Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

phân tích những quy định của pháp luật về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.58 KB, 17 trang )

Phân tích những quy định của pháp luật về hoạt động cho vay của
tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng
A. Lời Nói Đầu
Như chúng ta đã biết: Cho vay là một trong những hình thức cấp tín dụng của tổ
chức tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng sẽ chuyển giao cho bên vay (khách hàng)
một khoản vốn tiền tệ, bên vay sẽ sử dụng khoản vốn tiền tệ đó trong một khoảng
thời gian nhất định, sau đó sẽ hoàn trả cho tổ chức tín dụng cả gốc và lãi theo hoả
thuận và điều này được thể hiện dưới dạng bản hợp đồng gọi là hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy định
của Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS). Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong
trường hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó chủ yếu là các
ngân hàng . Nhìn chung với hệ thống các quy định được thể hiện trong BLDS,
Luật các TCTD và Quy chế Cho vay của TCTD đối với khách hàng do Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) ban hành (hiện nay là Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN
ngày 31-12-2001), đã quy định khá cụ thể, chi tiết các điều kiện, điều khoản có
trong một hợp đồng tín dụng. Vậy những quy định cảu pháp luật về hoạt động cho
vay của tổ chức tín dụng như thế nào và thực tế áp dụng ra sao em xin được đề cập
trong bài tiểu luận: “phân tích những quy định của pháp luật về hoạt động cho vay
của tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng”
B. Nội Dung
1. chủ thể tham gia giao dịch cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng
Trong giao dịch cho vay giữa tổ chức tín dụng và khách hàng, chủ thể bao gồm bên
cho vay ( tổ chức tín dụng) và bên đi vay ( tổ chưc cá nhân có đủ những điều kiện
do luật định). Các chủ thể này khi tham gia giao dịch cho vay cần phải thỏa mãn
những điều kiện nhất định do luật dự liệu. Việc quy định các điều kiện chủ thể đối
với bên vay và bên cho vay không chỉ nhằm tạo cơ sở pháp lý cho sự đánh giá hiệu
lực của hợp đồng tín dụng mà còn góp phần nâng cao kỹ năng giao kết hợp đồng
tín dụng cũng như củng cố kỷ luật hợp đồng đối với các chủ thể khi tham gia giao
dịch cho vay.
1.1 Bên cho vay
Trong quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, bên cho vay thường


là các tổ chức tín dụng có đủ những điều kiện do pháp luật quy định. Ngoài ra, các
tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng nếu được Ngân hàng nhà nước cho
phép hoạt động tín dụng thì cũng có thể là bên cho vay và cũng phải thỏa mãn các
điều kiện chủ thể giống như đối với bên cho vay là các tổ chức tín dụng.
Theo quy định của pháp luât hiện hành, một tổ chức muốn trở thành chủ thể cho
vay phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng nhà nước cấp
- Có điều lệ do Ngân hàng nhà nước chuẩn y
- Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp
- Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với
khách hàng.
Riêng đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng, muốn trở thành chủ thể
cho vay thì chỉ cần thỏa mãn điều kiện như: có giấy phép hoạt động của ngân hàng,
có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và có người đại diện hợp pháp. Trong giấy
phép hoạt động của ngân hàng và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của tổ chức
này phải ghi rõ hoạt động cho vay là hoạt động cho vay là hoạt động được Ngân
hàng nhà nước cho phép thực hiện.
Việc pháp luật quy định những điều kiện này đối với bên cho vay không chỉ góp
phần hạn chế, loại trừ những tổ chức tín dụng không đủ tiêu chuẩn kinh doanh trên
thương trường, nhờ đó mà góp phần lành mạnh hóa quan hệ tín dụng và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư, mà còn là căn cứ cho các nhà luật gia hay
các thẩm phán, trọng tài viên tiến hành thẩm định và đánh giá một cách khách quan
vấn đề hiệu lực pháp lý của hợp đồng tín dụng.
1.2 Bên vay
Bên vay là tổ chức, cá nhân thỏa mãn các điều kiện vay vốn do pháp luật quy định
và những điều kiện khác do các bên thỏa thuận. Thông thường các điều kiện chung
sẽ do pháp luật quy định và được áp dụng chung cho mọi khách hàng vay trong
mọi trường hợp, không phân biệt họ là tổ chức hay cá nhân. Còn những điều kiện
riêng sẽ do các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và bên vay chỉ phải bắt
buộc thỏa mãn những điều kiện này khi chúng được ghi rõ ràng trong hợp đồng tín

dụng như điều kiện để giao kết hợp đồng tín dụng.
1.2.1 Các điều kiện chung
Trên nguyên tắc, các điều kiện này có tính chất bắt buộc chung đối với mọi chủ thể
có nhu cầu vay vốn của tổ chức tín dụng.
Thứ nhất, bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Riêng
đối với các tổ chức, hộ gia đình, tổ hợp tác… còn phải có người đại diện hợp pháp
có đủ năng lực và thẩm quyền đại diện để ký kết hợp đồng tín dụng.
Thứ hai, bên vay phải có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. Đây cũng là điều
kiện bắt buộc đối với mọi chủ thể có nhu cầu vay vốn của tổ chức tín dụng và điều
kiện này phải được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng như một điều khoản chủ yếu
của hợp đồng.
1.2.2 Các điều kiện riêng
Ngoài những điều kiện chung có tính chất bắt buộc thỏa mãn đối với bên vay thì
người vay còn phải thỏa mãn những điều kiện riêng khác nữa do tổ chức tín dụng
yêu cầu theo từng hợp đồng tín dụng cụ thể. Những điều kiện này chỉ có tính chất
bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi tổ chức tín dụng yêu cầu. Theo quy
định của pháp luật hiện hành, các điều kiện này bao gồm:
- Bên vay phải có khả năng tài chính, đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Bên vay có phương án sư dụng vốn khả thi và có hiệu quả.
- Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của người thứ
ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh.
Tóm lai, việc pháp luật quy định các điều kiện chủ thể đối với bên vay và bên cho
vay trong hợp đồng tín dụng ngoài mục đích thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt
động tín dụng còn có ý nghĩa là giải pháp đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh
doanh của các tổ chức tín dụng.
2. Hợp đồng tín dụng
2.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng là là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho
vay) với khách hàng (bên vay, tổ chức, cá nhân) nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ
nhất định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó tổ chức tín dụng (bên

cho vay) chuyển giao một khoản vốn tiền tệ cho khách hàng (bên vay) sử dụng
trong một thời hạn nhất định với điều kiện khách hàng sẽ hoàn trả khoản tiền đó
(tiền gốc) và lãi vay sau một thời gian nhất định.
Đặc điểm của hợp đồng tín dụng:
• Hợp đồng tín dụng phải được lập dưới hình thức bằng văn bản.
• Nội dung hợp đồng thể hiện sự đồng ý giữa bên cho vay chấp nhận cho bên vay
sử dụng một số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả
dựa trên sự tín nhiệm.
• Về chủ thể: bên cho vay bắt buộc phải là tổ chức tín dụng, có đủ điều kiện luật
định, còn bên vay có thể là tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện vay vốn do pháp luật
quy định. Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền, bao gồm tiền mặt
và bút tệ.
• Hợp đồng tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho quyền lợi của bên cho vay.
Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.
• Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên
cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước để làm cơ sở và tiền đề cho việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay.
2.2 Hình thức của hợp đồng tín dụng
Theo quy định tại Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín dụng đều
phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy định
như vậy là vì những bởi những lý do sau: Hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn
bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng; việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn
bản thực chất là một sự công bố công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa
những người lập ước để cho người thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những
phương cách xử sự hợp lý, an toàn trong trường hợp cần thiết; việc ký kết hợp
đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ quan có trách nhiệm của
chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn.
Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn bản
viết và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương tiện

điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản. Các
hợp đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá
trị chứng cứ trong quá trình giao dịch.
2.3 Nội dung của hợp đồng tín dụng
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ tư
cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với pháp
luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời cũng làm phát
sinh những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp đồng tín
dụng.
Theo quy định tại điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, nội dung của hợp đồng tín
dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:
- Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên cần ghi
rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa mãn thì
hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực.
- Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải thỏa
thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín dụng
đáo hạn.
- Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín
dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp
đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này
trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong
quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng.
- Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay. Đây là một điều khoản rất quan
trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì thế, các bên
phải thỏa thuận rõ ràng số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng (trả góp) hay
là trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Nếu khoản vay được thỏa thuận
thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên cũng có thể dự liệu trước về khả năng điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính của bên vay khi trả nợ.
- Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Trong điều khoản này, các bên cần ghi
rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Việc thỏa thuận điều khoản này trong

hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn cho
người đầu tư là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên vay sử dụng vốn
một cách tùy tiện vào mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác, để bảo đảm lợi ích
của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả, pháp luật
cũng cho phép trong thời gian sử dụng vốn, các bên có quyền thỏa thuận lại về
mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và điều kiện sử dụng vốn đã
thay đổi.
- Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều khoản mang
tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện pháp giải quyết
tranh chấp bằng con ¬đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa chọn cơ quan tài
phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín dụng không ghi
điều khoản này, có nghĩa là các bên không thỏa thuận thì việc xác định thẩm
quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được
thực hiện theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng tài sản
như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều khoản riêng
rẽ nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính), hoặc lập thành một hợp đồng
phụ đính kèm theo hợp đồng chính.
2.4 Giao kết hợp đồng tín dụng
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp vụ
pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp đồng tín
dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới
hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí mong
muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.
Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân có
nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm theo các
giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án
sử dụng vốn vay. Các tài liệu này do bên vay gửi cho tổ chức tín dụng để xem xét,
thẩm định và được coi như bằng chứng đề nghị giao kết hợp đòng tín dụng.

Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng ở Việt Nam trong những năm gần đây cho
thấy, có nhiều trường hợp bên chủ động giao kết hợp đồng tín dụng lại chính là tổ
chức tín dụng chứ không phải là khách hàng, nhằm tăng cường khả năng cạnh
tranh và mở rộng thị trường tín dụng. Những tổ chức tín dụng đã từng đi tiên
phong trong việc lựa chọn phương thức này chính là các ngân hàng cổ phần, ngân
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp
này, văn bản đề nghị là thư chào mời được tổ chức tín dụng gửi cho tổ chức, cá
nhân có khả năng tài chính mạnh, có uy tín trên thương trường và có nhu cầu vay
vốn thường xuyên (gọi là những khách hàng tiềm năng) mà tổ chức tín dụng lựa
chọn là bên đối tác. Trong thư chào mời, bên đề nghị (tổ chức tín dụng) thường
đưa ra những điều kiện có tính chất tổng quát nhất kèm theo những ước khoản cụ
thể để cho bên kia xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, do một thư chào mời có thể
không nhất thiết phải là một văn bản dự thảo hợp đồng nên trong thực tế, nếu bên
tiếp nhận thư chào mời có hành vi chấp nhận toàn bộ nội dung của thư chào mời đó
thì không vì thế mà hợp đồng tín dụng được coi là đã hình thành.
- Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng:
Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ – pháp lý
do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên
vay, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không. Do tính đặc biệt quan trọng
của giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật đòi hỏi
bên cho vay là tổ chức tín dụng phải triệt để tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính độc
lập, phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm
định và khâu quyết định cho vay. Sau khi đã thẩm định hồ sơ tín dụng của khách
hàng, bên cho vay có toàn quyền quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối cho vay.
Trong trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng
bằng văn bản và phải nêu rõ lí do từ chối cho vay. Việc từ chối cho vay không có
căn cứ xác đáng có thể là lí do để khách hàng thực hiện hành vi đối kháng với tổ
chức tín dụng theo quy định của pháp luật.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do bên nhận đề
nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia với nội dung

thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo đó, hành vi chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng ý ký kết hợp
đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng giữa các bên. Có nghĩa là
việc giao kết hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn thành sau khi các bên đã trải
qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng (bao
gồm các điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy nghi) và người
đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào bản hợp đồng tín dụng.
- Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng: Đây là giai đoạn cuối cùng,
cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong giai
đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng.
Giai đoạn này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký tên
vào văn bản hợp đồng tín dụng.
2.5 Hiệu lực của hợp đồng tín dụng
Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng
Hiệu lực pháp lí của giao dịch nói chung và giao dịch thương mại TCTD nói riêng,
thực chất là sự thừa nhận của Nhà nước về những hệ quả pháp lí phát sinh bởi hành
vi giao dịch của TCTD đối với khách hàng. Việc thừa nhận hiệu lực của một giao
dịch pháp lí được Nhà nước thực hiện bằng cách quy định các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch và các nguyên tắc xác định hiệu lực của giao dịch đó. Ở nước ta, các
điều kiện này được quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005 và đương nhiên
chúng được áp dụng chung cho mọi giao dịch, trong đó HĐTD với tư cách là một
loại hình giao dịch dân sự đặc thù chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn đầy đủ các điều
kiện sau:
Thứ nhất, “chủ thể tham gia HĐTD có năng lực hành vi dân sự”.
• Bên vay gồm cá nhân, tổ chức phải thỏa mãn điều kiện có đủ năng lực pháp
luật và năng lực hành vi dân sự.
• Bên cho vay: do tính chất đặc thù của hoạt động ngân hàng nên TCTD phải
thỏa mãn 2 điều kiện:
Tư cách pháp nhân: được xác định dựa trên hai bằng chứng có ý nghĩa quyết định
là giấy phép thành lập – hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận đăng kí kinh

doanh do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp.
Năng lực và thẩm quyền đại diện của người đại diện hợp pháp cho ngân hàng
thương mại: từ điều kiện này có thể khẳng định nếu thể nhân là người đại diện hợp
pháp cho ngân hàng thương mại không có năng lực tiếp nhận quyền và thực hiện
các quyền đó thay cho và nhân danh ngân hàng thương mại thì coi như ngân hàng
thương mại đã không có khả năng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong
quan hệ pháp luật với chủ thể khác (nghĩa là không có năng lực hành). Mặt khác,
cũng có thể xem như giao dịch thương mại của ngân hàng đã vi phạm điều kiện
này khi có bằng chứng chứng minh rằng người xưng danh đại diện của ngân hàng
thương mại không có thẩm quyền đại diện ngân hàng để xác lập và thực hiện giao
dịch với khách hàng.
Thứ hai, “mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã
hội”.
Đây là điều kiện được pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi công, xét trong
mối quan hệ tương hỗ với quyền lợi tư của các bên giao dịch. Đối với các giao dịch
thương mại của ngân hàng thương mại, mục đích và nội dung giao dịch không chỉ
phản ánh lợi ích của các bên mà còn bị chi phối bởi chính các lợi ích đó. Mục đích
của giao dịch thương mại giữa ngân hàng và khách hàng sẽ bị coi là trái pháp luật
và đạo đức xã hội khi giao dịch đó được các bên xác lập nhằm vi phạm các quy tắc
pháp lí đã được Nhà nước xây dựng để bảo vệ quyền lợi chung hoặc nhằm xâm hại
các giá trị đạo đức đã được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Ví dụ, nếu ngân hàng và khách hàng giao kết hợp đồng tài khoản tiền gửi là để
giúp cho khách hàng thực hiện hành vi “rửa tiền” đối với nguồn thu nhập do phạm
pháp mà có thì giao dịch này được xem là có mục đích trái pháp luật.
Còn nội dung của giao dịch thương mại ngân hàng sẽ bị coi là trái pháp luật và đạo
đức xã hội khi các điều khoản được cam kết bởi ngân hàng và khách hàng đã vi
phạm các điều cấm của pháp luật hoặc vi phạm các chuẩn mực đạo đức đã được
Nhà nước thừa nhận.
Ví dụ, Ngân hàng A kí kết hợp đồng tín dụng để cho vay đối với khách hàng là con
đẻ của Tổng giám đốc ngân hàng A. Giao dịch này có nội dung vi phạm điểm c

khoản 1 Điều 77 Luật Các tổ chức tín dụng nên về nguyên tắc giao dịch sẽ đương
nhiên vô hiệu ngay từ khi xác lập.
Thứ ba, “có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng và tự do ý chí”.
Điều kiện này liên quan mật thiết với điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ
thể tham gia giao dịch. Chỉ khi nào xác định rõ chủ thể giao dịch có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự thì việc xác định tính tự nguyện và tự do ý chí của chủ thể đó
mới chính xác và khoa học. Đối với chủ thể giao dịch là pháp nhân ngân hàng
thương mại, việc xác định tính tự nguyện và tự do ý chí có phần khác biệt và phức
tạp hơn so với chủ thể giao dịch là thể nhân. Điều này thể hiện ở chỗ, ý chí của
pháp nhân ngân hàng thương mại thực chất là ý chí tập thể của các thành viên pháp
nhân và ý chí này thường được thể hiện thông qua các quyết định của tập thể thành
viên pháp nhân hoặc thể hiện thông qua hành vi của những người đại diện hợp
pháp cho pháp nhân ngân hàng thương mại.
Một HĐTD được coi là không có sự đồng thuận khi sự thỏa thuận đó giữa các bên
bị các khiếm khuyết như sự nhầm lẫn, sự lừa dối, lường gạt học sự ép buộc, cưỡng
bức trong khi giao ¬kết hợp đồng. Trên nguyên tắc, các khuyết tật này phải ảnh
hưởng mang tính quyết định đến ý chí giao kết của các bên mới được coi là sự kiện
pháp lý làm cho HĐTD vô hiệu.
Thứ tư, “hình thức của giao dịch”.
Đối với các giao dịch dân sự mang tính đặc thù như giao dịch thương mại của ngân
hàng thương mại, vấn đề hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
bởi lẽ loại giao dịch này cần được pháp luật quy định chặt chẽ về mặt hình thức
nhằm ngăn ngừa các rủi ro pháp lí cho các bên trong quá trình xác lập và thực hiện
giao dịch nên pháp luật ngân hàng đòi hỏi hình thức của HĐTD phải được xem là
một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Xuất phát từ yêu cầu này của
thực tiễn giao dịch ngân hàng, pháp luật đòi hỏi hầu hết các giao dịch loại này phải
được xác lập dưới hình thức văn bản hay tài liệu giao dịch hợp thức và có giá trị
chứng cứ chứng minh nội dung cam kết của các bên
Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD:

Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là điểm mốc thời gian mà kể từ đó quyền
và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia HĐTD bắt đầu phát sinh. Trên thực tế,
pháp luật của từng nước có những quy định rất khác nhau về thời điểm phát sinh
hiệu lực của HĐTD. Còn ở Việt Nam, theo Đ405 BLDS 2005 ta có thể lý giải rằng
thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong
các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên vào văn bản HĐTD.
Sự vô hiệu của HĐTD và các nguyên tắc xử lí hậu quả vô hiệu:
Trên nguyên tắc, khi một HĐTD không thoả mãn một trong số các điều kiện có
hiệu lực do pháp luật quy định thì giao dịch đó bị coi là vô hiệu và sự vô hiệu này,
về lí thuyết có thể được nhìn nhận là ở trạng thái tuyệt đối (đương nhiên vô hiệu)
hoặc tương đối (có thể vô hiệu).
Trong khoa học pháp lí, việc xác định trạng thái vô hiệu (tuyệt đối hoặc tương đối)
của các giao dịch pháp lí nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng nói
riêng thường dựa vào nguyên tắc cơ bản là:
- Nếu giao dịch được xác lập nhưng vi phạm những quy tắc pháp lí có mục đích
bảo vệ lợi ích công hay trật tự công thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó đương
nhiên vô hiệu ngay từ khi xác lập (vô hiệu tuyệt đối) và bất kì ai quan tâm đến lợi
ích chung đều có thể yêu cầu toà án tuyên bố vô hiệu.
- Ngược lại, nếu giao dịch được xác lập nhưng chỉ vi phạm các quy tắc pháp lí có
mục đích bảo vệ lợi ích tư hay quyền lợi tư của các bên tham gia vào giao dịch thì
hậu quả kéo theo là giao dịch đó có thể bị coi là vô hiệu (vô hiệu tương đối) và chỉ
những người có quyền lợi bị xâm hại (bao gồm các bên của giao dịch hoặc người
thứ ba không tham gia vào giao dịch nhưng có quyền lợi liên quan) mới có quyền
yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu để bảo vệ quyền lợi của mình.
2.6 Quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia hợp đồng tín dụng
Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
- Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng hạn và địa điểm cho khách hàng vay
sử dụng (nghĩa vụ giải ngân).
- Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay và trả nợ của khách hàng.
- Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả tiền phạt, tiền

bồi thường thiệt hại (nếu có).
Quyền và nghĩa vụ của bên vay:
- Quyền từ chối các yêu cầu không hợp lý của tổ chức tín dụng khi ký kết, thực
hiện và thanh lý hợp đồng tín dụng.
- Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ hoặc các vi
phạm hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng.
- Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng.
- Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả và đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng.
- Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi phạm hợp đồng tín dụng
và tiền bồi thường thiệt hại cho bên cho vay (nếu có).
2.7 Thực hiện hợp đồng tín dụng và trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng tín
dụng
Trước khi đề cập đến các loại trách nhiệm pháp lý phát sinh do việc vi phạm
HĐTD ta tìm hiểu thế nào là vi phạm HĐTD và 1 hành vi phải thỏa mãn điều kiện
gì thì được coi là vi phạm hợp đồng.
Vi phạm HĐTD là hành vi của 1 bên hoặc cả 2 bên tham gia hợp đồng cố ý hoặc
vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong HĐTD và phải thỏa mãn các điều
kiện:
- Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia HĐTD.
- Trái với các điều khoản đã cam kết trong HĐTD.
- Bên thực hiện hành vi có 1 lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý.
- Hành vi đó xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bên đối ước hoặc quyền và lợi ích
chung của toàn xã hội hoặc của tổ chức, cá nhân khác.
Tùy thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra mà có 2 loại trách nhiệm pháp lý
phát sinh khi có việc vi phạm HĐTD:
- Trách nhiệm nộp phạt vi phạm HĐTD: nhằm để nâng cao tính kỷ luật hợp đồng
nên không cần phải chứng minh có thiệt hại vật chất xảy ra. Loại trách nhiệm này
do các bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy định pháp luật.

- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm HĐTD: được áp dụng khi có thiệt
hại vật chất thực tế và xác định được chứng minh bởi bên bị vi phạm. Số tiền bồi
thường thiệt hại do các bên thỏa thuận hoặc thông qua phán quyết của cơ quan tài
phán có thẩm quyền.
2.8 Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng và các phương thức giải quyết tranh
chấp
Trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của người vay sau thời
hạn nhất định nên thường dẫn tới các rủi ro bất trắc, chẳng hạn, người vay không
thanh toán hoặc thanh toán không đúng hạn như đã thỏa thuận. Vì thế các tranh
chấp về hợp đồng cũng thường xuyện xảy ra. Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng được hiểu là tình trạng pháp lý của quan hệ hợp đồng tín dụng trong đó các
bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với nhau về những quyền và nghĩa vụ
hoặc lợi ích phát sinh từ hợp đồng tín dụng và những xung đột này phải được thể
hiện ra bên ngoài ( mặt khách quan).
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
sẽ được giải quyết bằng những phương thức sau:
- Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng phương thức thương lương
hoặc hòa giải trung gian.
- Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng cơ chế tài phán.
Ở Việt Nam, việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con
đường tài phán được xem là giải pháp cuối cùng để phân định quyền lợi giữa các
bên theo quy định của luật tố tụng.
3. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về hoạt động cho vay của tổ chức tín
dụng
Ta có thể nhận thấy một điều rằng các tổ chức tín dụng đã áp dụng linh hoạt các
quy định của pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi vay vốn tại
các tổ chức tín dụng ví dụ như:
Trường hợp bên vay trả nợ trước hạn, thì thường phải trả phí trả nợ trước hạn theo
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Gọi là phí trả nợ trước hạn nhưng thực chất là
một loại lãi suất phạt trên cơ sở quy định bên vay có quyền trả tiền vay trước hạn,

nhưng phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn, nếu không có thỏa thuận khác (Điều 478
BLDS). Trên thực tế, nhiều ngân hàng không thu phí trả nợ trước hạn, hoặc chỉ thu
với tỷ lệ từ vài đến vài chục phần trăm so với số tiền lãi của thời hạn vay còn lại.
Ví dụ 5 về thu phí trả nợ trước hạn.
Ngân hàng T. cho vay 20 tỷ đồng, lãi suất 12%/năm, với thời hạn vay 13 tháng.
Chỉ 5 tháng sau, bên vay đã trả nợ toàn bộ số tiền 15 tỷ đồng. Theo quy định của
BLDS thì Ngân hàng T. có thể được phép thu số phí trả nợ trước hạn tối đa đến 1
tỷ đồng (20 tỷ đồng x 5 tháng x 1%/tháng).
Hay về Hợp đồng tín dụng nguyên tắc và hợp đồng tín dụng hạn mức thì: Trong
thực tế, nhiều ngân hàng ký hợp đồng tín dụng nguyên tắc với bên vay, trong đó
xác định các nguyên tắc chung và các nội dung thoả thuận sơ bộ về việc cho vay
một số vốn nhất định khi hai bên vay đáp ứng được đầy đủ những điều kiện vay
vốn theo quy định của pháp luật cũng như của ngân hàng cho vay. Hợp đồng tín
dụng nguyên tắc là căn cứ để ngân hàng và bên vay tiếp tục ký các hợp đồng tín
dụng cụ thể. Khi ấy, hợp đồng tín dụng cụ thể có thể không cần nhắc lại những
thoả thuận chung như quyền, nghĩa vụ của các bên chẳng hạn.
Các bên thường sử dụng hợp đồng tín dụng nguyên tắc trong trường hợp bên vay
có nhiều tài sản bảo đảm đưa vào ngân hàng để vay vốn nhiều lần và diễn ra trong
một thời gian dài. Khi đó hợp đồng bảo đảm tiền vay được thiết lập để bảo đảm
cho hợp đồng tín dụng nguyên tắc, thay vì cứ mỗi hợp đồng tín dụng lại phải ký
một hợp đồng bảo đảm tiền vay, vừa mất chủ động trong giao dịch vay vốn, vừa
tốn kém chi phí định giá, công chứng, đăng ký thế chấp lại.
Hợp đồng tín dụng hạn mức là hợp đồng tín dụng cụ thể nhưng có thêm điều khoản
cho phép bên vay rút vốn và trả nợ nhiều lần, miễn là bảo đảm dư nợ vay trong mọi
thời điểm không quá mức tiền vay cao nhất mà hai bên đã thoả thuận. Mỗi lần vay
vốn, bên vay chỉ cần ký khế ước nhận nợ thay vì phải ký nhiều hợp đồng tín dụng
với những điều kiện tương tự nhau.
Bên canh đó khách hàng cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình vay vốn, sự
khó khăn này không chỉ xuất phát từ chính các quy định của pháp luật mà còn xuất
phát từ chính bản thân các tổ chức tín dụng ( bởi tổ chức tín dụng kinh doanh mặt

hàng nhạy cảm mang độ rủi ro cao- tiền nên bao giờ họ cũng phải đảm bảo được
khả năng thu hồi vốn của chính mình). Điều này ta có thể nhận thấy qua một số
khía cạnh sau :
Trong hợp đồng cho vay giữa tổ chức tín dụng và khách hàng thì bên vay vốn được
sử dụng vốn vay vào bất kỳ mục đích nào, nếu không bị pháp luật cấm. Tuy nhiên,
có những trường hợp không bị pháp luật cấm, như việc vay vốn để trả nợ ngân
hàng khác hoặc trả nợ chính ngân hàng vay, nhưng lại rất khó được chấp nhận, vì
nó được coi như một hoạt động đảo nợ ( Rollover )Đảo nợ hiểu nôm na là đi vay
để trả nợ. Việc đảo nợ bị nghiêm cấm vì nó che đậy các khoản nợ có vấn đề, trong
trường hợp ngân hàng chạy theo doanh số và đồng ý đảo nợ, tiền vay được tiếp tục
cung cấp cho người vay trong khi thực tế, nguồn trả nợ không có thực, giống như
cho con rắn cắn đuôi của nó vậy. Tuy nhiên, thực tế đảo nợ củng có thể mang ý
nghĩa khác trong 2 trường hợp sau. Sở dĩ các trường hợp này được chấp nhận là vì
nó đảm bảo tính lành mạnh về mặt tài chính cho người vay và người cho vay: -
Rollover các khoản vay liên ngân hàng, giống như gia hạn khoản vay, tuy nhiên vì
người vay ở đây là ngân hàng nên vấn đề khả năng thanh toán và nguồn trả nợ xem
như là chắc chắn. - Rollover ở nước ngoài, khi người vay đảm bảo tại thời điểm
đáo hạn khoản vay, trên tài khoản của họ có số tiền tối thiểu bằng khoản vay, hoặc
báo cáo tài chính tại thời điểm gần đó (1 tháng, 1 tuần tất nhiên báo cáo tài chính
phải có độ tin cậy) thỏa mãn yêu cầu về các chỉ số tài chính, khonả vay sẽ được tự
động rollover. Khi người đi vay "đảo nợ" bằng một hình thức nào đó thì đó chỉ là
một hành vi dân sự. Nếu ngân hàng cho vay không bằng lòng với hành vi đảo nợ
này thì họ có thể kiện khách hàng ra tòa dân sự, chẳng có lý do gì luật tín dụng lại
cấm đoán hành vi này - hình sự hóa).
Đối với vay vốn dân sự hoặc thương mại thông thường, thì hầu như bên cho vay
không quan tâm đến mục đích sử dụng vốn vay, trong khi đối với hợp đồng tín
dụng thì lại là một trong điều kiện quan trọng nhất .Trong cả thời hạn vay vốn, nếu
bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích đã thỏa thuận, thì ngân hàng lập
tức được quyền chấm dứt hợp đồng, phạt vi phạm và thu hồi nợ trước hạn. Đó luôn
là quy định của pháp luật, cũng đồng thời là điều quan tâm hàng đầu của các ngân

hàng trong nghiệp vụ xét duyệt và quản lý các khoản vay. Để bảo đảm được việc
sử dụng vốn vay đúng mục đích và việc trả nợ đúng hạn, ngân hàng được quyền
kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và trả nợ. Đây cũng là điều hầu như
không xuất hiện trong các hợp đồng vay vốn trong các quan hệ giữa cá nhân và các
doanh nghiệp.
Khi thực hiện hoạt động cho vay ngân hàng được toàn quyền quyết định việc cho
vay có hay không có tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, trên thực tế, hợp đồng bảo đảm
có ý nghĩa rất quan trọng, thậm chí là hơn cả hợp đồng tín dụng. Vì nếu hợp đồng
tín dụng bị vô hiệu thì hậu quả xấu nhất chỉ là ngân hàng không được thu tiền lãi.
Nhưng nếu hợp đồng bảo đảm tiền vay vô hiệu, thì nguy cơ lớn hơn nhiều, ngân
hàng có thể không thu hồi được cả gốc lẫn lãi. Những vướng mắc, tranh chấp nảy
sinh trên thực tế cũng chủ yếu liên quan đến hợp đồng bảo đảm. Vì vậy các tổ chức
tín dụng có toàn quyền quyết định việc cho vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc không
có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh hay một biện pháp bảo đảm
khác.
Hợp đồng tín dụng phải được lập thành văn bản, trong đó có nội dung về điều kiện
vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay,
hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết
khác được các bên thoả thuận ( Luật các TCTD 2010). Mẫu hợp đồng mà các ngân
hàng đưa ra không phải là hợp đồng mẫu theo quy định của BLDS 2005, mà chỉ là
bản thảo để thuận tiện trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng. Bên vay hoàn
toàn có thể thoả thuận với ngân hàng thay đổi bất kỳ nội dung nào. Tuy nhiên, trên
thực tế thì bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản thiên về ràng buộc
chặt chẽ đối với bên vay và có lợi hơn cho ngân hàng.
Về hiệu lực của hợp đồng tín dụng : Các ngân hàng thường đưa vào hợp đồng tín
dụng câu: Hợp đồng này có hiệu lực cho đến khi bên vay trả hết nợ gốc, lãi và các
chi phí có liên quan. Nếu thoả thuận này được công nhận, thì dẫn đến tình trạng
không hợp lý là hiệu lực của hợp đồng tín dụng sẽ luôn luôn là vô thời hạn, không
bao giờ chấm dứt, nếu chưa trả hết nợ.
Tuy nhiên trên thực tế, Toà án đã từng thừa nhận thời hiệu khởi kiện không tính từ

ngày hết hạn trả nợ theo thoả thuận, mà tính đến khi bên vay trả hết nợ trong
trường hợp hợp đồng tín dụng có thoả thuận: Hợp đồng này có hiệu lực cho đến
khi bên vay trả hết nợ (gốc và lãi) cho bên cho vay (xem Bản án giám đốc thẩm số
08/2003/HĐTP-KT ngày 29-5-2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND TC về vụ án
tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng Công thương Việt Nam và Công ty
TNHH Thương mại Lam Hồng Sơn).
Sau khi thực hiện xong, đương nhiên hợp đồng được thanh lý. Các bên không cần
thiết phải lập biên bản thanh lý hợp đồng, trừ trường hợp cần bằng chứng để cung
cấp cho bên thứ ba.
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng vẫn thoả thuận trong hợp đồng tín dụng về lãi suất
quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn đối với chính hợp đồng tín dụng đó.
Mức lãi suất quá hạn không quá 150% này là do NHNN quy định dựa trên cơ sở
BLDS năm 1995 giao cho NHNN quy định mức lãi suất quá hạn. Nhưng từ năm
2006 trở đi, nếu vẫn áp dụng mức lãi suất quá hạn này là không đúng pháp luật, vì
BLDS năm 2005 quy định mức lãi suất quá hạn được tính “theo lãi suất cơ bản do
NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ” . Hai quy định
này có sự chênh lệch rất đáng kể, nhất là trong thời kỳ lãi suất có sự biến động lớn.
Ví dụ : về cách tính lãi suất quá hạn.
Ngân hàng B cho Công ty C vay tiền, với mức lãi suất là 14%/năm. Theo quy định
của BLDS năm 1995, nếu khoản nợ bị chuyển sang quá hạn, thì mức lãi suất áp
dụng tối đa là 21% (14% + 7%), không phụ thuộc vào lãi suất cơ bản tại thời điểm
quá hạn là bao nhiêu.
Còn theo quy định của BLDS năm 2005, nếu lãi suất cơ bản tại thời điểm quá hạn
là 7%/năm thì mức lãi suất quá hạn sẽ vẫn là 21%/năm (14% + 7%). Nhưng nếu lãi
suất cơ bản tại thời điểm đó chỉ có 5%/năm thì lãi suất quá hạn chỉ còn 19%/năm
(14% + 5%). Ngược lại, nếu lãi suất cơ bản lại là 10%/năm, thì lãi suất quá hạn sẽ
là 24%/năm (14% + 10%).
Như vậy, theo cách tính thứ nhất thì phần lãi suất quá hạn sẽ rất khác nhau phụ
thuộc vào mức lãi suất cho vay, còn theo cách tính thứ hai, dù lãi suất cho vay bao
nhiêu, thì phần lãi suất quá hạn tối đa vẫn chỉ là một mức lãi suất cơ bản.

Một thực trang không thể không nhắc tới đó là: Ngày 12 tháng 4 năm 2010 Chính
phủ ban hành Nghị định 41/2010/ ND-CP theo đó, cá nhân, hộ sản xuất nông- lâm-
ngư- diêm nghiệp có thể được cho vay không có bảo đảm bằng tài sản tối đa đến
50 triệu đồng, cao gấp 5 lần so với mức tối đa là 10 triệu đồng theo quy định tại
Quyết định 67/1999/QĐ-TTg. Cũng với hình thức cho vay không bảo đảm bằng tài
sản, các hộ kinh doanh, sản xuất ngành nghề hoặc làm dịch vụ phục vụ nông
nghiệp, nông thôn được xem xét cho vay tối đa đến 200 triệu đồng; hợp tác xã, chủ
trang trại được xem xét cho vay tối đa đến 500 triệu đồng. Đây là cơ chế mở so với
các chính sách trước đây về tín dụng nông nghiệp, nông thôn, nâng hạn mức tiền
vay cho cá nhân, tổ chức kinh tế khi vay vốn tổ chức tín dụng không phải thế chấp
tài sản.
Bên cạnh việc nâng cao mức cho vay tối đa không có đảm bảo bằng tài sản, Nghị
định 41 có nhiều quy định mở hơn, đối tượng vay rộng hơn trước đây. Trong
trường hợp thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên diện rộng, khi có thông báo của cấp có
thẩm quyền, ngoài việc xem xét cơ cấu lại thời hạn nợ cho khách hàng, Chính phủ
có chính sách hỗ trợ cụ thể đối với tổ chức, cá nhân vay vốn bị thiệt hại nặng
không có khả năng trả nợ. Tổ chức tín dụng cho vay thực hiện khoanh nợ không
tính lãi cho người vay đối với dư nợ hiện còn tại thời điểm xảy ra thiên tai, dịch
bệnh được công bố tại địa phương. Thời gian khoanh nợ tối đa 2 năm và số lãi tổ
chức tín dụng đã khoanh cho khách hàng được giảm trừ vào lợi nhuận trước thuế
của tổ chức tín dụng. Nghị định 41 còn quy định, tổ chức tín dụng có chính sách
miễn giảm lãi suất đối với khách hàng tham gia mua bảo hiểm nông nghiệp để
khuyến khích khách hàng vay vốn mua bảo hiểm nhằm hạn chế rủi ro cho các tổ
chức tín dụng.
Tại Điều 3 của Nghị định 41 quy định: “Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc
nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, được quản lý bởi cấp hành chính
cơ sở là Ủy ban Nhân dân xã”. Thế nhưng theo hướng dẫn tại Thông tư
14/2010/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì: “Khách hàng vay vốn
phải cư trú và có cơ sở hoặc dự án sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông thôn”. Sự
không thống nhất rõ ràng này đã làm cả tổ chức tín dụng cho vay và người dân

lúng túng trong quá trình thực hiện.
Về cơ chế bảo đảm tiền vay, theo quy định tại Điều 8 Nghị định 41, các đối tượng
khách hàng được vay không có tài sản bảo đảm phải nộp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, hoặc được UBND cấp xã xác nhận chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và đất không có tranh chấp. Nhưng khi áp dụng, các tổ chức tín
dụng cho vay lại yêu cầu nông dân nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm
giảm “rủi ro” cho các tổ chức tín dụng cho vay.Như vậy chẳng khác gì so với cho
vay thông thường.
Có thể những bất cập nói trên bắt nguồn từ nguyên nhân chung nhất của hệ thống
pháp luật Việt Nam đó là sự chồng chéo của các văn bản pháp luật và hơn nữa là
chưa có những hướng dẫn cụ thể nên việc thực hiện hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng còn khá nhiều vướng mắc. Thêm vào đó là việc chạy theo tiêu chí lợi
nhuận nên nhiều tổ chức tin dụng còn khá lỏng lẻo ở khâu thẩm định khách hàng
nên dễ dẫn đến tình trạng nợ . Chính vì vậy nên có những quy định cụ thể trong
hợp đồng cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng và hơn nữa là nâng cao kỹ
nâng soạn thảo và đàm phán hợp đồng để hợp đồng tín dụng có thể thể hiện nhiều
hơn nữa ý chí của các chủ thể khi tham gia giao kết.
C. Kết Luận
Như vậy, trong bối cảnh nền kinh tế được mở cửa ngày càng rộng như hiện nay thì
việc tạo hành lang pháp lý an toàn cho các tổ chức tín dụng hoạt động là điều cần
thiết hơn bao giờ hết. Bởi nó góp phần duy trì một nền kinh tế ổn định, tạo tiềm lực
cho sự phát triển.
TLTK:
Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo
1. Giáo trình Luật Ngân Hàng
Trường ĐH Luật Hà Nội
2. Luật các tổ chức tín dụng 2010
3. Bộ luật dân sự 2005
4. Rút trước hạn, chỉ hưởng lãi suất không kỳ hạn mức thấp nhất - Văn bản mới
cập nhật - Báo Pháp luật Việt Nam điện tử

5. Các lỗi thường gặp trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng
6. Có cho vay đảo nợ trong hệ thống ngân hàng? | Vinacorp - Tin tức

×