Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bài tập học kỳ môn Luật thương mại 1 8 điểm: Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật phá sản 2014 so với Luật phá sản 2004.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.43 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà
hậu quả của nó không chỉ ảnh hưởng đến bản thân doanh nghiệp và những người
lao động trong doanh nghiệp mà còn tác động lớn đến các chủ thể khác là chủ nợ,
đối tác và các thành phần khác trong nền kinh tế. Nhà nước thông qua pháp luật
phá sản để can thiệp vào quá trình giải quyết thủ tục phá sản của doanh nghiệp,
nhằm giải quyết xung đột lợi ích của các chủ thể đó theo đúng bản chất vốn có với
một cách nhìn hiện đại, năng động và hết sức mềm dẻo. Luật Phá sản năm 2004
thay thế Luật Phá sản năm 1993 mặc dù đã ra đời và có hiệu lực gần 10 năm nhưng
đã bộc lộ hàng loạt khiếm khuyết và hạn chế, không phù hợp với tình hình thực tế
của Việt Nam. Chính vì lẽ đó, Quốc hội đã họp và thông qua Luật Phá sản năm
2014 nhằm giải quyết những hạn chế trên. Để tìm hiểu rõ hơn những điểm tiến bộ
của Luật phá sản 2014, em xin chọn đề 11: “ Phân tích và đánh giá một số điểm
mới của Luật phá sản 2014 so với Luật phá sản 2004” để hoàn thành bài tập học
kỳ của mình.

NỘI DUNG
Luật phá sản năm 2014 đã được thông qua ngày 19/6/2014 tại kì họp thứ 7
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/01/2015 và thay thế Luật phá sản năm 2004.
I. Thủ tục phá sản theo quy định của Luật phá sản 2014
Luật phá sản 2014 đã có nhiều điểm cải tiến trong thủ tục phá sản doanh
nghiệp, cụ thể thủ tục phá sản diễn ra theo trình tự sau:
- Bước 1: Nộp đơn và thụ lí đơn yều cầu mở thủ tục phá sản:


+ Người có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản (Điều 5
Luật phá sản 2014) nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp
tác xã mất khả năng thanh toán.
+ Tòa án có thẩm quyền nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, vào sổ
thụ lí để giải quyết vụ án phá sản.


- Bước 2: Thương lượng rút đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản: Trong 3
ngày kể từ ngày nộp đơn hợp lệ, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
và chủ nợ có quyền đề nghị bằng văn bản với Tòa án để các bên tự thương lượng
rút đơn. Thời hạn thương lượng không quá 20 ngày (Điều 37 Luật phá sản 2014)
- Bước 3: Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản do thương lượng
không thành công, bước này xử lí các việc sau:
+ Thông bác việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản với các bên, cơ
quan có liên quan.
+ Tạm đình chỉ các yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán nếu có trước
đó (của Tòa án, cơ quan thi hành án) đốivới doanh nhiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán.
+ Tòa án quyết định áp dụng hay không áp dụng phương thức giải quyết
yêu cầu phá sản theo thủ tục rút gọn (áp dụng phương thức này khi doanh nghiệp,
hợp tác xã không còn tài sản để thanh toán chi phí pháp sản).
- Bước 4: Quyết định mở thủ tục phá sản:
+ Chỉ định quản tài viên (Quản lí, thanh lí tài sản)
+ Xác định nghĩa vụ về tài sản và các biện pháp bảo toàn tài sản: Kiểm
kê tài sản, lập danh sách chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán.
- Bước 5: Tổ chức Hội nghị chủ nợ (nếu giải quyết theo thủ tục rút gọn thì
không cần bước này). Hội nghị chủ nợ có quyền đưa ra quyết định:


+ Đề nghị Tòa án đình chỉ giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản: đôanh
nghiệp, hợp tác xã vẫn còn khả năng thanh toán.
+ Áp dụng các biện pháp phục hồi hoạt động kinh doanh đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
+ Đề nghị tuyên bố phá sản.
Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ được thông qua khi có quá nửa tổng số chủ
nợ không có bảo đảm có mặt và đại diện cho từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm

trở lên biểu quyết tán thành.
- Bước 6: Tòa án tuyên bố công ty phá sản
+ Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản trong các trường
hợp sau: hội nghị chủ nợ không được tổ chức; Hội nghị chủ nợ không thông qua
được nghị quyết; Kết quả của biện pháp phục hồi hoạt động kinh doanh không đạt
được.
- Bước 7: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án.
Cơ quan thi hành án dân sự, quản tài viên phối hợp thực hiện thanh lí
và phân chia tài sản theo quy định.

II. Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật phá sản 2014 so với Luật
phá sản 2004
2.1. Phạm vi áp dụng của luật phá sản
Căn cứ: Khoản 1 Điều 3 Luật phá sản 2014
Điều 2 Luật phá sản 2004 quy định hiệu lực của Luật phá sản áp dụng “khi
giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trên lãnh thổ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” thì Luật Phá sản năm 2014 đã thu hẹp phạm
vi áp dụng chỉ đối với “Doanh nghiệp, hợp tác xã được thành lập trên lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.


Doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, bao gồm cả các doanh
nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài có hoặc không có trụ sở đặt tại Việt
Nam. Vì vậy, đối với các doanh nghiệp nước ngoài mà không có trụ sở, không có
tài sản chỉ có một số hoạt động tại Việt Nam, khi mất khả năng thanh toán mà áp
dụng Luật phá sản Việt nam thì không hợp lí và khả năng áp dụng được là không
cao.
Khắc phục hạn chế này, theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật phá sản
2014thì Luật phá sản chỉ áp dụng đối với: Doanh nghiệp thành lập hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp 2014 và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập và hoạt động

theo Luật hợp tác xã 2012.
2.2. Định nghĩa rõ ràng tình trạng “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán” và thời điểm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Căn cứ: Điều 4 Luật phá sản 2014.
Nếu Điều 3 Luật Phá sản năm 2004 quy định chung chung: “Doanh nghiệp,
hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ
có yêu cầu coi là lâm vào tình trạng phá sản” thì Luật Phá sản 2014 đã có những
thay đổi theo hướng rõ ràng và cụ thể hơn. Theo đó, tại Khoản 1 Điều 4 Luật Phá
sản năm 2014 định nghĩa rằng “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ
trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.”
Như vậy, chỉ cần xác định là có khoản nợ và đến thời điểm tòa án quyết
định việc mở thủ tục phá sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn không thanh toán là
tòa án có thể ra quyết định mở thủ tục phá sản. Việc bỏ từ “các” trong cụm từ “các
khoản nợ” để thể hiện rõ tiêu chí mất khả năng thanh toán không phụ thuộc vào số
lượng khoản nợ mà chỉ cần một khoản nợ.


Bên cạnh đó, Luật Phá sản 2014 cũng không quy định giới hạn các khoản
nợ. Điều này có thể hiểu là bất kỳ khoản nợ nào dù là nợ lương, nợ thuế, nợ bảo
hiểm xã hội, khoản nợ phát sinh từ hợp đồng... thì chủ nợ là cá nhân, cơ quan, tổ
chức đều có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Thời hạn phải thanh toán là 03 tháng giúp các doanh nghiệp, hợp tác xã chưa
có khả năng thanh toán có thể tìm các phương án khác để thanh toán nợ đến hạn
trước khi bị coi là lâm vào tình trạng phá sản. Quy định này phù hợp khi cho phép
con nợ có thời hạn trễ hạn thanh toán sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ, đồng thời
khắc phục tình trạng lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía
các chủ nợ như quy định cũ.
Đồng thời Luật Phá sản năm 2014 cũng quy định rõ “Phá sản là tình trạng
của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra

quyết định tuyên bố phá sản”. Tức là chỉ khi Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên
bố phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã đó mới bị coi là phá sản.
2.3.Về các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Căn cứ: Điều 5 Luật phá sản 2014
Trước đây trong Luật Phá sản 2004, những chủ thể có quyền, nghĩa vụ nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được quy định từ Điều 13 đến Điều 18:
~ Điều 13: Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ; Điều
14: Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động; Điều 15:
Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản; Điều 16: Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của
chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước;….
Luật phá sản 2014 đã rút gọn những quy định về chủ thể có quyền, nghĩa vụ
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong Luật phả sản 2004 vào một điều luật duy


nhất là Điều 5 gồm 6 khoản quy định về Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản của chủ nợ; người lao động; chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước; thành viên
công ty hợp danh; cổ dông công ty cổ phần;….
Ngoài ra, Luật phá sản 2014 còn sửa đổi một số quy định về chủ thể có
quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản như: theo khoản 1 Điều 14 người lao động phải
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thông qua đại diện, thì trong luật mới, người
lao động có quyền tự mình nộp đơn mà không cần phải thông qua đại diện.
Đối với công ty cổ phần, Điều 17 Luật Phá sản năm 2004 quy định “cổ
đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian
liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản”. Trong
Khoản 5 Điều 5 Luật Phá sản 2014 vẫn giữ nguyên quy định này, đồng thời cũng
cho phép cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông
trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn nếu điều lệ công ty có quy
định.
So với luật cũ, Luật Phá sản năm 2014 quy định theo hướng mở rộng phạm

vi và tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản để đảm bảo quyền lợi của mình.
2.4. Về thẩm quyền của Tòa án
Căn cứ: Điều 8 Luật phá sản 2014
Luật Phá sản 2004, quy định theo hướng doanh nghiệp, hợp tác xã do cơ
quan cấp nào cấp đăng ký kinh doanh thì do Tòa án cấp ấy có thẩm quyền giải
quyết, do đó, Tòa án cấp huyện chỉ có quyền giải quyết thủ tục phá sản đối với hợp
lý do cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện cấp; còn doanh nghiệp, hợp tác xã do
cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp thì do Tòa án cấp tỉnh xử lý. Do đó, thực
tế đa phần Tòa án cấp tỉnh giải quyết thủ tục phá sản đối với tất cả doanh nghiệp,


liên hiệp hợp tác xã thành lập trên địa bàn, còn Tòa án cấp huyện chỉ giải quyết thủ
tục phá sản đối với Hợp tác xã. Việc căn cứ vào thẩm quyền đăng ký kinh doanh để
quy định thẩm quyền giải quyết của Tòa án là hoàn toàn không phù hợp với các
nguyên tắc pháp lý.
Khắc phục những khiếm khuyết đó, Luật Phá sản 2014 quy định theo hướng
loại trừ, tức là trừ những vụ việc phá sản có tình tiết đặc biệt (có yếu tố nước ngoài,
có địa điểm ở nhiều quận huyện khác nhau, hoặc tòa cấp tỉnh lấy lên giải quyết) thì
còn lại, Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã có trụ sở chính tại huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đó.
Để đảm đảm bảo tính khách quan, Điều 10 Luật Phá sản 2014 còn bổ sung
quy định về trường hợp thẩm phán phải từ chối hoặc thay đổi thẩm phán trong quá
trình giải quyết phá sản trong một số trường hợp như: thẩm phán là người đại diện,
người thân thích của người tham gia thủ tục phá sản trong vụ việc phá sản đó; Đã
tham gia với tư cách Kiểm sát viên, Quản tài viên, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người tham gia thủ tục phá sản, người giám định, thẩm định giá;….
Luật cũng bỏ quy định “Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở chính của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thẩm quyền tiến hành thủ
tục phá sản đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đó”. Vì theo quy định

hiện hành, tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng và
hoạt động trong khuôn khổ luật doanh nghiệp. Tòa án cấp huyện đương nhiên có
thẩm quyền giải quyết vụ việc phá sản của doanh nghiệp này, trừ khi nó có tài sản
ở nước ngoài hoặc người tham gia thủ tục phá sản ở nước ngoài.

2.5. Quy định về quản tài viên
Căn cứ: Điều 12 đến Điều 16 Luật phá sản 2014


Trước Luật phá sản 2014, để hỗ trợ Tòa án trong quản lí, thanh lí tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu giải quyết phá sản, Luật phá sản 2004 có quy
định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ quản lí, thanh lí tài sản (Điều
10 Luật phá sản 2004). Tổ quản lí, thanh lí tài sản do thẩm phán quyết định thành
lập đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, các thành viên
của tổ quản lí, thanh lí tài sản đều là những người thực hiện nhiệm vụ kiêm nhiệm,
do đó khi tham gia quản lí tài sản thường lúng túng không chủ động về thời gian và
công việc. Nhận thức của các thành viên trong tổ chưa đồng đều, nhiều khi dẫn đến
mâu thuẫn nội bộ, khó thống nhất, gây khó khăn trong cách tiếp cận và xử lí vấn đề
trên phương diện tập thể.
Khắc phục những bất cập của chế định quản lí, thanh lí tài sản doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng của Luật phá sản 2014 có quy định mới về Quản tài
viên (Thay thế quy định về Tổ quản lí, thanh lí tài sản).
Quản tài viên được hiểu là người hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trong
quá trình giải quyết vụ việc phá sản.
Quản tài viên là người đảm bảo các điều kiện quy định tại điều 12 Luật Phá
sản: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách
nhiệm, liêm khiết, trung thực, khách quan; Có chứng chỉ hành nghề Quản tài
viên. Những người được cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên gồm: Luật sư;
Kiểm toán viên; Người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân
hàng và có kinh nghiệm 05 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo.

Quản tài viên có quyền và nghĩa vụ được quy định tại điều 16 Luật Phá sản
2014, được hưởng thù lao và thực hiện trách nhiệm bảo hiểm nghề nghiệp theo quy
định của pháp luật. Quản tài viên được Thẩm phán thụ lý chỉ định, trong quá trình
công tác có thể bị những người tham gia thủ tục phá sản yêu cầu thay đổi.


2.6. Cho phép thương lượng giữa chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
Căn cứ: Điều 37 Luật phá sản 2014
“1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án nhân dân nhận đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
và chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có quyền đề nghị bằng văn bản gửi
Tòa án nhân dân để các bên thương lượng việc rút đơn.”
Một điểm mới nữa của Luật Phá sản 2014 là thủ tục thương lượng trước khi
thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp, các bên thương lượng được với nhau và
người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đã rút đơn. Chính vì thế, để có căn cứ
pháp lý cho việc thương lượng này, Luật Phá sản 2014 bổ sung quy định về
phương thức thương lượng trước khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là
chủ nợ. Theo đó, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày tòa án nhân dân nhận
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán và chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có quyền đề nghị bằng
văn bản gửi tòa án nhân dân để các bên thương lượng việc rút đơn. Trong trường
hợp các bên không thống nhất được thương lượng thì tòa án sẽ tiến hành thụ lý giải
quyết theo quy định.
Luật phá sản 2004 không có quy định này.

2.7. Quy định về tiền lãi đối với các khoản nợ
Căn cứ: Điều 52 Luật phá sản 2014



Điều 34_Luật phá sản 2004 quy định: Xử lý các khoản nợ chưa đến hạn
Trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã thì các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở thủ tục thanh lý được
xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không được tính lãi đối với thời gian chưa
đến hạn.
Do Luật Phá sản 2004 chưa có quy định cụ thể về việc xác định khoản lãi
đối với các khoản nợ đến hạn và chưa đến hạn, đặc biệt là các khoản nợ mới phát
sinh trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản đã dẫn đến tình trạng áp dụng không
thống nhất về việc tính lãi đối với các khoản nợ, nên không bảo đảm quyền, nghĩa
vụ của các bên trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Để khắc phục tình trạng này, Điều 52 Luật Phá sản 2014 đã bổ sung quy
định về xác định tiền lãi đối với khoản nợ, theo đó:
1.Kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, các khoản nợ vẫn được tiếp tục
tính lãi theo thỏa thuận nhưng được tạm dừng việc trả lãi. Trường hợp Thẩm phán
ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản theo quy định của Điều 86 Luật
này, đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh theo quy định tại Điểm a
Khoản 1 Điều 95 của Luật này, thì việc tạm dừng trả lãi chấm dứt, các bên tiếp tục
thực hiện trả lãi theo thỏa thuận;
2. Đối với các khoản nợ mới phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản đến thời điểm
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì tiền lãi của các khoản nợ đó được
xác định theo thỏa thuận nhưng không trái với quy định của pháp luật
3. Kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì các
khoản nợ không được tiếp tục tính lãi.

2.8. Kéo dài thời gian quy định về giao dịch bị coi là vô hiệu đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán



Căn cứ: Diều 59 Luật phá sản 2014
Nếu theo Điều 43 Luật phá sản 2004: “Thời gian thực hiện các giao dịch bị
coi là vô hiệu trong vòng 03 tháng trước ngày tòa án nhân dân thụ lý đơn”
Thì đến Luật phá sản 2014 thời gian này được nâng lên là trong thời gian 06
tháng trước ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản. Theo Điều 59
sau khi thụ lý đơn, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn, Thẩm phán mới
ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản. Như vậy, so với quy định cũ,
Luật mới kéo dài thời hạn đối với các giao dịch vô hiệu thêm 2 tháng. Việc kéo dài
thời gian tính các giao dịch bị coi là vô hiệu nhằm tránh tình trạng tẩu tán tài sản
của doanh nghiệp, đảm bảo quyền lợi của các chủ nợ.

2.9. Điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ
Căn cứ: Điều 79 Luật phá sản 2014
Hội nghị chủ nợ được hiểu là cuộc họp của các chủ nợ do Thẩm phán triệu
tập và chủ trì để thảo luận và quyết định các vấn đề liên quan đến việc giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Hội nghị chủ nợ không phải là
thủ tục bắt buộc trong mọi trường hợp giải quyết phá sản, song hội nghị chủ nợ có
vai trò quyết định trong việc doanh nghiệp mắc nợ có được áp dụng thủ tục phục
hồi hay không.
Theo Điều 65 Luật phá sản 2004, Điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ như
sau: “Quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số
nợ không có bảo đảm trở lên tham gia”; nghĩa là theo Luật phá sản 2004, Hội
nghị chủ nợ được diễn ra hay không phụ thuộc vào số lượng chủ nợ tham gia và số
nợ không có bảo đảm.
Khác với quy định của Luật Phá sản 2004, theo Điều 79 Luật phá sản 2014,
điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ chỉ căn cứ trên số nợ. Theo đó, số chủ nợ


tham gia hội nghị chủ nợ không phải là điều kiện để coi hội nghị chủ nợ hợp lệ.
Điều này có nghĩa là hội nghị chủ nợ có thể hợp lệ khi chỉ cần một chủ nợ tham

gia mà đại diện cho ít nhất 51% số nợ không có bảo đảm. Mặt khác, việc tham gia
có thể là không trực tiếp: “Chủ nợ không tham gia Hội nghị chủ nợ nhưng có ý
kiến bằng văn bản gửi cho Thẩm phán trước ngày tổ chức Hội nghị chủ nợ, trong
đó ghi rõ ý kiến về những nội dung quy định tại khoản 1 Điều 83 của Luật này thì
được coi như chủ nợ tham gia Hội nghị chủ nợ”. Theo hướng này, điều kiện hợp lệ
của Hội nghị chủ nợ thông qua phương án thu hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã cũng quy định chỉ theo số nợ.
2.10. Xem xét đơn đề nghị, kiến nghị theo thủ tục đặc biệt
Căn cứ: Điều 113 Luật phá sản 2014
Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, các chủ nợ, người nộp
đơn có quyền đề nghị xem xét lại quyết định phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã của
Tòa án.
Trước đây, Điều 92 Luật phá sản 2004 quy định: “Quyết định giải quyết
khiếu nại, kháng nghị của Tòa án cấp trên trực tiếp là quyết định cuối cùng và có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định”.
Tuy nhiên, trong thực tế giải quyết có những quyết định giải quyết khiếu nại,
kháng nghị quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản của Tòa án cấp
trên trực tiếp có thể mắc sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hoặc
có tình tiết mới.
Để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đồng
thời không làm mất lòng tin của người dân và xã hội vào hoạt động của Tòa án,
Luật phá sản 2014 đã quy định về việc xem xét đơn kiến nghị, kháng nghị theo thủ
tục đặc biệt. Theo đó, Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhân dân cấp trên


trực tiếp ra quyết định giải quyết đề nghị, kiến nghị theo Điều 112 của Luật này mà
có đơn đề nghị xem xét lại của người tham gia thủ tục phá sản, kiến nghị của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao hoặc kiến nghị của Tòa án nhân dân thì Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao xem xét lại quyết định đótrong một số trường hợp sau: Có vi
phạm nghiêm trọng pháp luật về phá sản; Phát hiện tình tiết mới có thể làm thay

đổi cơ bản nội dung quyết định tuyên bố phá sản mà Tòa án nhân dân.
Tòa án nhân dân xem xét giải quyết và trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày
nhận được đơn đề nghị, kiến nghị, chánh án Tòa án nhân dân tối cao có quyền ra
quyết định: không chấp nhận đơn đề nghị, kiến nghị, giữ nguyên quyết định của
Tòa án cấp dưới hoặc hủy quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.
Quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng và có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.

2.11. Một số điểm mới khác
Ngoài một những điểm đã nêu trên, Luật phá sản 2014 còn bổ sung một
chương gồm 8 điều (từ điều 97 - 104) để quy định về việc phá sản đối với tổ chức
tín dụng, theo đó quy định cụ thể về thủ tục phá sản tổ chức tín dụng, quyền, nghĩa
vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Bổ sung về phá sản có yếu tố nước ngoài
như người tham gia thủ tục phá sản là người nước ngoài; ủy thác tư pháp của tòa
án nhân dân Việt Nam đối với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài; hay thủ tục
công nhận và cho thi hành quyết định phá sản của tòa án nước ngoài...
KẾT LUẬN
Qua đây, có thể thấy so với Luật Phá sản 2004 thì Luật Phá sản 2014 có khá
nhiều điểm mới, đây sẽ là tiền đề thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, hợp tác xã
đang trong tình trạng sản xuất kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi


thị trường một cách “trật tự”, đồng thời thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh,
tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên để Luật thực
sự đi vào thực tế, và giải quyết được những bất cập trong giải quyết phá sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã hiện nay hay thì điều này không chỉ phụ thuộc vào khả
năng của những nhà lập pháp mà còn do các cơ quan thi hành pháp luật và tòa án
thực hiện.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại Việt Nam 1, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, 2018.
2. Luật Phá sản 2004: .
3. Luật Phá sản 2014, Nxb. Lao động.
4. Luật Phá sản 2014: Những điểm mới có lợi cho Doanh nghiệp:
/>5. Đức Duy, Theo thông tin tài chính số 20, kỳ 2 tháng 10/2014, Những điểm mới
trong Luật phá sản 2014: .



×