Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tư pháp quốc tế: Thực tiễn áp dụng phương pháp xung đột

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.91 KB, 9 trang )

* Thứ tự áp dụng pháp luật để giải quyết xung đột pháp luật:
Điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế có thể bằng nhiều phương pháp và có
thể có nhiều hệ thống pháp luật tham gia, vì vậy cần phải nắm rõ thứ tự áp dụng
pháp luật theo các bước sau:
Bước 1: Áp dụng quy phạm thực chất thống nhất
Bước 2: Áp dụng quy phạm xung đột thống nhất
Nếu quy phạm cho chọn luật áp dụng và đương sự chọn luật áp dụng là pháp
luật nước nào thì luật nước đó sẽ được áp dụng. Ví dụ: khoản 1 Điều 36 Hiệp định
tương trợ tư pháp Việt Nam – Nga năm 1998 quy định: “Nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng được xác định theo pháp luật của nước do các bên lựa chọn, nếu điều đó
không trái với pháp luật của các bên ký kết. Nếu các bên không lựa chọn pháp luật
áp dụng thì áp dụng pháp luật của bên ký kết nơi bên phải thực hiện nghĩa vụ
chính của hợp đồng thường trú, được thành lập hoặc có trụ sở”.
Nếu quy phạm cho chọn mà đương sự không chọn hoặc quy phạm không
cho chọn thì sẽ áp dụng pháp luật nước được xác định bởi quy phạm.
Bước 3: Áp dụng quy phạm thực chất thông thường
Bước 4: Áp dụng quy phạm xung đột thông thường
Nếu quy phạm cho chọn luật áp dụng và và đương sự chọn luật áp dụng là
pháp luật nước nào thì luật nước đó sẽ được áp dụng.
Nếu quy phạm cho chọn mà đương sự không chọn hoặc quy phạm không
cho chọn thì sẽ áp dụng pháp luật nước được xác định bởi quy phạm.
Ví dụ: khoản 1 Điều 683 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“1. Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp
dụng đối với hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều này.
Trường hợp các bên không có thoả thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của
nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng.”


Bước 5: Áp dụng pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất (có thể cả tập
quán hoặc tương tự pháp luật, án lệ hoặc lẽ công bằng.1


* Thực tiễn áp dụng phương pháp xung đột:
Khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật một nước, dù đó là pháp
luật Việt Nam hay đó là pháp luật nước ngoài thì về cơ bản cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam sẽ áp dụng pháp luật nơi được dẫn chiếu đến. Nếu quy phạm xung
đột dẫn chiếu tới áp dụng pháp luật Việt Nam thì cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam đương nhiên áp dụng pháp luật Việt Nam và việc áp dụng này không gây khó
khăn cho cơ quan áp dụng. Nhưng nếu luật nước ngoài được được dẫn chiếu đến
thì có nhiều vấn đề cần xem xét hơn, bởi pháp luật nước ngoài là một hệ thống
pháp luật khác biệt so với Việt Nam.
Pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng trong một số trường hợp sau đây:
- Các bên được pháp luật cho phép lựa chọn pháp luật áp dụng và đã lựa
chọn pháp luật nước ngoài, khi đó pháp luật nước ngoài được áp dụng.
- Quy phạm xung đột thống nhất trong điều ước quốc tế dẫn chiếu đến pháp
luật nước ngoài.
- quy phạm xung đột thông thường dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài.
- Khi quy phạm xung đột xác định áp dụng pháp luật nước nơi có mối liên
hệ gắn bó nhất, và trong các trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền xác định
pháp luật nước ngoài chính là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất.
Ngoài Những trường hợp trên, pháp luật nước ngoài không được áp dụng trong
trường hợp nào nữa.

1 Tr. 33, 34, Giáo trình Hướng dẫn học Tư pháp quốc tế, Bộ môn Tư pháp quốc tế_Trường đại học luật Hà Nội, Nxb.
Chính trị quốc gia sự thật, 2017.


Về vấn đề xác định nội dung pháp luật nước ngoài: Bản chất của việc áp
dụng pháp luật nước ngoài là quá trình Toà án của quốc gia vận dụng, áp dụng các
quy phạm pháp luật cụ thể trong hệ thống pháp luật của một quốc gia khác hoặc
các tiểu bang, vùng lãnh thổ của quốc gia khác để giải quyết một quan hệ hay một
vấn đề pháp lý cụ thể trong Tư pháp quốc tế. Như vậy, quá trình này phải được tiến

hành theo những nguyên tắc nhất định nhằm thể hiện sự tôn trọng hệ thống pháp
luật của quốc gia nước ngoài. Toà án không thể áp dụng pháp luật nước ngoài một
cách tuỳ tiện theo cách hiểu hay theo cách giải thích của bản thân mình, điều này
sẽ làm sai lệch bản chất và phần nào làm ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của pháp
luật nước ngoài.
Những văn bản pháp luật của Việt Nam trước đây đều chưa ghi nhận những
nguyên tắc cũng như những quy định cụ thể đối với việc áp dụng pháp luật nước
ngoài của Toà án. Đây là một trong những trở ngại lớn khi Toà án giải quyết những
vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, khuyết điểm
này đã được khắc phục bằng những quy định cụ thể của BLDS 2015 và BLTTDS
2015.
- Về trách nhiệm xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài: Điều 481
BLTTDS 2015 quy định về vấn đề xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài để
Tòa án áp dụng trong việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là một
quy định hoàn toàn mới trong Tư pháp quốc tế Việt Nam.
Quy định này đã xác định rõ trách nhiệm của đương sự cũng như các cơ
quan Nhà nước trong việc cung cấp và xác định pháp luật nước ngoài. Theo đó,
trong trường hợp các đương sự lựa chọn pháp luật nước ngoài để áp dụng thì nghĩa
vụ cung cấp pháp luật nước ngoài cho Toà án giải quyết vụ việc dân sự thuộc về
các bên. Các đương sự phải chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp của
pháp luật nước ngoài đã cung cấp. Trong trường hợp này, các cơ quan Nhà nước


như Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ở nước ngoài chỉ có trách nhiệm cung cấp pháp luật nước ngoài khi được
Tòa án Việt Nam yêu cầu.
Ngược lại, trong trường hợp pháp luật nước ngoài cần được áp dụng theo sự
chỉ dẫn của quy phạm xung đột trong pháp luật Việt Nam hoặc trong Điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì việc cung cấp pháp luật nước ngoài là quyền
chứ không phải nghĩa vụ của các đương sự. Trong trường hợp này, Toà án có quyền

yêu cầu các cơ quan chức năng của Việt Nam cung cấp pháp luật nước ngoài. Toà
án cũng có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn về pháp luật nước
ngoài cung cấp thông tin về pháp luật nước ngoài. Tuy nhiên, thông qua điều luật
này có thể thấy pháp luật Việt Nam không trực tiếp quy định về trách nhiệm của
Toà án Việt Nam trong việc tìm kiếm và xác định nội dung pháp luật nước ngoài.
Điều này có thể sẽ là một kẽ hở dẫn đến việc Toà án bỏ qua việc áp dụng pháp luật
nước ngoài khi giải quyết các tranh chấp về hợp đồng thương mại quốc tế.
- Về cách thức xác định nội dung pháp luật nước ngoài:
Trường hợp pháp luật nước ngoài được áp dụng nhưng có cách hiểu khác
nhau: liên quan đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài nhưng có nhiều cách hiểu
khác nhau, Điều 667 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp pháp luật nước ngoài
được áp dụng nhưng có cách hiểu khác nhau thì việc áp dụng phải theo sự giải
thích của cơ quan có thẩm quyền tại nước đó”. Đây là quy định hoàn toàn mới so
với BLDS 2005 và là một quy định hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc áp dụng
pháp luật nước ngoài. Việc Toà án áp dụng pháp luật nước ngoài cần phải tuân thủ
theo đúng cách thức, tinh thần giải thích, áp dụng những quy định pháp luật đó tại
chính quốc gia nơi nó được ban hành. Toà án Việt Nam khi áp dụng pháp luật nước
ngoài không được tuỳ tiện giải thích những quy định của pháp luật nước ngoài theo
nguyên tắc pháp luật Việt Nam.


Điều đó có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền không thể dùng tư duy pháp lý,
cách thức giải thích, cách thức áp dụng của luật quốc gia mình để giải thích và áp
dụng pháp luật nước ngoài. Đây là nguyên tắc chung được thừa nhận rộng rãi ở các
nước. Khi Toà án của mỗi nước áp dụng pháp luật nước ngoài mà áp dụng theo
cách hiểu riêng của mình thì sẽ dẫn đến hệ quả là pháp luật nước ngoài không được
áp dụng một cách thống nhất, không bảo đảm giá trị của pháp luật. Vì vậy nguyên
tắc này ràng buộc Toà án của các nước dù trong hoàn cảnh, điều kiện nào, ở quốc
gia nào thì việc áp dụng một hệ thống pháp luật nào đó phải luôn cho ra một kết
quả giống như pháp luật đó được áp dụng tại quốc gia đã ban hành.

Trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài có nhiều hệ thống pháp luật:
Trong quá trình áp dụng pháp luật nước ngoài, Toà án có thể gặp tình trạng quy
phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài nhưng tại quốc gia có hệ thống
pháp luật nước ngoài đó tồn tại các hệ thống pháp luật khác nhau. Ví dụ, trong Nhà
nước liên bang, bên cạnh pháp luật của liên bang, mỗi một bang đều có pháp luật
của mình. Vì vậy đối với những Nhà nước liên bang, ví dụ như Hoa Kỳ, cần xác
định quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật của liên bang hay pháp luật của
tiểu bang. Về nguyên tắc, xung đột pháp luật được nghiên cứu trong Tư pháp quốc
tế dưới góc độ chọn luật áp dụng giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia có
chủ quyền. Do đó, cần tôn trọng các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong
nội bộ của các quốc gia đối với các nhà nước liên bang và đối với các quốc gia cho
phép tồn tại nhiều hơn một hệ thống pháp luật. Trong trường hợp này, việc xác
định hệ thống pháp luật nào được áp dụng cần tuân theo nguyên tắc xác định pháp
luật do chính quốc gia nước ngoài đó quy định. Vấn đề này được ghi nhận tại Điều
669 BLDS 2015 “Trường hợp pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật
được dẫn chiếu đến thì pháp luật áp dụng được xác định theo nguyên tắc do pháp


luật nước đó quy định.” Đây là một quy định mới được đưa vào BLDS 2015 và là
quy định phù hợp với Tư pháp quốc tế của nhiều nước.
Để thấy rõ hơn việc áp dụng phương pháp xung đột ở Việt Nam như thế nào,
ta xem xét trên những vấn đề sau:
- Vấn đề dẫn chiếu tới pháp luật nước chưa được công nhận: Quan điểm của
Việt Nam được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp cũng như trong các văn bản pháp
quy của nhà nước và cả trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết
đều nhất quán không có sự phân biệt, kì thị nào giữa các quốc gia chưa được công
nhận với các quốc gia khác. Theo đó, trong trường hợp phải áp dụng pháp luật của
những quốc gia này để giải quyết các quan hệ pháp luật phát sinh thì Việt Nam vẫn
chấp nhận.
- Vấn đề bảo lưu trật tự công: Các quy định về “bảo lưu trật tự công” được

Việt Nam thừa nhận thể hiện thông qua các văn bản pháp lý quan trọng như: Hiếp
pháp 2013, Bộ luật dân sự 2015, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 2014,…Bên
cạnh đó, vấn đề này còn được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế. Nội dung
của các quy định này làm rõ “trật tự công cộng” là các nguyên tắc cơ bản tạo ra
một trật tự pháp lý trong chế độ XHCN. Việc áp dụng bảo lưu trật tự công thể hiện
tính chất chủ quyền của quốc gia trong việc bảo đảm, giữ gìn an ninh, kinh tế, đạo
đức, lối sống… của nước mình. Tuy nhiên, cần phải hiểu đó không phải là việc phủ
nhận các hệ thống luật nước ngoài trên thế giới mà chỉ là không áp dụng các quy
định liên quan không phù hợp.Việc vận dụng nguyên tắc này cần phải thận trọng
trên cơ sở khách quan, nghiêm túc nguyên tắc pháp chế XHCN.
- Vấn đề lẩn tránh pháp luật: Đây là hiện tượng đương sự dùng những biện
pháp, thủ đoạn để thoát khỏi hệ thống pháp luật đáng nhẽ phải được áp dụng để
điều chỉnh các quan hệ của họ và thay bằng một hệ thống pháp luật khác có lợi hơn
cho mình (VD: thay đổi quốc tịch, thay đổi nơi cư trú…). Về vấn đề này, Việt Nam


nghiêm khắc phản đối, không chấp nhận các hành vi lẩn tránh pháp luật. Tuy thực
tiễn hầu như chưa thấy xuất hiện hiện tượng này, nhưng trong một số văn bản pháp
quy đã có những quy định phòng trừ.
- Vấn đề dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu pháp luật của nước thứ ba: Hiện nay
có hai quan điểm: một là không xảy ra dẫn chiếu ngược và luật thực chất của nước
được dẫn chiếu sẽ được áp dụng và quan điểm ngược lại là chấp nhận dẫn chiếu
ngược trở lại, cũng như dẫn chiếu đến luật pháp của nước thứ ba. Quan điểm rõ
ràng của Việt Nam về vấn đề này là chấp nhận việc dẫn chiếu ngược trở lại.

* Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam:
Một số định hướng nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam, tạo
điều kiện cho pháp luật Việt Nam được áp dụng trên thực tiễn:
- Thứ nhất, tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực về cung cấp pháp
luật nước ngoài. Điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh Việt Nam vừa gia nhập

Cộng đồng kinh tế ASEAN (gọi tắt là AEC). Mặc dù AEC thực chất chưa thể được
coi là một cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng Châu Âu, bởi AEC không có
cơ cấu tổ chức chặt chẽ và những điều lệ, quy định có tính chất ràng buộc cao và rõ
ràng như EC, tuy nhiên AEC vẫn mở ra cơ hội cho các nước thành viên trong khu
vực có thể thiết lập những thoả thuận hợp tác pháp lý, cụ thể là liên quan đến việc
cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài.
Nói đến áp dụng pháp luật nước ngoài cho các quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài nói chung, trở ngại lớn nhất cho các cơ quan có thẩm quyền là việc tiếp
cận và giải thích nội dung pháp luật nước ngoài. Rào cản về ngôn ngữ, về chính
sách pháp luật, tư duy lập pháp… của các nước đã tạo nên rất nhiều khó khăn cho
các chủ thể áp dụng pháp luật. Đây là thực trạng không phải chỉ tồn tại trong Tư


pháp quốc tế Việt Nam mà còn cả ở các nước phát triển trên thế giới. Vì vậy, nếu
có thể xây dựng được một cơ chế cung cấp, trao đổi thông tin pháp luật nước ngoài
giữa các nước thành viên AEC sẽ là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục những
khó khăn đang tồn tại đối với các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
- Thứ hai, hoàn thiện yếu tố con người trong quá trình thực thi pháp luật:
Đây là nhóm giải pháp mang tính bổ trợ, không trực tiếp liên quan đến các quy
định của pháp luật tuy nhiên theo tác giả, nếu các giải pháp bổ trợ này được triển
khai hiệu quả cũng sẽ giúp cho các quy định pháp luật liên quan đến việc áp dụng
pháp luật nước ngoài đi vào thực tiễn dễ dàng hơn. Thực tiễn xét xử của Toà án cho
thấy, trong quá trình xác định nội dung pháp luật nước ngoài, Toà án có thể nhận sự
hỗ trợ rất hiệu quả từ phía các chuyên gia nghiên cứu pháp luật. Do đó, việc đẩy
mạnh công tác trang bị kiến thức pháp luật nước ngoài cho nhóm đối tượng này
cũng là một giải pháp cần thiết.
- Thứ ba, ngoài giải pháp khai thác quy phạm xung đột đã tồn tại bằng cách
giải thích luật, để hoàn thiện Tư pháp quốc tế nước ta về vấn đề xung đột pháp luật,
chúng ta có thể xây dựng thêm quy phạm xung đột mới để điều chỉnh. Theo đó, sẽ
áp dụng pháp luật của nước Việt Nam hoặc pháp luật của nước ngoài tùy thuộc vào

từng trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, cần sớm hoàn thiện cụ thể hơn nữa các quy
định về thẩm quyền lựa chọn và áp dụng pháp luật thuộc về ai khi các quan hệ tư
pháp quốc tế phát sinh.
- Thứ tư, thực tế số lượng hiệp định tương trợ tư pháp về lĩnh vực dân sự mà
Việt Nam đã ký kết là khá ít và chủ yếu là với các nước nhỏ. Vì vậy, để giải quyết
xung đột pháp luật dễ dàng hơn, Nhà nước cần tích cực xem xét hợp tác và ký kết
các hiệp định tương trợ tư pháp về lĩnh vực tư pháp với các nước mà Việt Nam đã
và đang gắn bó hợp tác trong các lĩnh vực.




×