Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài tập học kỳ môn Tố tụng hình sự 8,5 điểm: Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hình sự và điều kiện đảm bảo thực hiện.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.93 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Xét xử là một trong những giai đoạn quan trọng, không thể thiếu trong quá
trình tố tụng, giải quyết một vụ án hình sự trên thực tế. Sau khi hoàn tất các giai
đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án và bản cáo trạng
để Tòa án nghiên cứu, chuẩn bị mở phiên tòa. Kết thúc xét xử, tòa có thể tuyên một
người là có tội hay vô tội, ảnh hưởng sâu sắc đến những quyền và nghĩa vụ pháp lý
của người phạm tội cũng như các tổ chức, cá nhân khác liên quan. Cho nên hoạt
động của tòa án phải được thực hiện theo đúng trình tự, tuân thủ, các nguyên tắc
pháp luật quy định. Có thể thấy, để đảm bảo cho tòa án thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình một cách đúng đắn, hiệu quả, minh bạch, pháp luật Việt Nam đã đưa
ra rất nhiều nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của cơ quan này trong Hiến
pháp 2013 cũng như Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, một trong những nguyên tắc đó
là nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Để tìm
hiểu thêm về nguyên tắc này, em xin lựa chọn đề bài số 10: Nguyên tắc “Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hình sự và
điều kiện đảm bảo thực hiện, để hoàn thành bài tập học kỳ của mình.

NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật”
1.1. Một số khái niệm liên quan


Theo Từ điển Tiếng Việt, “độc lập” có nghĩa là tự mình tồn tại, hoạt động
không nương tựa hoặc phụ thuộc vào bất kì ai hay vào cái gì khác. Về mặt khái
niệm, sự độc lập trong xét xử của tòa án được hiểu theo 2 nghĩa:
- Thứ nhất, đó là độc lập với các yếu tố bên trong tức là sự độc lập giữa các
thành viên của Hội đồng xét xử (Thẩm phán, Hội thẩm).
- Thứ hai, đó là độc lập với các yếu tố bên ngoài tức là bản án, quyết định
của Tòa án là vô tư, không thiên vị, dựa trên sự thật khách quan và quy định của
pháp luật mà không chịu bất cứ sự can thiệp nào từ bất kì ai, vì bất kì lí do gì.


“Chỉ tuân theo pháp luật” có thể được hiểu là mọi hoạt động của hội đồng
xét xử tại phiên tòa chỉ dựa trên một căn cứ duy nhất là những quy định của pháp
luật hiện hành liên quan đến trình tự thủ tục, nội dung, cách thức giải quyết vụ án.
Ngoài ra, hội đồng xét xử không được tự minh dựa vào các căn cứ nào khác mà
chưa được luật ghi nhận, cho phép làm.
Như vậy, Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng Việt Nam, theo
đó Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải tự mình quyết định và tự chịu trách
nhiệm về bản án và quyết định của mình mà không bị phụ thuộc vào quan điểm ý
kiến của bất kì cá nhân, cơ quan, tổ chức nào, không bị chi phối bởi ý kiến của
nhau và chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật để xem xét và quyết định về từng
vấn đề của vụ án
1.2. Căn cứ pháp lý của nguyên tắc
Căn cứ: khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 23 Bộ luật tố tụng
Hình sự 2015


Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định như sau: “2. Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá
nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.”
Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sư 2015 quy định như sau:
“Điều 23. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm
cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội
thẩm.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội
thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ
luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của luật.”
1.3. Nội dung cơ bản của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật
1.3.1. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
- Cá nhân các thẩm phán, hội thẩm độc lập với nhau trong xét xử vụ án
hình sự:
Các thành viên trong hội đồng xét xử độc lập trong suy nghĩ khi làm việc tập
thể và quyết định theo đa số. Nghĩa là, mỗi ý kiến đưa ra quyết định cuối cùng của
thẩm phán, hội thẩm là có giá trị ngang nhau. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập từ
việc nhận định vụ án, diễn giải pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật và ra bản
án. Khi xét xử, Thẩm phán độc lập với Hội thẩm trong việc xem xét và đánh giá


chứng cứ để đưa ra các kết luận của mình mà không lệ thuộc vào quan điểm, chính
kiến của các thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Đối với Hội thẩm, không một
yêu cầu hay đề nghị nào của những người khác có thể làm ảnh hưởng tới việc Hội
thẩm áp dụng đúng pháp luật, theo đúng nội dung và tinh thần của điều luật đối với
các tình tiết của vụ án cụ thể. Về nguyên tắc, Thẩm phán không được áp đặt ý kiến
đối với Hội thẩm khi xét xử. Chỉ có thành viên Hội đồng xét xử mới được tham gia
nghị án, khi nghị án, Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết
sau cùng. Các vấn đề của vụ án đều phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết
định theo đa số. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức không được can thiệp, tác động tới
các thành viên của Hội đồng xét xử để buộc họ phải xét xử theo ý chí của mình.
Mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án đều bị coi là vi phạm pháp
luật và ảnh hưởng tới tính khách quan của hoạt động xét xử.
- Thẩm phán, Hội thẩm (Hội đồng xét xử) xét xử độc lập với yếu tố bên
ngoài:
+ Thứ nhất, Hội đồng xét xử xét sử độc lập với các cơ quan nhà nước khác:
Tòa án là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp, trước và trong phiên tòa,
hội đồng xét xử làm việc cần có sự độc lập với các cơ quan nhà nước ở nhánh
quyền lực lập pháp, hành pháp cũng như các cơ quan khác trong hệ thống tư pháp.
Hội đồng xét xử không bị phụ thuộc vào quan điểm cuả các cơ quan này, không bị

ảnh hưởng chi phối một cách tiêu cực để làm sai trái với sự thật khách quan của vụ
án. Các cơ quan quản lí theo đó, không được can thiệp vào việc xét xử của thẩm
phán, hội thẩm, vì công tác xét xử đã được Nhà nước giao cho tòa án. Tòa án
không lệ thuộc hoàn toàn vào ý kiến của cơ quan điều tra, viện kiểm sát. Nếu qua
phiên tòa, cảm thấy cần thiết, hội đồng xét xử có thể xử lí vụ việc khác với bản kết


luận, cáo trạng của các cơ quan nói trên theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo
tính chính xác, công minh.
Trong hệ thống tòa án từ trung ương đến địa phương, tòa án cấp trên hướng
dẫn tòa cấp dưới về việc áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử nhưng
không quyết đinh trước về cách thức, kết quả xét xử một vụ án cụ thể buộc tòa cấp
dưới phải làm theo.
Tóm lại, thẩm phán, hội thẩm không bị phụ thuộc vào kết luận của cơ quan
điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, không phụ
thuộc vào ý kiến của các cơ quan khác hay của Tòa án cấp trên.Có như vậy thì tính
độc lập, đúng đắn, hiệu quả mới được đảm bảo trong hoạt động xét xử của thẩm
phán, hội thẩm tại phiên tòa.
+ Thứ hai, Hội đồng xét xử độc lập với các tổ chức, cá nhân tham gia tố
tụng:
Trong nhiều vụ án hình sự, số lượng người tham gia tố tụng lớn với thành
phần xã hội phức tạp, hội đồng xét xử cần thiết phải có sự độc lập với các chủ thể
này. Thẩm phán, hội thẩm nhân dân không bị chi phối, can thiệp, điều khiển ý chí
từ bất kì ai. Họ phải độc lập với yêu cầu của bị cáo, bị hại, người bào chữa cũng
như những thành viên tham gia tố tụng khác. Bởi giữa những người này đang tồn
tại mâu thuẫn về quyền, lợi ích hợp pháp mà hội đồng xét xử chính là người “cầm
cân nảy mực”, đảm bảo công bằng được thực thi cho nên họ không thể bị ảnh
hưởng, nghiêng về phía nào được.
Đặc biệt, với tư cách là những người có chuyên môn trình độ cao về pháp
luật, được tín nhiệm giao phó sứ mệnh bảo vệ công lí lẽ phải, thẩm phán, hội thẩm

không được vì bất kì mối quan hệ cá nhân riêng tư nào chi phối đến quá trình giải


quyết vụ án. Khi ở vị trí trung tâm, quan trọng nhất tại phiên tòa, hội đồng xét xử
phải trút bỏ hết những lời nhờ cậy, sự cả nể thậm chí là dọa dẫm từ các thế lực
khác xung quanh mà chỉ tuân theo diễn biến hồ sơ vụ án và quy định của pháp luật
để nhanh chóng tìm ra được câu trả lời chính xác, đúng đắn, hợp tình hợp lí nhất
cho mọi người về vụ việc.
+ Thứ ba, Hội đồng xét xử có sự độc lập tương đối với truyền thông và dư
luận xã hội:
Trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm có thể tham khảo ý kiến của
các cơ quan chuyên môn, nắm bắt dư luận xã hội nhưng khi ra quyết định về vụ án,
Thẩm phán và Hội thẩm phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét các
vấn đề của vụ án một cách độc lập, khách quan, không bị ảnh hưởng, bị ràng buộc
bởi các quan điểm, ý kiến bên ngoài của vụ án. Hội đồng xét xử phải xem xét,
thẩm tra, đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng,
khoa học, toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa. Quyết định
của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa.
Tuy nhiên, có thể thấy, đối với nhiều vụ án lớn, nổi cộm, thu hút sự quan tâm
đông đảo của người dân thì sức ép của dư luận xã hội, báo chí đối với hội đồng xét
xử là rất lớn. Có nhiều ý kiến trái chiều được đưa ra, người dân luôn trong trạng
thái mong muốn người đã vi phạm pháp luật phải bị “trừng trị” thích đáng khiến
cho các vị thẩm phán , hội thẩm ít nhiều phải cân nhắc khi đưa ra phán quyết cuối
cùng. Tuy nhiên, dư luận xã hội không thể là yếu tố chi phối quá sâu sắc, làm ảnh
hưởng đến tính công minh, đúng đắn trong hoạt động giải quyết vụ án của những
cá nhân, tổ chức có thẩm quyền.
1.3.2. Hội đồng xét xử “chỉ tuân theo pháp luật” để giải quyết vụ án hình sự


Khi nghiên cứu hồ sơ, quá trình xét xử tại phiên tòa và khi nghị án, Thẩm

phán và Hội thẩm phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án,
không được tùy tiện, áp đặt ý chí chủ quan trong việc áp dụng pháp luật. Khi thực
hiện hoạt động xét xử, hoạt động gắn liền với việc củng cố pháp chế và trật tự pháp
luật thì Thẩm phán và Hội thẩm càng phải nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật. Khi
xét xử các vụ án hình sự, pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự là những
chuẩn mực, căn cứ để Thẩm phán và Hội thẩm xem xét, đối chiếu với sự việc xảy
ra, với hành vi khách quan của người bị buộc tội. Và trên cơ sở các quy định đó,
hội đồng xét xử đưa ra các phán quyết về hành vi phạm tội của bị cáo, về tội danh
và hình phạt được áp dụng đối với bị cáo một cách khách quan, chính xác phù hợp
diễn biến thực tế của vụ án. Nghĩa là, từng bước của quá trình xét xử vụ án phải
dựa trên bản lề chuẩn duy nhất là quy định pháp luật có liên quan, điều chỉnh trực
tiếp vụ việc đó.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là hai mặt thống nhất của một nguyên tắc
cơ bản trong tố tụng. Độc lập tức là tuân theo pháp luật và tuân theo pháp luật để
được độc lập. Nếu chỉ tuân theo pháp luật mà không có sự độc lập thì chỉ là sự tuân
theo một cách hình thức, không có hiệu quả. Điều đó thể hiện là các phán quyết
trong bản án, quyết định của hội đồng xét xử phải phù hợp với mọi tình tiết khách
quan của vụ án, việc xét xử phải đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
bảo đảm quyền con người, quyền công dân…; không được kết luận dựa trên ý chí
chủ quan, cảm tính của cá nhân mỗi thành viên của Hội đồng xét xử.
1.4. Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật
Nguyên tắc “Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
cùng với các nguyên tắc cơ bản khác của luật tố tụng hình sự góp phần vào việc


đảm bảo cho quá trình tiến hành tố tụng được thực hiện một cách hiệu quả nhất.
Nguyên tắc này là căn cứ giúp cho tòa án làm tốt các chức năng xét xử của mình
theo quy định của pháp luật, đồng thời đề cao trách nhiệm của thẩm phán và hội
thẩm. Nó khẳng định “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” là hai yếu tố quan

trọng, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Độc lập là điều kiện cần thiết để thẩm
phán và hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Ngược lại, tuân theo pháp luật
lại là cơ sở không thể thiếu để đảm bảo tính độc lập tại phiên tòa. Mối quan hệ
này là ràng buộc, nếu chỉ độc lập mà không tuân thủ đúng theo các quy định của
pháp luật về tố tụng hình sự thì dễ dẫn đến tình trạng xét xử tùy tiện, độc đoán.
Nguyên tắc này không chỉ xác định độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là yếu
tố cơ bản điều chỉnh hoạt động của hội đồng xét xử mà còn thể hiện rõ nghĩa vụ
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tuyệt đối tôn trọng hoạt động này. Mọi
hành vi can thiệp, gây ảnh hưởng tới việc xét xử công khai, đúng đắn, hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân dưới bất kì hình thức nào, tùy tính chất, mức độ vi
phạm sẽ bị xử lí kỉ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của luật. Đây là nội dung mới được đưa vào nguyên tắc, thể
hiện rõ quan điểm của nhà nước ta trong việc nâng cao tính độc lập của tòa án. Nó
góp phần không nhỏ để nâng cao hiệu quả xét xử, hạn chế đến mức tối đa các
trường hợp án oan sai, “án bỏ túi”, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể liên quan. Bởi chỉ khi chủ thể có quyền đưa ra phán quyết cuối cùng trong
vụ án thật sự độc lập, công minh, làm việc đúng với nội dung, trình tự thủ tục do
pháp luật quy định thì mới đảm bảo bản án ấy là đúng người đúng tội.
II. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật”


Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và tuân theo pháp luật” là
nguyên tắc quan trọng được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Thời gian qua
việc thực hiện nguyên tắc này đã đạt được kết quả nhất định, tuy nhiên, cũng vẫn
còn nhiều hạn chế trong cơ chế đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm
trong các quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án, sự hạn chế về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán và Hội thẩm; vấn đề đạo đức nghề nghiệp
chưa được coi trọng; chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán và Hội thẩm chưa được
quan tâm đúng mức. Cụ thể:

Thứ nhất, vị trí, vai trò của hội thẩm nhân dân trong cơ cấu hội đồng xét xử
chưa thực sự có hiệu quả.
Hội thẩm có vị trí, vai trò quan trọng đảm bảo tính dân chủ, khách quan của
hoạt động xét xử, góp phần giúp việc xét xử của Tòa án diễn ra công bằng, chính
xác, khách quan. Cùng với Thẩm phán, Hội thẩm là những thành viên không thể
thiếu được trong hoạt động xét xử của mỗi vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế các quy
định của pháp luật về địa vị pháp lý của Hội thẩm, cơ chế bầu, cử Hội thẩm và thực
trạng hoạt động của Hội thẩm còn nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập khiến việc
Hội thẩm tham gia hoạt động xét xử của Tòa án còn mang tính hình thức, vẫn chưa
phát huy được hết vị trí, vai trò quan trọng mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định.
Qua công tác xét xử cho thấy, Hội thẩm chưa phát huy được hết quyền năng của
mình, có những Hội thẩm chỉ đến nghiên cứu kết luận điều tra, bản cáo trạng hoặc
có trường hợp không nghiên cứu hồ sơ nhưng vẫn tiến hành hoạt động xét xử tại
Tòa án, vì vậy, Hội thẩm sẽ rơi vào tình trạng lệ thuộc, thiếu chủ động trong quá
trình chứng minh tội phạm cũng như quyết định việc giải quyết vụ án, khiến cho
công chúng nhìn nhận về sự tham gia của Hội thẩm chỉ là hình thức, tham gia cho
đủ thành phần.


Hiện nay, pháp luật cũng chưa chính thức giao cho cơ quan nào quản lý
thống nhất đội ngũ Hội thẩm của các Tòa án nhân dân. Theo quy định của Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc có trách nhiệm chuẩn
bị nhân sự, hiệp thương lập danh sách Hội thẩm để Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu ra Hội thẩm (trừ Hội thẩm quân nhân của Tòa án quân sự các cấp do cơ quan
có thẩm quyền cử theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân). Trong khi đó, Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc hầu như rất ít thực hiện giám sát hoạt động của Hội thẩm do mình
giới thiệu hoặc bầu ra. Tòa án chỉ quản lý Hội thẩm trong thời gian họ nghiên cứu
hồ sơ và tham gia xét xử. Hiện nay, mặc dù các địa phương có thành lập Đoàn Hội
thẩm, nhưng là tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tự quản. Ngoài thời gian tham
gia hoạt động xét xử, Hội thẩm sinh hoạt tại cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc

địa phương nơi họ sinh sống, nên đối với một số vụ án có tính chất nhạy cảm dễ bị
tác động, sức ép và dễ phát sinh tiêu cực.
Thứ hai, Thẩm phán, Hội thẩm cũng có thể bị áp lực khác tác động, khiến
họ lúng túng khi tham gia xét xử như hiện tượng can thiệp của chính quyền địa
phương, của Chánh án Tòa án, của tổ chức Đảng vào hoạt động xét xử. Hiến pháp
hiện hành không quy định mối quan hệ hành chính giữa Tòa án các cấp, mối quan
hệ giữa Tòa án các cấp là mối quan hệ tố tụng, điều này có nghĩa là không có Tòa
án cấp trên và không có Tòa án cấp dưới mà chỉ có Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp
phúc thẩm, các Tòa án thực hiện chức năng giám đốc thẩm và tái thẩm và các Tòa
án thực hiện chức năng xét xử độc lập với nhau.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại tình trạng Tòa án cấp trên quản lý Tòa án cấp dưới cả
về tổ chức, tài chính và chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ. Tình trạng can thiệp từ
phía lãnh đạo Tòa án vào hoạt động xét xử, trong một số trường hợp đã can thiệp
sâu vào công việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm hoặc cũng có trường hợp vì
lợi ích cá nhân mà Chánh án chỉ thị, định hướng cho Hội đồng xét xử. Trên thực tế,


tình trạng Thẩm phán tham khảo ý kiến của lãnh đạo Toà án còn cao. Việc trao đổi
ý kiến lãnh đạo về “đường lối giải quyết vụ án” vẫn chiếm một tỷ lệ lớn trong các
thẩm phán tỉnh và huyện.
Tòa án nhân dân tối cao đã có yêu cầu nghiêm cấm sự can thiệp vào hoạt
động xét xử, nhưng trên thực tế không ít Tòa án địa phương vẫn còn tồn tại cơ chế
này. Tình trạng “báo cáo án”, “thỉnh thị án” đã phá vỡ nhiều nguyên tắc quản lý và
nguyên tắc tư pháp trong hoạt động tòa án, như “nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm
xét xử độc lập”, “nguyên tắc xét xử tập thể”, làm cho những nguyên tắc này trở
nên hình thức và không được tôn trọng, làm giảm vai trò của Hội thẩm, phá vỡ
nguyên tắc tính đại diện của nhân dân trong xét xử. Thẩm phán, Hội thẩm đôi khi
còn chịu áp lực của công luận khi đăng tải nhiều bài viết về một vụ án chưa xét xử;
chịu ảnh hưởng và tác động của bản kết luận điều tra hoặc cáo trạng khi nghiên
cứu hồ sơ nên có thể không độc lập trong quá trình xem xét và đánh giá chứng cứ.

Thứ ba, không ít Thẩm phán và Hội thẩm còn lệ thuộc vào kết quả điều tra,
những thông tin, tài liệu có trong hồ sơ vụ án:
Trong nhiều trường hợp, Hội đồng xét xử tin vào kết quả điều tra có trong hồ
sơ vụ án mà không coi trọng tới những ý kiến trình bày tại phiên tòa, chưa thực sự
coi trọng nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng về thẩm vấn, xét hỏi, tạo ra sự bất
bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng. Do đó, phán quyết của Hội đồng xét xử
còn mang tính áp đặt, còn tình trạng xét xử oan sai, trái pháp luật; bản án, quyết
định của Tòa án cấp dưới bị Tòa án cấp trên hủy, sửa nhiều.
Thứ tư, quy trình tuyển chọn Thẩm phán còn nhiều bất cập, việc tuyển chọn
Thẩm phán không được pháp luật quy định phải công bố công khai, rộng rãi nên
không tạo được tính cạnh tranh. Thực tế việc tuyển chọn Thẩm phán cơ bản là quy


trình khép kín trong nội bộ ngành Tòa án, chưa có cơ chế khuyến khích những
người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện đăng ký dự thi hoặc tuyển chọn làm Thẩm phán,
vì thế không thu hút được người tài, giỏi. Hiện tại, bên cạnh những Thẩm phán
được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có bề dày
kinh nghiệm và kỹ năng xét xử, vẫn còn không ít Thẩm phán hạn chế về năng lực,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không có bản lĩnh chính trị vững vàng, thiếu tự
tin, sợ trách nhiệm, không tự quyết định được các tình huống khi xét xử. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới nguyên tắc xét xử độc lập của
Thẩm phán và Hội thẩm.
Thứ năm, chế độ tiền lương của Thẩm phán và chế độ, chính sách đối với
Hội thẩm chưa hợp lý. Mức lương của Thẩm phán ở nước ta hiện nay là rất khiêm
tốn, không đảm bảo được mức sống tối thiểu của bản thân và gia đình họ. Điều này
sẽ làm cho Thẩm phán không yên tâm công tác, dễ bị những tác động, cám dỗ hoặc
tham nhũng khi tham gia hoạt động tố tụng. Đối với Hội thẩm, ngoài chế độ về
trang phục, Hội thẩm chỉ có chế độ bồi dưỡng phiên tòa với mức 90.000 đồng/ngày
nghiên cứu hồ sơ hoặc xét xử. Trong khi đó, pháp luật quy định khi tham gia xét
xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nhưng một số chế độ của Thẩm phán

như phụ cấp công vụ, phụ cấp trách nhiệm nghề, thì Hội thẩm lại không được
hưởng cũng là không hợp lý.1
Pháp luật cũng chưa quy định các biện pháp bảo vệ Thẩm phán, Hội thẩm và
gia đình họ trong những trường hợp cần thiết. Thực tế đã có nhiều trường hợp
Thẩm phán, Hội thẩm bị các đối tượng đe dọa, trả thù, thậm chí những người thân
của họ cũng bị đe dọa, trả thù, vì vậy, cần phải có những quy định về bảo vệ đối
với tính mạng, tài sản của Thẩm phán, Hội thẩm và gia đình họ ngoài thời gian
1 />

tham gia xét xử để họ yên tâm thực hiện nhiệm vụ xét xử của mình, đặc biệt là xét
xử những vụ án lớn, vụ án có bị cáo là đối tượng nguy hiểm.

III. Một số điều kiên bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
độc lập, chỉ tuân theo quy định của pháp luật
Để đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật, hạn chế oan sai, tiêu cực, xét xử đúng người, đúng tội,
chúng ta cần làm tốt những nội dung sau:
Một là, hoàn thiện các quy định của pháp luật về địa pháp lý của Hội thẩm
nhằm bảo đảm sự tham gia của Hội thẩm trong hoạt động xét xử.
Cần sửa đổi quy định của pháp luật theo hướng quy định thời hạn dài hơn
cho một nhiệm kỳ của Hội thẩm, chẳng hạn như thời hạn là 07 – 10 năm.
Về thành phần Hội đồng xét xử, có thể giảm số lượng Hội thẩm trong Hội
đồng xét xử các vụ án dân sự, hình sự, hành chính, cụ thể là trong phiên tòa sơ
thẩm, Hội đồng xét xử có một Hội thẩm và hai Thẩm phán (hoặc trong trường hợp
đặc biệt có hai Hội thẩm và ba Thẩm phán). Như vậy, vừa bảo đảm tính chuyên
nghiệp của Thẩm phán, vừa bảo đảm tính nhân dân của Hội đồng xét xử. Bổ sung
quy định về đạo đức nghề nghiệp của Hội thẩm. Quy chế đạo đức nghề nghiệp của
Hội thẩm sẽ quy định những yêu cầu chung về đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất
cần có của Hội thẩm, những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của Hội thẩm trong
hoạt động tố tụng, trong quan hệ công tác, trong quan hệ với những người tiến

hành tố tụng, với những người tham gia tố tụng và trong mối quan hệ hành
chính…; quy định về cơ chế khen thưởng và xử lý vi phạm đối với Hội thẩm.


Hai là, chúng ta cần nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán. Tòa án nhân
dân tối cao cũng đã đặt ra ba nhiệm vụ trọng tâm: thực hiện nghiêm các quy định
của pháp luật về tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán để lựa chọn những người thực
sự có đức, có tài để bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án các cấp; đổi mới công tác đào
tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị và bản lĩnh, đạo
đức nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán. Theo em như thế là hợp lý, cần thiết. Bởi
muốn xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật đòi hỏi thẩm phán phải có bản lĩnh
thép, nắm rõ các quy định của pháp luật, tinh thần trách nhiệm cao. Chỉ khi các
thẩm phán hiểu rõ, thực hiện tốt, nghiêm ngặt những yếu tố đó thì hoạt động xét xử
mới thật sự đúng đắn, có ý nghĩa và tòa án chính là chỗ dựa của người dân trong
bảo vệ công lý.
Ba là, xử lý nghiêm tình trạng “thỉnh thị án”, “báo cáo án” của Thẩm phán
trong hoạt động xét xử. Thực trạng “trao đổi đường lối giải quyết vụ án”, “trao đổi
nghiệp vụ” hay “tham khảo ý kiến” giữa Thẩm phán của Tòa án cấp dưới với Thẩm
phán của Tòa án cấp trên là một thực tế đang tồn tại. Tính tiêu cực của cơ chế
“thỉnh án”,“báo cáo án”, “trao đổi đường lối giải quyết vụ án với lãnh đạo Tòa án”
hay “tham khảo ý kiến của Tòa án cấp trên” đã làm cho cơ cấu tổ chức của hệ
thống xét xử trở nên không có ý nghĩa, làm cho chất lượng tranh tụng tại các phiên
tòa, quyền bào chữa của công dân không được bảo đảm.
Để bảo đảm sự công bằng, độc lập, minh bạch trong hoạt động xét xử, cần
phải tách bạch được thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tư pháp giữa
Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới và giữa Chánh án với Thẩm phán; phải có các
cơ chế làm cho các Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về hành động của mình.
Bốn là, Tòa án nhân dân tối cao cần quan tâm nhiều hơn về công tác tổng
kết thực tiễn xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật cho Tòa án nhân dân các cấp.



Tăng cường công tác tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, các văn bản pháp luật
mới được ban hành cho Thẩm phán các cấp. Xây dựng quy chế quản lý, giám sát
đối với Thẩm phán, Hội thẩm trong việc thực thi nhiệm vụ của mình; có biện pháp
chế tài hành chính cụ thể đối với những trường hợp áp dụng pháp luật một cách tùy
tiện theo ý chí chủ quan của Thẩm phán và Hội thẩm. Kiện toàn nâng cao trình độ,
năng lực, bản lĩnh chính trị của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm.2
Năm là, nghiên cứu, xây dựng cải cách chế độ tiền lương và chính sách đãi
ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm phù hợp với vị trí, vai trò và đặc thù của công
tác xét xử. Xây dựng chế độ tiền lương cho Thẩm phán theo thang, bậc lương
riêng. Bởi thực tế cho thấy, mức lương của thẩm phán hay tiền hỗ trợ cho hội thẩm
nhân dân là rất thấp, chưa thật sự có chế độ đãi ngộ gì hiệu quả, đặc biệt dành cho
những người nằm trong hội đồng xét xử của một phiên tòa. Đồng thời, chúng ta
cũng cần có những biện pháp bảo đảm an ninh nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ,
tài sản của Thẩm phán, Hội thẩm và gia đình họ khi thi hành công vụ. Một trong
các yếu tố khiến cho việc xét xử không được độc lập, công bằng, minh bạch là do
thẩm phán, hội thẩm có lúc phải chịu áp lực, sự đe dọa côn đồ của những đối tượng
xấu, muốn làm sai lệch sự thật khách quan. Ở một số nước trên thế giới như Mỹ,
Hà Lan…có thể thấy, mức sống, vấn đề đảm bảo an toàn cá nhân của các thẩm
phán, bồi thẩm đoàn rất tốt. Tiền lương cao, đãi ngộ tốt khiến họ không còn bị chi
phối, ảnh hưởng bởi cá nhân, tổ chức nào về mặt kinh tế. Nhưng chúng ta cũng
thừa nhận một điều rằng, để làm được điều đó, các quốc gia ấy phải có sự vững
mạnh về kinh tế. So sánh với Việt Nam là khá khập khiễng, nhưng khi nhìn lại mức
lương của những thành viên trong hội đồng xét xử ở nước ta thì nó là quá thấp.

2 />
lap-va-chi-tuan-theo-phap-luat-thuc-tien-thuc-hien-va-kien-nghi


KẾT LUẬN

Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật là
nguyên tắc hiến định, là cốt lõi của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền, có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm tính tối cao của pháp luật, đảm bảo
sự cân bằng và kiểm soát các quyền lực nhà nước và bảo vệ quyền con người. Việc
tăng cường cơ chế giám sát của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, của
Thẩm phán thông qua việc công khai rộng rãi các phán quyết của Tòa án là nhu
cầu thiết thực. Điều đặc biệt quan trọng để đạt được mục tiêu xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phải nhận thức một cách toàn diện về
quyền tư pháp, nâng cao vị thế của quyền tư pháp, của Tòa án, của Thẩm phán. Có
như vậy, thì nguyên tắc "Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” mới có ý nghĩa và được bảo đảm một cách đích thực.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2018.
2. TS. Phạm Mạnh Hùng (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự
2015, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2018.
3. Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.


4. Trần Thị Thu Hằng (2018), Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật – Thực tiễn thực hiện và kiến nghị, Tạp chí tòa án,
Truy
cập ngày 04/11/2019.
5. Hoàng Hồng Phong (2011), Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật,
, Truy
cập ngày 04/11/2019.




×