này. Nó tạo nên một bức tranh cụ
thể của những cái cụ thể, chi tiết. Trình độ lúc này của KHTN đã gây
nên tính hạn chế của triết học, thì đến lượt nó, triết học duy vật máy móc, siêu
hình, với tư cách là phương pháp luận phổ biến chỉ đạo cho KHTN lại
tác động hạn chế trở lại KHTN.
Đến giữa thế kỷ XIII, KHTN chuyển sang giai đoạn mới cao hơn, giai đoạn tổng
hợp, trở lại nghiên cứu giới tự nhiên với tính cách là một chỉnh
thể, toàn bộ, liên tục, vĩnh viễn vận động và phát triển, liên hệ, tác động lẫn nhau
không ngừng.
Thời đại này, bức tranh mới đã thay thế bức tranh siêu hình để trở lại với bức
tranh thời cổ đại lúc ban đầu, dĩ nhiên trên trình độ cao hơn, hoàn chỉnh hơn.Nó
khắc phục được nhược điểm của hai bức tranh trước đây, đồng thời khái quát hóa
và nâng cao thêm những yếu tố tích cực vốn có của hai bức tranh trước.
Như vậy, logic của sự phát triển bên trong của KHTN cho thấy,
lúc đầu xuất hiện quan niệm biện chứng về tự nhiên , biểu thị sự trực quan đối
với tự nhiên, coi như là một toàn bộ không phân chia; thay thế cho quan niệm đó
là quan niệm máy móc, siêu hình về tự nhiên, phân chia giới tự nhiên thành
những bộ phận cá biệt, riêng lẻ, cách xem đó được cố định trong phương pháp tư
duy siêu hình, đến lượt nó, quan niệm về máy móc, siêu hình lại được thay thế
bằng sự tái tạo lại một cách tổng hợp bức tranh về thế giới trong tính toàn vẹn

12


của nó, trên cơ sở những kết quả đạt được của nhận thức khoa học từ trước đến
nay. Đi đôi với sự thay thế này là bước diễn biến từ phương pháp tư duy siêu
hình sang phương pháp tư duy biện chứng. Và logic của sự phát triển bên trong
của KHTN là trùng hợp với logic của sự phát triển bên trong của triết
học duy vật.

II.3. Sự tương tác giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học tự
nhiên
Lịch sử phát triển của triết học cũng như của KHTN đã cho thấy,
không phải bất kỳ trào lưu triết học nào cũng giữ vai trò là thế giới quan và
phương pháp luận đúng đắn đối với KHTN, thúc đẩy khoa học tự
nhiên phát triển, và ngược lại, không phải các thành tựu của KHTN là
cơ sở khoa học để chứng minh cho những luận điểm của mọi trào lưu triết học.
Xuất phát từ hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ngày một cao hơn,
những hiểu biết về những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội ngày một phát
triển, các nguyên lý, các lý thuyết về thiên văn học, toán học, vật lý, hoá học,… dần
dần được tích luỹ với những phát triển của khoa học triết học nói chung và khoa học
cụ thể nói riêng. Thực tế đã cho thấy, càng đi sâu vào nghiên cứu các
hiện tượng khác nhau của tự nhiên, KHTN càng vấp phải nhiều vấn đề
mà tự nó không giải quyết được vì những vấn đề đó tuy gắn bó mật thiết với
KHTN nhưng lại là những vấn đề triết học. Điều này đã được A.
Einstein khẳng định: “Những khó khăn mà vật lý hiện nay đang vấp phải trong
lĩnh vực của mình đã buộc ông ta phải đề cập đến những vấn đề triết học nhiều
hơn so với các nhà vật lý của các thế hệ trước”.
Quan hệ giữa triết học với KHTN, với các khoa học chuyên biệt nói
chung trải qua quá trình lịch sử lâu dài. Vào thời cổ đại, do trình độ nhận thức
còn đang ở điểm xuất phát, tri thức khoa học còn ở tình trạng tản mạn, sơ khai,
nên triết học hầu như là dạng thức lý luận duy nhất, bao trùm, giải quyết tất cả các
vấn đề về tự nhiên, xã hội và tư duy, mà lúc ấy thực ra cũng chỉ là những phác
thảo sơ lược, chưa thấy cụ thể, chưa hoàn thiện. Tính bao trùm ấy của tri thức
triết học khiến nó được xem như “môn khoa học đặc biệt đứng trên tất cả các

13


môn khoa học khác”. Quan niệm này tồn tại khá lâu trong lịch sử và Ph.

Ăngghen đã gọi hệ thống Hegel là “cái thai đẻ non cuối cùng” theo nghĩa này.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, cùng với quá trình chuyên biệt hoá tri thức, triết
học, xét về tính chất của nó không còn đóng vai trò là “khoa học của các khoa
học” nữa (nghĩa trực tiếp). Trong thời đại của chúng ta các nhà khoa học có thể
trở thành những triết gia, chứ không phải ngược lại. Ý tưởng “triết học – khoa
học của các khoa học” biểu thị một truyền thống, hơn là thực chất của vấn đề.
Ngày nay, đứng trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, thì những khái niệm, những phạm trù, những tư tưởng, những phương
pháp nghiên cứu mới không ngừng ra đời. Mặt khác, cuộc cách mạng ấy cũng
đang đặt ra hàng loạt vấn đề về phong thái tư duy khoa học, về những bước phát
triển mới của nhận thức, của khoa học trong tương lai. Và đứng trước những đổi
thay lớn lao của cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là KHTN
hiện đại, thì nhà khoa học không còn có thể chỉ dừng lại ở những vấn đề chuyên
môn hẹp của mình, họ không chỉ vấp phải những vấn đề phương pháp luận mà cả
những vấn đề triết học do chính lĩnh vực của mình đặt ra và buộc họ phải suy nghĩ
để giải quyết. Như Max Born (1882-1970) – nhà vật lý lý thuyết người
Anh, một trong những người sáng lập ra cơ học lượng tử, đã nhận xét: “Mỗi nhà
vật lý đều tin tưởng sâu sắc rằng công việc của ông ta quyện chặt với triết học, và
nếu không có sự hiểu biết nghiêm túc tài liệu triết học thì đó sẽ là một việc làm
hết sức vô ích. Bản thân tôi đã chịu sự chi phối của tư tưởng đó và tôi cố gắng
truyền nó cho học trò của mình”. Lâu nay một số người quan tâm đến triết học đã
có sự ngộ nhận rằng, triết học là một khoa học chỉ thuộc về nội dung của phạm
trù khoa học xã hội – nhân văn. Nhưng ngược dòng thời gian, chúng ta biết rằng,
ngay từ khi mới ra đời, triết học và KHTN đã không tách rời nhau và
được gọi bằng một tên chung: Triết học tự nhiên, bắt đầu từ KHTN.
Nhưng như chính C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định, việc khôi phục triết
học tự nhiên theo nghĩa đen của nó (triết học là “khoa học của mọi khoa học”)
vào thời kỳ nửa sau của thế kỷ XIX là điều không thể. Bởi vì, khoa học triết học
và các khoa học cụ thể hiện nay đã tồn tại trong môi trường mới với những yêu
cầu mới được đặt ra từ cuộc sống và từ vấn đề học thuật. Tuy vậy, mối liên hệ


14


giữa triết học và KHTN không vì thế mà giảm đi ảnh hưởng tác động
lẫn nhau. Đặc biệt là mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học
tự nhiên là mối quan hệ qua lại, nương tựa lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát
triển. Có thể nói rằng, từ khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời thì mối quan hệ
giữa triết học và KHTN mới thật sự bước sang một giai đoạn mới.
Từ những thành tựu của KHTN hiện đại trong thế kỷ XX như: Thuyết
tương đối hẹp của Albert Einstein (1905) và thuyết tương đối rộng (1916); thuyết
lượng tử của Planck (1900); lý thuyết kết cấu nguyên tử lượng tử hoá của Niels
Bohr (1913); lý thuyết cơ học lượng tử của Heisenberg (1925), lý thuyết thông
tin, lý thuyết điều khiển (những năm 40 của thế kỷ XX); lý thuyết cô lập, lý
thuyết phân hình, lý thuyết hỗn độn, (những năm 70, 80 của thế kỷ XX), v.v…
Đã tạo nên những cuộc tranh luận ngày càng gay gắt về sự nhận thức của con
người đối với thế giới. Chính điều này đã buộc các nhà KHTN phải
tìm đến với một thế giới quan triết học đúng đắn để từ đó lý giải những vấn đề cụ
thể trong lý thuyết khoa học của mình. Như Albert Einstein đã viết: “Các kết quả
nghiên cứu khoa học thường gây nên những sự thay đổi trong các quan điểm triết
học đối với những vấn đề vượt ra ngoài phạm vi của những lĩnh vực rất hạn chế
của bản thân khoa học”. Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học duy vật biện
chứng và KHTN chẳng những giúp cho các nhà triết học hiểu biết
thêm những tri thức về KHTN mà còn làm cho họ thấy rõ được cơ sở
khoa học chính xác, khách quan để triết học dựa vào đó khái quát thành những
nguyên lý, những quy luật và những phạm trù triết học. Đồng thời, nghiên cứu
mối quan hệ giữa triết học với KHTN đã giúp cho các nhà khoa học tự
nhiên nhận thức và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo thế giới quan duy vật
biện chứng và phương pháp luận khoa học vào quá trình nghiên cứu khoa học tự
nhiên, làm cho họ luôn luôn ý thức được rằng, chỉ có cho mình một phương pháp

biện chứng duy vật thì họ mới có thể tiến xa hơn, đi sâu hơn vào các lĩnh vực mà
họ đang và sẽ nghiên cứu. Khi đưa ra nhận định về con đường phát triển phức tạp
của vật lý học V.I.Lênin đã viết: “Vật lý học hiện đại đang và sẽ đi, nhưng nó đi
tới phương pháp duy nhất đúng, đi tới triết học duy nhất đúng của khoa học tự
nhiên, không phải bằng con đường thẳng, mà bằng con đường khúc khuỷu,

15


không phải tự giác mà tự phát, không nhìn thấy rõ “mục đích cuối cùng” của
mình, mà đi đến mục đích đó một cách mò mẫm, ngập ngừng và thậm chí đôi khi
giật lùi nữa. Vật lý học hiện đại đang nằm trên giường đẻ. Nó đang đẻ ra chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Một cuộc sinh đẻ đau đớn. Kèm theo sinh vật sống và
có sức sống, không tránh khỏi một vài sản phẩm chết, một vài thứ cặn bã nào đó
phải vứt vào sọt rác. Toàn bộ chủ nghĩa duy tâm vật lý học, toàn bộ triết học kinh
nghiệm phê phán, cũng như thuyết kinh nghiệm tượng trưng, v.v… đều thuộc
những thứ cặn bã phải vứt bỏ đi ấy”. Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học và
KHTN còn góp cho con người thấy rõ được nguồn gốc chung của sự nảy sinh triết
học và KHTN đó là giới tự nhiên; giúp cho chúng ta thấy được rằng, sự liên kết
giữa triết học và KHTN là không thể tránh khỏi và sự hợp tác giữa các nhà triết học
với các nhà KHTN là một tất yếu lịch sử.
Trong mối quan hệ giữa triết học duy vật và KHTN, một mặt, các khoa học cụ thể
đem đến cho triết học chất liệu sống, căn cứ vào đó các nhà triết học nêu lên và luận
chứng các quan điểm của mình phù hợp (dù không bao giờ có tính tuyệt đối) với
những biến đổi của lịch sử, và góp phần cùng những lĩnh vực tri thức khác dự báo,
gợi mở những vấn đề của tương lai. Mặt khác, triết học mà tiêu biểu là chủ nghĩa
duy vật biện chứng, đóng vai trò lớn đối với các nhà khoa học, vai trò đó có thể tìm
thấy ở cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của triết học.

KẾT LUẬN

Nhìn lại tiến trình lịch sử phát triển của triết học duy vật và khoa học tự
nhiên, chúng ta thấy rằng, hai lĩnh vực tri thức này luôn có mối quan hệ qua lại
mật thiết với nhau. Mối liên hệ giữa triết học nói chung, triết học duy vật biện
chứng nói riêng với KHTN là một tất yếu có tính quy luật và ngày
càng phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn đặt cho mình nhiệm vụ phải
khái quát những thành tựu mới nhất của KHTN để làm sâu sắc thêm,
phong phú thêm những nguyên lý, những quy luật của mình. Và mỗi bước ngoặt
của KHTN, trước sự đổ vỡ của những nguyên lý cũ và sự ra đời của
những phát minh mới thì đại đa số các nhà KHTN đều đứng về phía

16


chủ nghĩa duy vật.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới quan và phương pháp luận thật sự
khoa học cho các khoa học cụ thể đánh giá đúng các thành tựu đã đạt được,
cũng như xác định đúng phương hướng và phương pháp trong nghiên cứu. Đặc
biệt, trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang đạt
được nhiều thành tựu to lớn làm thay đổi sâu sắc nhiều mặt của đời sống xã hội,
tình hình thế giới đang có nhiều biến đổi phức tạp, thì nắm vững thế giới quan và
phương pháp luận duy vật biện chứng càng có ý nghĩa quan trọng.
Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng không thể thay thế được các khoa
học khác. Theo yêu cầu phát triển của mình, đòi hỏi phải có sự liên minh chặt
chẽ giữa triết học với các khoa học khác.
Mặc dù còn nhiều hạn chế, tuy nhiên, hy vọng rằng tiểu luận này sẽ giúp chúng ta
thấy rõ hơn được tầm quan trọng của vấn đề, đặc biệt là vấn đề về chức năng
phương pháp luận của triết học đối với KHTN.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Triết học duy vật biện chứng và KHTN, Tạp chí Khoa học Công

nghệ, Đại học Đà Nẵng, Số 5(40).2010
- Triết học và Bức tranh Vật lý học về Thế giới, TS. Bùi Văn Mưa

17



×