Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Quan hệ giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.7 KB, 32 trang )

VIỆT NAM VÀ KHU VỰC
CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG

GVBM: ThS. Võ Thế Khang

---Năm 2019---

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................................3
PHẦN I: KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM TRƯỚC 1986....................4
1. Hoàn cảnh lịch sử.............................................................................................................................4
2. Đường lối đối ngoại của Đảng.........................................................................................................5
PHẦN II: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH TỪ SAU 1986.............................................8
1. Giai đoạn 1986-1990 .......................................................................................................................9
2. Giai đoạn 1991-2000.......................................................................................................................11
3. Giai đoạn 2001-2010.......................................................................................................................14
PHẦN III: QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC..............................16
1. Mối quan hệ Việt Nam – Mỹ..........................................................................................................16
2. Mối quan hệ Việt Nam – Nga.........................................................................................................19
3. Mối quan hệ Việt Nam – ASEAN...................................................................................................21
4. Mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc............................................................................................23
PHẦN IV: ĐÁNH GIÁ VỀ VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM Ở KHU VỰC CA-TBD........................26
1. Vị trí chiến lược của Việt Nam ......................................................................................................26
2. Vai trò của Việt Nam được nhìn nhận là một mô hình chuyển đổi thành công ............................28
2


3. Vai trò là cầu nối, trung gian hòa giải.............................................................................................29


4. Vai trò của Việt Nam thể hiện qua thành công của chính sách đổi mới ........................................30
5. Vai trò của Việt Nam thông qua là đối tác chiến lược với Hoa Kỳ ...............................................31

KẾT LUẬN

32

I. KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM ĐỐI VỚI KHU VỰC

CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG TRƯỚC ĐỔI MỚI (1986)
1. Hoàn cảnh lịch sử:
a. Tình hình thế giới:

Từ những năm 1940 đến đầu thập kỷ 60, ngày càng nhiều quốc gia phát triển theo
CNXH. Đầu thập niên 60, hệ thống XHCN thế giới bao gồm 14 quốc gia ở châu Âu, châu
Á và Mỹ La Tinh chiếm khoảng ¼ diện tích đất nổi của Trái Đất (hơn 35 triệu km 2),
với 1.2 tỷ dân (chiếm 35% dân số thế giới), về sức mạnh kinh tế hệ thống này chiếm
khoảng 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp toàn thế giới lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, từ giữa thập niên 60, sự rạn nứt của hệ thống XHCN thế giới đã bộc lộ bởi
những bất đồng về tư tưởng, quan điểm giữa một số nước thành viên XHCN. Các thế lực
thù địch của CNXH ở phương Tây không ngừng thực hiện chính sách diễn biến hòa bình,
nhất là với các nước XHCN châu Âu. Rồi cũng chính ở những nước này, tình hình chính
trị, kinh tế – xã hội ngày càng khó khăn, phức tạp và không còn kiểm soát nổi giai đoạn
cuối thập niên 80 đầu thập niên 90.
Năm 1975, Mỹ chính thức rút quân ở Đông Nam và khối SEATO cũng tan rã vào năm
1977.
Tháng 2/1976, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Bali) được
ASEAN ký kết nhầm tăng cường hợp tác, xây dựng khu vực hòa bình, trung lập và thịnh
vượng. Trước tình hình này, Việt Nam đã bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao với tổ chức
này nhưng vẫn còn mờ nhạt.

3


b. Tình hình trong nước:

Từ 1945 – 1975, Việt Nam tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đấu tranh
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để bảo vệ và thống nhất đất nước. Trong giai đoạn
này, Việt Nam nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ nhiệt tình của tất cả các nước trong phe
XHCN. Chính sách đối ngoại của Việt Nam lúc này bị chi phối nặng nề bởi cuộc đấu
tranh ý thức hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô cũng như chịu tác động sâu sắc bởi tư tưởng
“hai cực, hai phe”. Đoàn kết với các nước XHCN, với Lào, Campuchia và các lực lượng
ưa chuộng hòa bình vì độc lập, thống nhât dân tộc là mục tiêu bao trùm của đối ngoại
Việt Nam.
Sau chiến tranh, Việt Nam phải khắc phục hậu quả nặng nề từ hai cuộc chiến tranh vệ
quốc. Cuối 1978, Việt Nam đưa quân tình nguyện vào Campuchia giúp nhân dân nước
này lật đổ chế độ diệt chủng Polpot. Tuy nhiên hành động này vấp phải sự phản đối mạnh
mẽ từ cộng đồng quốc tế  Việt Nam bị cô lập về ngoại giao, bị bao vây, cấm vận và
thậm chí là đương đầu với cuộc chiến trinh biên giới với Trung Quốc vào 02/1979.
Tình hình kinh tế - xã hội không mấy khả quan do tư duy chủ quan, nóng vội muốn
xây dựng nên CNXH lớn mạnh mà Việt Nam đã rơi vào tình trạng khủng hoảng toàn
diện. Cụ thể là thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ, hàng hóa được phân phối theo chế độ
tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế đến thủ tiêu việc mua bán trên
thị trường hoặc vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Nhà
nước có độc quyền phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ
khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu
người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn định số lượng và mặt hàng được phép mua. Sai lầm về
điều chỉnh giá, lương khiến “hàng tiêu dùng và lương thực thiếu nghiêm trọng , lạm phát
lên tới 700%.
 Việt Nam trong tình thế vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với một kiểu
chiến tranh phá hoại nhiều mặt.

2. Đường lối đối ngoại của Đảng:

Trong những năm 1976 - 1986, Việt Nam chưa làm tốt công tác dự báo tình hình,
nhận diện chưa đúng về mối quan hệ phức tạp giữa các nước lớn. Vì thế, một số chủ
trương, chính sách đối ngoại mang tính cứng nhắc, giáo điều, đánh giá chủ quan, dẫn đến
những sai lầm nghiêm trọng.
-

Chưa nhìn nhận thấu đáo về Mỹ và sức mạnh của Mỹ trong khu vực. Việt Nam
cho rằng, chiến thắng năm 1975 đã “đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng có”,
đánh dấu bước ngoặt đi xuống của Mỹ; làm Mỹ bị suy yếu nghiêm trọng, buộc
phải rút lui khỏi một số địa bàn ở châu Á. Song trên thực tế, Mỹ không rơi vào
“tình thế khó khăn chưa từng có”, mặc dù uy tín có giảm sút, nhưng Mỹ chưa hề
4


đánh mất vị trí siêu cường và khi cần thiết Mỹ có thể sử dụng sức mạnh đó liên kết
với các nước khác thực hiện các chính sách chống phá Việt Nam.
- Việt Nam vẫn tin rằng: “Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang
lớn mạnh không ngừng”, có khả năng phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Hơn
nữa, do bị chế định bởi tư duy ý thức hệ và không khí Chiến tranh lạnh nên Việt
Nam vẫn còn nhận thức cứng nhắc về các nước tư bản Tây Âu, chưa đánh giá
đúng về chiều hướng đối ngoại của các nước này, do đó chưa thiết lập được quan
hệ đối ngoại với họ.
- Việt Nam đánh giá thiếu chính xác về thế và lực của đất nước. Sau Đại thắng
mùa Xuân năm 1975, uy tín và vị thế của Việt Nam đã được nâng cao, song với tư
thế là người chiến thắng, Việt Nam đã thiếu tỉnh táo, đánh giá quá cao thời kỳ sau
Việt Nam, đồng thời, thỏa mãn với nhận định của một số học giả nước ngoài và tự
nhận thấy đánh được Mỹ thì không có gì không làm được. Điều đó dẫn đến tư
tưởng chủ quan, tư duy nôn nóng, phiêu lưu. Với những nhận thức chưa chuẩn xác

thế và lực của đất nước, đánh giá chưa đúng những chuyển động của tình hình
thế giới, thiếu nhạy bén, Việt Nam đã nghiêng hẳn về phía Liên Xô, coi Liên
Xô là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại. Điều này khiến Việt Nam phụ
thuộc nhiều vào Liên Xô, tự đẩy đất nước vào thế đối đầu với Trung Quốc.
Hơn nữa, Việt Nam vẫn còn sai lầm khi tự nhận diện về sứ mệnh mới: “chống chủ
nghĩa bành trướng, bá quyền” trong phong trào cách mạng thế giới, “vì nghĩa vụ
quốc tế cao cả”.
Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, độc lập, tự chủ luôn là
một trong những yêu cầu hàng đầu; đồng thời, là một trong những điều kiện bảo vệ chủ
quyền quốc gia dân tộc, là cơ sở vững chắc cho quyền tự quyết dân tộc, là đòn bẩy đưa
đất nước hội nhập với quốc tế.
-

Để phòng tránh nguy cơ mất độc lập, tự chủ về tư duy và đường lối đối ngoại,
trong những năm 1976-1986, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương “ra sức
tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi nhất để nhanh chóng hàn gắn
những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn
hóa, khoa học, kỹ thuật, củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội”. Đồng thời, mở rộng quan hệ đối ngoại, phát
triển quan hệ với các nước Đông Dương, các nước xã hội chủ nghĩa và các
nước tư bản phát triển. Cần đặt mình vào đúng dòng chảy của thời đại, hóa
giải nguy cơ, tranh thủ thời cơ, khai thác tối đa những lợi thế so sánh giữa
Việt Nam với các nước về các mặt, tận dụng những khả năng sẵn có, đánh
thức những tiềm năng của đất nước, lấy “cái mạnh” của thế giới về nguồn
vốn dồi dào, khoa học công nghệ cao, trình độ quản lý hiện đại, nguồn nguyên
nhiên liệu phong phú, thị trường rộng lớn và đa dạng để bổ sung và tăng sức
5


mạnh cho mình, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,

giải phóng và phát triển mạnh mẽ sức sản xuất, hoàn thành tốt nhất yêu cầu
của đất nước.
Trong giai đoạn 1976-1986, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã chung sức
đập tan âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, đẩy lùi chiến tranh xâm lấn ở hai đầu
biên giới, phá vỡ chính sách bao vây, cấm vận nhằm cô lập Việt Nam của một số nước
lớn, giành lại độc lập, tự chủ, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
-

Đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế là vũ khí sắc bén giúp
Việt Nam phá vỡ thế bao vây, cấm vận, đưa đất nước hội nhập ngày càng sâu
rộng với khu vực và thế giới. Đồng thời, đem lại những lợi ích kinh tế rõ ràng,
nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế và là phòng tuyến đầu tiên
giúp Việt Nam bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Hơn nữa, ngoại giao đa phương còn giúp Việt Nam độc lập, tự chủ trong
quan hệ quốc tế, qua đó nhận được sự ủng hộ rộng rãi của dư luận và bạn bè
quốc tế. Mặc dù, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã có tầm nhìn chiến lược về mở
rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi.
Song, những năm 1976-1986, Việt Nam quá chú trọng, đề cao Liên Xô và nhất
quán nhấn mạnh quan hệ thủy chung với Liên Xô là “hòn đá tảng” trong
chính sách đối ngoại của mình, do đó Việt Nam đã rơi trạng thái cô lập, đối
đầu với các nước lớn khác. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng từ sự kiện Campuchia
nên chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực và thế giới
chưa được hiện thực hóa một cách trọn vẹn, dẫn đến những khó khăn, vướng mắc
trong việc xác lập các mối quan hệ quốc tế.

Nhận thấy những hạn chế, thiếu sót trong hoạch định và thực hiện chủ trương đối ngoại,
Đảng, Nhà nước Việt Nam đã từng bước khắc phục đường lối đối ngoại “nhất biên đảo”,
tăng cường mở rộng quan hệ với tất cả các nước trong khu vực và thế giới. Từ năm 1975
đến năm 1977, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 nước, trong đó có nhiều

nước tư bản phát triển. Từ năm 1976 đến trước khi xảy ra vấn đề Campuchia, nhiều
đoàn cấp cao của Việt Nam đi thăm các nước Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản... mở ra
quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học kỹ thuật với các nước thuộc khu
vực này. Đây là khoảng thời gian Việt Nam tranh thủ được nhiều nguồn viện trợ, thiết bị
kỹ thuật từ các nước tư bản phương Tây. Trong những năm 1976-1980, Việt Nam đã
tranh thủ được từ các nước tư bản khoảng 2,263 dollar Mỹ, trong đó 54% là cho vay,
46% là viện trợ không hoàn lại. Từ năm 1975 đến cuối 1978, riêng các nước Bắc Âu đã
dành cho Việt Nam 612 triệu đôla Mỹ, trong đó 91% là viện trợ không hoàn lại. Bên cạnh
đó, Việt Nam cũng ký kết nhiều hiệp định hợp tác về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ
thuật với các nước Tây Âu, Bắc Âu như Pháp, Bỉ, Thụy Điển, Đức, Italia, góp phần
xây dựng và phát triển đất nước.
6


 Có thể thấy, những điều chỉnh trong đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn này đã

giúp Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều nước, tranh thủ nguồn vốn, viện
trợ từ nước ngoài để khôi phục và phát triển kinh tế. Đồng thời, chủ động khắc phục
đường lối đối ngoại “nhất biên đảo”, tích cực xác lập các mối quan hệ quốc tế đa dạng,
đa phương đã giúp Việt Nam có nhiều cơ hội tham gia vào các tổ chức khu vực và quốc
tế, tạo nền tảng thúc đẩy Việt Nam bình thường hóa quan hệ với các nước lớn.
Tuy nhiên, trong những năm 1976-1986, do tác động, chi phối bởi những yếu tố chủ
quan, khách quan khác nhau nên Việt Nam đã nghiêng hẳn về phía Liên Xô, đối đầu với
Trung Quốc và coi Liên Xô đây là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của mình.
Đồng thời, nhấn mạnh thắt chặt tình đoàn kết với Liên Xô là vấn đề cần thiết và
quan trọng. Điều đó thể hiện sự mất cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, đẩy
ngoại giao Việt Nam rơi vào “thế kẹt” trong mười năm trước đổi mới. Bên cạnh đó,
Việt Nam còn dè chừng, cảnh giác trong quan hệ với Mỹ, Nhật do cách nhìn nhận,
đánh giá còn chủ quan. Việt Nam cho rằng Nhật vừa giữ quan hệ với ta, vừa tranh thủ
các nước các nước ASEAN, vừa phối hợp với Mỹ và Bắc Kinh chống ba nước Đông

Dương. Còn Mỹ đang tìm cách gắn chặt với các nước Đông Nam Á nhằm tranh thủ lực
lượng để ngăn Liên Xô ở phía Đông; đồng thời, phối hợp với các thế lực phản động
chống phá ba nước Đông Dương. Vì vậy, Việt Nam bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ
với Mỹ, tiếp tục đẩy quan hệ Việt - Mỹ rơi vào tình trạng đối đầu căng thẳng. Cũng bởi vì
không giữ được thế cân bằng trong quan hệ với các nước lớn nên thời gian này đối ngoại
Việt Nam gặp phải rất nhiều khó khăn, thách thức. Một mặt, Việt Nam chèo chống với
nước láng giềng lớn Trung Quốc đầy tham vọng. Mặt khác, phải chèo chống với sự bao
vây, cấm vận của các nước lớn, khiến Việt Nam bị cô lập với khu vực và quốc tế.
Trong quan hệ với các nước láng giềng cùng khu vực, Việt Nam luôn coi trọng và ra sức
củng cố tình đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương, coi đó là quy luật phát triển
cách mạng của ba nước, là điều có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của cả ba quốc gia.
-

Trong những năm 1976-1985, Việt Nam đã không ngừng củng cố và phát triển
quan hệ hữu nghị và hợp tác đặc biệt với Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Nhiều
thỏa thuận hợp tác giữa hai nước Việt - Lào đã được ký kết trên cơ sở tăng cường
tình đoàn kết và tin cậy lẫn nhau, hợp tác lâu dài, giúp đỡ nhau về mọi mặt trên
tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng,
tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính
đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

-

Đối với Campuchia, Việt Nam luôn coi “vấn đề Campuchia” là chìa khóa cần tập
trung tháo gỡ để giải quyết những khúc mắc, bất đồng trong quan hệ đối ngoại với
các nước Đông Nam Á và ASEAN. Đi đôi với việc giúp đỡ nhân dân Campuchia
đánh đuổi lực lượng Khơme đỏ, giành lại độc lập, Việt Nam còn thực hiện nhiều
hoạt động nhằm giảm bớt căng thẳng, hiểu lầm của dư luận quốc tế. Vượt qua khó
7



khăn, thách thức, xóa bỏ mọi rào cản, quan hệ Việt Nam - Campuchia đã cải thiện
và không ngừng được củng cố, giữ gìn.

 Trong suốt một thập kỷ trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam luôn trong
tình thế cô lập, bế tắc.

II. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI
KHU VỰC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG ( TỪ SAU 1986).
Biến động của tình hình thế giới và khu vực:
Những thập niên cuối của thế kỉ XX đã diễn ra những chuyển động mang tính bước ngoặt
làm thay đổi cơ bản cục diện chính trị, kinh tế toàn cầu:
-

-

-

Liên Xô, Đông Âu rơi vào khủng hoảng. Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào. =>
Sự trợ giúp cho Việt Nam suy giảm.
Quan hệ quốc tế chuyển dần từng bước từ đối đầu sang đối thoại.
Trật tự hai cực bị phá vỡ, hình thành xu thế toàn cầu hóa, đa cực, đa phương hóa.
Chiến tranh lạnh đi dần đến hồi kết.
Các nước lớn, đặc biệt là Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc thay đổi chính sách theo hướng
hòa hoãn, khiến Việt Nam phải tự xác định cách thức quan hệ mới trong môi trường
quốc tế đang thay đổi nhanh chóng.
Sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh. Quá trình toàn cầu hóa, khu
vực hóa được thúc đẩy. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước đổi mới tư
duy quan niệm về sức mạnh, vị thế quốc gia. Thước đo sức mạnh quân sự được thay

thế bằng tiêu chí tổng hợp, với sức mạnh kinh tế là quan trọng hàng đầu.
Trong khu vực, các nước Đông Nam Á chịu sự tác động sâu sắc từ những diễn biến
phức tạp trong quan hệ quốc tế. Từ năm 1979, các nước ASEAN cùng các nước
Phương Tây chống lại Việt Nam trong vấn đề Campuchia. Với sự hậu thuẫn của
của Mỹ và Trung Quốc, ASEAN sử dụng các diễn đàn quốc tế như Không liên kết,
Liên hợp quốc để phản đối Việt Nam, gây sức ép đòi Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia. Quan hệ Việt Nam với ASEAN rơi vào tình trạng đối đầu. ASEAN trở
thành một nhân tố tham gia liên minh bao vây, cấm vận Việt Nam. => Với những
hành động thiện chí trên thực tế của Việt Nam và các nước Đông Dương, các
nước ASEAN dần ngả sang xu hướng đối thoại với Việt Nam để giải quyết vấn
đề Campuchia, xây dựng một môi trường hòa bình, hữu nghị để tập trung phát
triển kinh tế. Xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển được củng cố ở Đông Nam Á
là cơ hội thuận lợi để Việt Nam điều chỉnh quan hệ, tăng cường hợp tác với
ASEAN.
8


Nhiệm vụ cấp bách khi bước vào thời kỳ Đổi mới là:
-

-

Chấm dứt tình trạng thù địch, đối đầu, phá thế bao vây, cấm vận, tạo môi trường
quốc tế thuận lợi để tập trung xây dựng kinh tế, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã
hội.
Yêu cầu đặt ra là cần thúc đẩy bình thường hóa, mở rộng quan hệ hợp tác với các
nước. Việc tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tham gia phân công lao động quốc tế
và các cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thời điểm này.

1.

Giai đoạn 1986 – 1990: bước đầu đổi mới, chuyển biến về tư duy đối ngoại
- Năm 1986 được coi là dấu mốc chính thức khởi đầu cho quá trình đổi mới.
- Đánh dấu bằng sự ra đời của Nghị quyết 32 của Bộ chính trị với nội dung “Tình

hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta” ban hành
ngày 9/7/1986 là chuyển từ đối đầu sáng đối thoại và đấu tranh cùng tồn tại
hòa bình”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta nhấn mạnh : “Ra sức kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phân đấu giữ hòa bình ở Đông
Dương, góp phần tích cực giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới”.
Hòa bình ở khu vực và hòa bình thế giới có quan hệ gắn kết với nhau, thế giới có
hòa bình thì các khu vực mới có hòa bình và ngược lại. Do vậy giữ vững hòa bình
ở Đông Nam Á và thế giới luôn là phương châm trong chiến lược, đường lối,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
- Song song với quan điểm này, Đảng cũng xác định phát triển mối quan hệ với Lào
và Campuchia, tôn trọng chủ quyền và hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
 Tóm lại, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có những điểm đổi
mới về tư duy đối ngoại. Đảng đã đánh giá khách quan tình hình đất nước,
thừa nhận những sai lầm trong xây dựng và phát triển là “chủ quan, duy ý chí”
và đề ra chủ trương đổi mới toàn diện. Về đối ngoại, Đảng đã xác định đúng và
trúng điểm đột phá thoát khỏi thế bị bao vây cấm vận là giải quyết vấn đề
Campuchia, xây dựng quan hệ với ASEAN và trên thế giới, tăng cường quan hệ
hữu nghị hợp tác với Liên Xô.
Tuy nhiên, trước hậu quả của nền kinh tế bao cấp, Đại hội cũng đã khẳng định những
thành tựu và chỉ ra các hạn chế của thời kỳ 1976- 1986 và tập trung đổi mới chủ yếu
vào lĩnh vực kinh tế - xã hội do đó nội dung đổi mới tư duy đối ngoại, đặc biệt là
trong quan hệ khu vực chưa được đi sâu và cũng chỉ mới đề cập chủ yếu tới quan hệ
với hai nước láng giềng là Lào và Campuchia.


9


Như vậy, trong thời kỳ này nhằm ổn định đất nước, Đảng xây dựng đường lối đổi mới,
trọng tâm là đổi mới kinh tế chính là tư duy mới về 3 vấn đề cơ bản: Bố trí lại cơ cấu
sản xuất, điều chính lớn cơ cấu đầu tư, trước mắt tập trung cho 3 chương trình kinh tế
lơn; Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế; Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển sang hoạch toán kinh doanh
XHCN, thực hiện 1 giá (nói đơn giản là chuyển từ coi trọng công nhiệp sang coi trọng
nông nghiêp, từ hai thành phần kinh tế sang nhiểu thành phần kinh tế và từ cơ chế khế
hoạch hóa sang co chế thị trường)

Sau gần hai năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”.
Trong đó, mục tiêu đối ngoại được Nghị quyết khẳng định “giữ vững hòa bình để tập
trung sức xây dựng và phát triển kinh tế”. Nghị quyết này cụ thể hóa các vấn đề đã đưa ra
tại ĐH VI bao gồm như giữ gìn hòa bình trong khu vực, giải quyết tranh chấp, bất đồng...
Nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm “thêm bạn bớt thù”.
 Với sự ra đời của nghị quyết này, tầm quan trọng của khu vực và đối ngoại trong

khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã được nâng lên đáng kể.

2.

-

-

Giai đoạn 1991-2000: Tiếp tục đổi mới tư duy đối ngoại ở khu vực châu ÁThái Bình Dương.
• Bối cảnh trong nước:

Việt Nam cũng chịu tác động sâu sắc và toàn diện trên các
mặt kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng từ sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và
các nước Đông Âu do giảm dần rồi mất hẳn nguồn lực hỗ trợ chính. Trong giai
đoạn 1986 – 1990, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam khoảng 12-13 tỷ USD chiếm
35% tổng số viện trợ của Liên Xô cho các nước thế giới thứ ba. Mỗi năm Liên Xô
viện trợ cho Việt Nam khoảng một tỷ USD về kinh tế và một tỷ USD về quân sự
cho tới giữa những năm 80 thế kỷ XX. Trong năm 1990, Liên Xô cắt giảm viện trợ
những mặt hàng chiến lược chỉ còn 50 – 60% so với năm 1989. Thương mại được
thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, thay cho đồng Rúp. Các hợp đồng bị cắt tới 60%,
buộc Việt Nam phải tìm cách bán sản phẩm của mình ra thị trường quốc tế cạnh
tranh khắc nghiệt.
Về kinh tế, mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài từ thời chiến đã
dẫn tới khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Lạm phát phi mã kéo dài, xuất
hiện siêu lạm phát (774,7%) năm 1986 và tiếp tục ở mức ba, rồi hai chữ số cho
đến đầu thập kỷ 90. Cán cân thanh toán bị mất cân đối nghiêm trọng, sản xuất
trong nước chỉ đáp ứng 80-90% nhu cầu tiêu dùng. Toàn bộ tích lũy và một phần
quỹ tiêu dùng phải dựa vào viện trợ và vay nợ nước ngoài. Thất nghiệp lên đến
10


12,7%. Quy mô sản xuất thấp và giảm, dân số tăng nhanh, GDP bình quân đầu
người chỉ đạt 86 USD. Việt Nam nằm trong số các nước nghèo nhất thế giới và đối
mặt với khủng hoảng kinh tế xã hội.
- Về an ninh, Việt Nam phải duy trì lực lượng vũ trang lớn và tốn kém do căng
thẳng thường trực ở biên giới phía Bắc, các lực lượng thù địch tìm mọi cách đe
dọa nền hòa bình. Khi Liên Xô tan rã, Việt Nam cũng mất hoàn toàn chỗ dựa “hòn
đá tảng” trong chính sách đối ngoại. Cùng với sự bao vây, cấm vận và căng thẳng
biên giới, đây là áp lực lớn buộc Việt Nam phải đánh giá lại các mối quan hệ và cố
gắng mở rộng phạm vi quan hệ quốc tế của mình.
 Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã được triệu tập ( 1427/6/1991) tại Hà Nội.

- Mặc dù đã có những bước đổi mới tư duy và nhận thức mạnh mẽ, cởi bỏ những tư
duy giáo điều, lạc hậu, Đại hội VI và Nghị quyết 13 cũng chưa lường hết khủng
hoảng trầm trọng của các nước Xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô, Đông Âu. Đại
hội Đảng lần thứ VII (6/1991) đã khắc phục nhận thức này, tạo bước chuyển quan
trọng trong đường lối đối ngoại nói chung và trong chính sách đối ngoại của Việt
Nam với ASEAN nói riêng sau chiến tranh lạnh.
- Cùng với chủ trương "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước", báo cáo
chính trị tại Đại hội VII khẳng định: “với các nước Đông Nam Á, Việt Nam chủ
trương mở rộng quan hệ về nhiều mặt theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hai bên cùng có lợi”.
- Đại hội VII xác định nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là ''giữ vững hoà bình, mở
rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc", trong đó, “phát triển quan hệ hữu
nghị với các nước ở Đông Nam và phấn đấu cho một Đông Nam hoà bình,
hữu nghị và hợp tác''.
- Một sự kiện quan trọng đánh dấu sự thay đổi tư duy đối ngoại nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của quan hệ khu vực là việc Việt Nam công bố “chính sách 4 điểm
mới của Việt Nam đối với khu vực” năm 1993. Trong văn kiện này, Việt Nam
nhấn mạnh sẽ tăng cường sự ưu tiên cho quan hệ nhiều mặt với các nước láng
giềng và đặc biệt là với ASEAN  Sau một thời gian căng thẳng, đối đầu, giờ
đây Việt Nam thể hiện mong muốn đối thoại và tuyên bố “ sẵn sàng gia nhập
ASEAN vào một thời điểm thích hợp”.
- Trên cơ sở đường hướng đổi mới chính sách đối ngoại tổng thể đó, Đại hội
VII xác định bình thường hoá quan hệ với Mỹ là một chủ trương đối ngoại
quan trọng, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân hai nước, có lợi cho
hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực.
- Đảng ta quan niệm việc cải thiện quan hệ với Mỹ chẳng những tạo cơ hội cho
nước ta tiếp cận một cường quốc có thị trường lớn, tiềm lực kinh tế, khoa học –
công nghệ mạnh, mà còn góp phần tạo dựng một môi trường quốc tế hoà bình, ổn
11



-

-

-

-

định, tạo thuận lợi cho nước ta có thể tập trung các nỗ lực vào thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ chiến lược là phát triển kinh tế.
Chính vì vậy, chính sách của Việt Nam trong quan hệ với Mỹ luôn nhấn mạnh
nội dung hợp tác kinh tế - thương mại, khoa học - kỹ thuật. Hơn nữa, nếu quan
hệ với Mỹ được cải thiện theo hướng tăng cường mặt hợp tác sẽ giúp Việt Nam có
điều kiện thuận lợi hơn để cải thiện và thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các
nước khác; để nâng cao hơn vị thế của nước ta trên trường quốc tế; để thu hút sự
quan tâm hơn của cộng đồng quốc tế đến Việt Nam.
Mặt khác, việc cải thiện và xử lý tốt các lĩnh vực quan hệ với Mỹ cũng nằm trong
việc triển khai thực hiện một phương châm đối ngoại mới phương châm cân bằng
trong quan hệ với các nước lớn, trước hết là các nước lớn khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương. Có thể thấy lợi ích của Việt Nam liên quan đến tất cả các nước lớn,
và họ cũng đều có lợi ích nhiều mặt và khá lớn ở khu vực này và đều muốn gia
tăng ảnh hưởng ở khu vực này. Nhưng tất nhiên trước hết Việt Nam phải bình
thường hoá quan hệ với tất cả các nước lớn, mà quan hệ với Mỹ (và Trung Quốc)
là quan trọng nhất, thì mới tạo ra điều kiện tiên quyết để thực hiện phương châm
cân bằng quan hệ với các nước lớn theo hướng tranh thủ mặt hợp tác, hạn chế mặt
kiềm chế trong chính sách của những nước này với Việt Nam.
Để thực hiện bình thường hóa quan hệ với Mỹ Việc Nam đã thực hiện chương
trình POW và MIA là chương trình tìm kiếm hài cốt quân nhân Mỹ mất tích trong

chiến tranh ở Việt Nam. Đến năm 1994, Mỹ gỡ bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam,
từ đó tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam có thể gia nhập ASEAN.
Đến Đại hội Đảng lần VIII diễn ra từ ngày 28/6-1/7/1996 trong điều kiện quá
trình đổi mới toàn diện đất nước nói chung và đổi mới đối ngoại nói riêng đã trải
qua chặng đường 10 năm. Việt Nam đã đạt được những thành tựu như:
+ Vấn đề về Campuchia cơ bản được giải quyết.
+ Phá vỡ được thế bao vây, cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây.
+ Trở thành thành viên chính thức của ASEAN.
+ Quan hệ quốc tế cũng trở nên rộng mở hơn, Lúc này Việt Nam đã có quan hệ
7với 168 quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ buôn bán với hơn 70 nước.

Đại hội VIII tiếp tục nhấn mạnh một vấn đề có tính chiến lược là “Ra sức tăng cường
quan hệ với các nước láng giềng và các nước ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với
các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm
kinh tế chính trị trên thế giới”.

Ngoài ra thành tựu về đối ngoại, Nghị quyết Đại hội VIII, đạt được những thành
tựu quan trọng về kinh tế:
-

Kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hằng
năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Việc
12


-

3.

nuôi trồng và khai thác thủy sản, hải sản được mở rộng. Giá trị sản xuất công

nghiệp bình quân hằng năm tăng 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng: bưu chính viễn thông, đường sá, cầu, cảng, sân bay, điện, thuỷ lợi... được tăng cường. Các
ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000 đã chặn được đà
giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch
đề ra.
Tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng hơn gấp đôi so với năm 1990. Kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng
hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết
yếu của nhân dân và nền kinh tế; từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã
chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ chỗ chủ yếu chỉ có
hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển sang có nhiều
thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống các tầng lớp
nhân dân được cải thiện. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt
qua được cơn chấn động chính trị và sự hẫng hụt về thị trường do những biến động
ở Liên Xô và Đông Âu gây ra; phá được thế bị bao vây cấm vận, mở rộng được
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; không để bị cuốn sâu vào
cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế ở một số nước châu Á mặc dù hậu quả của nó
đối với nước ta cũng khá nặng nề; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc
phòng và an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn
nhiều so với mười năm trước.

Giai đoạn 2001 – 2010: hoàn thiện tư duy đối ngoại trong quan hệ khu vực
châu Á – Thái Bình Dương:

Sau 15 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn định; thế và lực
của ta được nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở rộng; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được cải thiện; khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập được tăng
cường. Thể hiện qua các thành tựu trong quan hệ đối ngoại như : mở rộng mạnh mẽ
quan hệ kinh tế song phương và đa phương; phát triển quan hệ đầu tư với gần 70
nước và lãnh thổ; bình thường hoá quan hệ với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế
như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc Tế (IMF), Ngân hàng Phát triển

châu Á (ADB); gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA); tham gia sáng lập Diễn đàn Á-Âu (ASEM); gia nhập
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC); trở thành quan sát
viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và đang tiến hành đàm phán để gia
nhập tổ chức này. Nước ta cũng đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế với Liên
minh châu Âu (EU) và Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ theo chuẩn
mực của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
13


Tuy nhiên, chúng ta còn phải đối phó với nhiều khó khăn, thử thách, bao trùm lên tất cả
là "Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức
to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh
tranh quyết liệt".
Trong bối cảnh đó, sau Đại hội VIII, Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng tiếp tục hoàn
thiện đường lối đối ngoại thông qua việc khẳng định "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển". Ngoài ra, Đại hội còn nhấn mạnh, Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế.
Tháng 11-2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế thực
hiện theo Chiến lược 5 năm từ 2001 - 2005, bởi nhận thức được sự cần thiết phải chủ
động hội nhập, tham gia vào quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa.
Đặc biệt, trong bối cảnh chủ nghĩa khủng bố hoành hành sau sự kiện 11/9 và sự chiều
chỉnh chính sách của các nước lớn trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Mà trong
bối cảnh này – hậu chiến tranh lạnh khi mà trật tự thế giới chưa định hình và sự trỗi dậy
của các nền kinh tế mới để xác định “ai là bạn, ai là thù” là không dễ dàng. Tháng 7 năm
2003, Hội nghị Trung ương 8, khóa IX đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện thế giới không giống với
trước đây. Ví dụ khi đề cập đến vấn đề “Bạn và thù” thì cách đây 10 năm, việc phân định

còn dựa vào yếu tố giai cấp và hệ tư tưởng, bị chi phối nặng nề bởi cuộc chiến “hai cực,
hai phe”. Tuy nhiên, Nghị quyết 8 đã thể hiện những nhận thức mới của Đảng về
nguyên tắc xác định đối tác và đối tượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam, nhấn
mạnh: Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của Việt Nam; bất
kể lực lượng nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu cách mạng Việt Nam
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.
 Từ khi đổi mới năm 1986, sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị năm 1988, Nghị

quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX là tài liệu
thứ hai có tầm quan trọng chiến lược trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; đã
xác định nguyên tắc và phương thức đối ngoại của Việt Nam với tất cả các nước
trong khu vực và thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát triển.
Tình hình thế giới những năm tiếp theo đã khẳng định tính đúng đắn của Nghị quyết
Trung ương 8 (khóa IX) về “Chiến lược bảo về Tổ quốc trong tình hình mới”
Trong bối cảnh đó, Đại hội X từ 18-25/4/2006 là bước phát triển tiến dần tới sự hoàn
thiện của quá trình đổi mới chính sách đối ngoại Việt Nam trong quan hệ khu vực cũng
như thế giới. Khẳng định chính sách đối ngoại của Việt Nam là “chính sách đối ngoại
14


rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế”. Tuy nhiên, nó không có
nghĩa là dàn đều mà có trọng tâm, trọng điểm. Lúc này, mức độ ưu tiên cũng như tầm
quan trọng của quan hệ khu vực đã là nội dung không thay đổi trong tư tưởng chỉ đạo và
đường lối đối ngoại Việt Nam. Trong đó, giành ưu tiên cao cho việc phát triển quan hệ
hợp tác, hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng Lào, Campuchia, ASEAN.
Ngoài ra, Việt Nam cũng khẳng định tiếp tục “hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể
chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương”. Như vậy có thể nhận thấy nét mới trong
tư duy đối ngoại là mở rộng hợp tác khu vực một cách toàn diện, trong đó hợp tác kinh tế
là trọng tâm.

Tại Hội nghị Trung ương 9, khóa X (1/2009), VN tiếp tục khẳng định thứ tự ưu tiên
trong quan hệ quốc tế là “đặc biệt coi trọng quan hệ với các nước láng giềng, các nước
lớn, các nước bạn bè truyền thống và các đối tác quan trọng, các tổ chứ quốc tế và khu
vực mà ta là thành viên”. Bên cạnh đó các vấn đề tranh chấp đều được nhấn mạnh giải
quyết: “đẩy nhanh tiến độ phân giới, cắm mốc với Lào, Campuchia theo thời gian đã thỏa
thuận và xác định ranh giới thềm lục địa với các nước có liên quan”
 Chính thức được khởi động từ 1986, quá trình đổi mới tư duy đối ngoại trong quan

hệ khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã có những bước phát triển quan trọng, đi
từ thấp đến cao, ngày càng hoàn thiện và linh hoạt hơn. Quan hệ với châu Á –
Thái Bình Dương được chú trọng phát triển và trở thành một hướng ưu tiên trong
đường lối và chính sách đối ngoại của Việt Nam, đồng thời phản ánh những thay
đổi của thế giới, khu vực
III. QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC
1. MỖI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM - MỸ
o Chính sách ngoại giữa Việt Nam - Mỹ:
− Sau khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới, trong đó có đổi mới tư duy về quan hệ đối

ngoại, Việt Nam đã chủ trương chuyển chính sách với Mỹ từ đối đầu sang hợp tác
và đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình. Bước chuyển này trong chính sách với
Mỹ trước hết xuất phát từ tư duy mới, nhận thức mới của ĐCSVN về tình hình
quốc tế, về cục diện quan hệ quốc tế đã và đang thay đổi cuối thập niên 80 của thế
kỷ XX. Có thể tóm lược một số khía cạnh đáng chú ý như sau.
o Thứ nhất, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tác
động sâu sắc đến toàn bộ tình hình thế giới. Cuộc khủng hoảng của phong trào
cộng sản lại càng thêm nghiêm trọng; phong trào độc lập dân tộc, phong trào
đấu tranh cho dân sinh, dân chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở
các nước tư bản gặp khó khăn. Trật tự thế giới hai cực chấm dứt, chuyển sang
thời kỳ quá độ tiến tới một trật tự thế giới mới, nhưng rất khó dự báo.
o Thứ hai, cách mạng khoa học – công nghệ tới lúc này đã đạt được những thành

tựu kỳ diệu, đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống quốc tế, mở ra khả năng
15










cho các nước đi sau, kém phát triển hơn có thể tận dụng những thành tựu đó
phục vụ cho mục tiêu phát triển của quốc gia mình.
o Thứ ba, nhìn chung hầu hết các nước lớn nhỏ trên thế giới đều đã điều chỉnh
chính sách đối ngoại theo hướng tạo dựng môi trường bên ngoài thuận lợi để
tham gia hiệu quả vào quá trình hợp tác, liên kết, hội nhập quốc tế.
o Thứ tư, nhận thức rõ hơn và chính xác hơn thế mạnh và điểm yếu, tiềm lực, sức
mạnh quốc gia tổng hợp thực sự của đất nước ta trong so sánh với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Trong tình hình quốc tế đầu thập niên 90 diễn biến bất lợi, tháng 6/1991 Đảng ta
họp Đại hội lần thứ VII, đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở "đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế" với phương châm "Việt Nam muốn là
bạn với tất cả các nướctrong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và
phát triển.” Đại hội VII xác định: “Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là giữ
vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận
lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội".
Trên cơ sở đường hướng đổi mới chính sách đối ngoại tổng thể đó, Đại hội VII xác

định bình thường hoá quan hệ với Mỹ là một chủ trương đối ngoại quan trọng, đáp
ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân hai nước, có lợi cho hoà bình, ổn định và
phát triển ở khu vực.
Về phía Mỹ, việc bình thường hoá quan hệ và thúc đẩy hợp tác với Việt Nam vừa
xuất phát từ nhu cầu nội tại của nước Mỹ, nhất là nhu cầu thoát khỏi “hội chứng
Việt Nam” đang chia rẽ xã hội Mỹ, vừa do tác động của các nhân tố quốc tế sau
Chiến tranh lạnh, vừa nằm trong sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu sau Chiến tranh
lạnh nói chung, với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và Đông Nam Á nói
riêng của Mỹ. Có được mối quan hệ bình thường với Việt Nam - quốc gia vừa có
vị trí địa - chiến lược quan trọng, vừa nhiều tiềm năng phát triển - là đáp ứng lợi
ích nhiều mặt của Mỹ không những trong các mối quan hệ song phương Mỹ - Việt
mà cả trong các mối quan hệ đa phương và song phương khác của Mỹ ở khu vực
Đông Nam Á, Châu Á – Thái Bình Dương.
Chính do nhu cầu, lợi ích và cả những tính toán của cả hai bên trong việc bình
thường hoá quan hệ như vậy mà ngày 12 tháng 7 năm 1995 Việt Nam và Mỹ đã
chính thức tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường với nhau, và sự kiện
này trở thành “dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển quan hệ hai nước và là
một đóng góp đáng kể đối 6 với tiến trình hoà bình, hợp tác và phát triển ở trong
khu vực và trên thế giới”. Từ đây khởi đầu một giai đoạn phát triển mới, một trang
sử mới trong quan hệ giữa hai quốc gia, hai dân tộc từng đối đầu trực tiếp với nhau
trong một cuộc chiến tranh mang đậm dấu ấn của thời kỳ Chiến tranh lạnh.

16


 Chính vì vậy, chính sách của Việt Nam trong quan hệ với Mỹ luôn nhấn mạnh
nội dung hợp tác kinh tế - thương mại, khoa học - kỹ thuật. Hơn nữa, nếu quan
hệ với Mỹ được cải thiện theo hướng tăng cường mặt hợp tác sẽ giúp Việt Nam
có điều kiện thuận lợi hơn để cải thiện và thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các
nước khác; để nâng cao hơn vị thế của nước ta trên trường quốc tế; để thu hút

sự quan tâm hơn của cộng đồng quốc tế đến Việt Nam.
Mối quan hệ giữa Việt Nam - Mỹ:
Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, Việt Nam và Mỹ từng là đồng minh
chống phát xít, nhưng rồi vì quyền lợi Mỹ đã trở mạnh ủng hộ chính phủ Pháp
quay lại tái chiếm Đông Dương, chống lại chính phủ Hồ Chí Minh. Tuy không
trực tiếp tham chiến nhưng Mỹ cũng đã hỗ trợ 70% chiến phí.
Sau Hiệp định Genève (1954), Mỹ thế chân Pháp ủng hộ Ngô Đình Diệm lập ra
Việt Nam cộng hoà ở phía Nam. Từ đó, Mỹ đã can thiệp vào xung đột ở Việt Nam
mà đỉnh cao là sự có mặt quân đội Mỹ (500,000 lính Mỹ) trên chiến trường Việt
Nam. Kết quả: Mỹ không giành được thắng lợi trong cuộc chiến này và buộc phải
ký Hiệp định Paris (1973) rút toàn bộ lính Mỹ về nước.
Mối quan hệ giữa hai bên tưởng như có thể sang trang mới, bắt đầu một mối quan
hệ hữu nghị, hợp tác, hoà bình nhưng không thành công. Năm 1977, do Việt Nam
thiếu thông tin và hiểu biết về chính trị nội bộ Mỹ, Việt Nam đã đánh mất cơ hội
bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Việc Việt Nam giúp đỡ nhân dân Campuchia đã
bị hiểu lầm và cái giá phải trả là lệnh cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây
(1975-1994).
Đại hội VI (1986), Việt Nam nêu rõ chủ trương không còn coi Mỹ là kẻ thù, đẩy
mạnh chính sách từng bước phá thế bao vây, cấm vận của Mỹ và tiến tới việc bình
thường hoá quan hệ với nước này.
Từ nhu cầu phát triển đất nước, thoát khỏi tình trạng cấm vận của Mỹ, Việt Nam
đã chủ động đưa ra chủ trương đối thoại, giải quyết các vướng mắc, tiêu biểu là
vấn đề Campuchia và tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA và
POW).
Ngày 3/2/1994, tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận chống
Việt Nam. Tuyên bố bình thường hoá quan hệ hai nước. Từ đó đến nay, Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu như:
o Bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước lớn và hầu hết các nước trên thế
giới; (Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 171 nước trên thế giới); gia
nhập nhiều tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng; trở thành thành viên có vai

trò quan trọng trong ASEAN (1995).
o 2001, hiệp định thương mại song phương (BTA) giữa hai nước được ký kết.
o













17


o

o
o
o
o
o
o

Ngày 31/05/2006, ký kết hiệp định thương mại song phương về việc Việt Nam
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mở ra mở ra quan hệ thương

mại bình đẳng giữa Việt Nam với 150 quốc gia và vùng lãnh thổ.
2007, Việt Nam được hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn
(PNTR) trong quan hệ với Mỹ.
Lần đầu tiên đảm nhiệm thành công vai trò ủy viên không thường trực Hội
đồng bảo an Liên Hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009).
Việt Nam tổ chức thành công APEC 2017 với vai trò là chủ nhà.
12/2018, Việt Nam trúng cử Uỷ ban Luật Quốc Tế thương mại của LHQ.
Đầu năm 2019, Việt Nam tổ chức thành công hội nghị thượng đỉnh Mỹ- Triều.
Việt Nam bước vào năm làm Chủ tịch ASEAN và ứng cử Ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2020-2021.

 Mối quan hệ giữa Việt Nam- Mỹ là mối quan hệ đặc biệt, từ xưa mối quan hệ của hai
bên là thù địch về hệ chính trị, mối quan hệ giữa một quốc gia siêu cường TBCN, với một
quốc gia yếu kém XNCH. Nhưng từ khi phá bỏ lệnh cấm vận (1997), mối quan hệ của
hai bên ngày càng tốt đẹp hơn lấy sự phát triển bền vững và hợp tác làm nền tảng, cả hai
bên đều vì những lợi ích kinh tế, tiềm năng phát triển mà đã gặt hái được nhiều thành
công về thương mại- kinh tế. Có thể nói trong quan hệ quốc tế với các nước lớn của Việt
Nam, mối quan hệ với Mỹ là mối quan tâm lớn nhất và rất quan trọng. Quan hệ Việt- Mỹ
có tầm quan trọng đặc biệt, Mỹ là đối tác chiến lược số 1 có khả năng và tiềm năng tác
động hơn bất kỳ đối tác nào khác về chất lượng môi trường quốc tế của Việt Nam.

2. MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM – NGA:
o CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM – NGA:
− Trong một thập niên triển khai quan hệ Đối tác chiến lược và gần ba năm triển

khai quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, quan hệ Việt – Nga đã đạt được
những thành quả to lớn, góp phần quan trọng vào công cuộc hiện đại hóa và phát
triển ở mỗi nước. Kết quả đó thể hiện quyết tâm chính trị và cách tiếp cận mới
của Lãnh đạo cấp cao hai nước trong việc tăng cường hợp tác song phương.
− Về chính sách và cơ chế hợp tác, hai Bên thực sự coi trọng và có nhu cầu hợp tác

với nhau trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, vị trí của mỗi nước trong chính sách
đối ngoại của nhau tăng đáng kể. Nét nổi bật của quan hệ chính trị Việt - Nga là
có độ tin cậy cao với các hình thức hợp tác đa dạng. Hai bên đã thiết lập được cơ
chế tiếp xúc cấp cao thường niên, hợp tác chặt chẽ tại các diễn đàn quốc tế, nhất
là tại Liên hợp quốc cũng như các tổ chức do ASEAN làm nòng cốt.
− Hợp tác kinh tế Việt - Nga ngày càng được tăng cường với bốn lĩnh vực trụ cột
gồm thương mại, đầu tư, dầu khí và năng lượng điện. Hợp tác trong lĩnh vực dầu
khí không ngừng phát huy hiệu quả đối với nền kinh tế mỗi nước. Không chỉ
dừng lại ở hướng truyền thống là thăm dò và khai thác, hai bên đang mở rộng
18


hợp tác sang các lĩnh vực mới là lọc hóa dầu, sản xuất nhiên liệu cho động cơ
chạy khí và Nga cung cấp dầu thô dài hạn cho Việt Nam.
o






GIAI ĐOẠN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI II, CHIẾN TRANH
LẠNH:
Mối quan hệ giữa VN và Liên Xô/ Nga cũng là mối quan hệ đặc biệt phản
ánh sự thay đổi của nền chính trị thế giới.
Thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà vào ngày
30/11/1950.
Liên Xô trợ giúp VN kháng chiến chống Mỹ  VN giành chiến thắng trong
chiến tranh chống Mỹ (1975) và hai bên đã ký Hiệp định hợp tác chiến lược
(1978).

Đại hội lần thứ VI (1986), Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn khẳng định quan hệ
với Liên Xô là ‘hòn đá tảng’.

 Trong thời gian này mối quan hệ giữa hai bên rất mật thiết, Việt Nam luôn
bày tỏ sự ủng hộ hoàn toàn chính sách đối ngoại và đối nội của Liên Xô. Việt
Nam trở thành đồng minh số một của Liên Xô ở Đông Nam Á.
GIAI ĐOẠN SAU CHIẾN TRANH LẠNH:
− Tuy nhiên, kể từ khi thực hiện công cuộc cải tổ, chấm dứt Chiến tranh Lạnh, sự
sụp đổ của Liên Xô. Đứng trước tình hình đó, Nghị quyết Đại hội VI đã đề ra
chủ trương ‘phải nhanh chóng đổi mới hợp tác với Liên Xô và các nước anh em,
nâng cao hiệu quả hợp tác trên cơ sở cùng có lợi, cùng có trách nhiệm vì hoà
bình và cách mạng trên thế giới’. Kể từ đó, quan hệ hai nước được tái xây dựng
trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
− Sau một giai đoạn trầm lắng thời kỳ những năm 1990 chủ yếu do các vấn đề nội
bộ của Nga sau khi Liên Xô tan rã và việc Kremlin tái định hướng chính sách đối
ngoại hướng sang phương Tây, quan hệ hai nước đã lấy lại động lực vốn có với
việc Nga trở thành đối tác chiến lược đầu tiên của Việt Nam vào năm 2001. Năm
2012, quan hệ đối tác này được nâng cấp lên tầm “chiến lược toàn diện” nhằm
phản ánh sự phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu của mối quan hệ trong thời
gian gần đây.
− Khía cạnh nổi bật nhất của mối quan hệ ngày càng chín muồi này chính là lĩnh
vực hợp tác quốc phòng. Nga hiện nay là nguồn cung cấp vũ khí và công nghệ
quân sự chính cho Việt Nam, chiến hơn 80% giá trị vũ khí và thiết bị quân sự mà
Việt Nam đã nhập khẩu trong giai đoạn 1990-2010. Nga đã bàn giao tàu ngầm
Hà Nội cho Việt Nam. Đây là chiếc đầu tiên trong số 6 chiến tàu ngầm lớp Kilo
trị giá khoảng 2 tỉ đô la mà Việt Nam đã đặt mua từ Nga năm 2009. Một số đơn
hàng vũ khí đáng chú ý khác mà Nga đã chuyển giao cho Việt Nam còn bao gồm
20 chiếc máy bay chiến đấu Su-30MK (thêm 12 chiếc được chuyển giao giai
o


19


đoạn 2014-15), 2 tàu hộ vệ lớp Gepard-3 (thêm 2 chiếc sẽ được chuyển giao năm
2014-16), và hai hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển K-300P Bastion-P.
− Nga và Việt Nam cũng được cho là đang hoàn thiện một hiệp định hợp tác quân
sự nhằm chính thức hóa mối hợp tác quốc phòng giữa hai nước. Bên cạnh quan
hệ quân sự, hai nước cũng đang thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực quan trọng
khác, như thăm dò và khai thác dầu khí cũng như năng lượng hạt nhân. Ví dụ,
Nga đã được Việt Nam chọn làm đối tác cung cấp các khoản vay cũng như công
nghệ nhằm giúp Việt Nam xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên tại Ninh
Thuận trong thời gian tới.
 QHQT: Một số yếu tố thuận lợi đã góp phần thúc đẩy quan hệ Việt – Nga thời

gian qua.
− Thứ nhất, nền tảng vững chắc và lâu dài của mối quan hệ từ thời Chiến tranh
Lạnh đã mang lại một mức độ tin cậy lẫn nhau cao giữa hai nước. Trong khi
Việt Nam coi Nga là một cường quốc lớn trong một thế giới đa cực và là một
đối tác ngoại giao quan trọng, thì Nga với chiến lược “xoay trục” sang châu Á
của riêng mình cũng coi Việt Nam là một đối tác chủ chốt nhằm mở rộng tầm
với của mình tại khu vực Đông Nam Á.
− Thứ hai, không giống các cường quốc khác như Trung Quốc vốn có tranh
chấp Biển Đông lâu dài với Việt Nam hay Mỹ vốn thường xuyên chỉ trích Hà
Nội về vấn đề nhân quyền, Nga hầu như không có vấn đề gai góc nổi bật nào
trong quan hệ với Việt Nam. Ngược lại, bản chất chuyên chế ngày càng tăng
của hệ thống chính trị Nga dưới thời Putin-Medvedev có xu hướng tạo thuận
lợi cho quan hệ song phương khi sự tương đồng về chính trị ngày càng gia
tăng sẽ tạo ra những điểm đồng lớn hơn nữa giữa chính phủ hai nước.
− Chính vì vậy, quan hệ Việt – Nga nhiều khả năng sẽ còn tiếp tục phát triển
trong thời gian tới. Mặc dù hợp tác chính trị và quân sự vẫn sẽ là điểm nhấn

chủ yếu của mối quan hệ, chính lĩnh vực kinh tế mới là nơi nhiều khả năng
chứng kiến những bước phát triển mạnh nhất trong tương lai. Hiện nay, quan
hệ kinh tế song phương không đáng kể vẫn là một sự thất vọng lớn đối với cả
hai bên. Ví dụ, năm 2012, thương mại hai chiều mới đạt 2,45 tỉ đôla, trong khi
tổng vốn FDI đăng ký của Nga tại Việt Nam đến năm ngoái mới chỉ đạt hơn 1
tỉ đôla.
3. MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VÀ ASEAN
*Tình hình chung
28 năm sau khi “Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á” (ASEAN) được thành lập (1967
– 1995), và 20 năm sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc (1975 – 1995), nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống nhất đã trở thành thành viên chính thức thứ 7
của ASEAN.Ngoài 5 thành viên sáng lập của ASEAN là Indonesia,Malaysia, Philippines,
Singapore và Thái Lan, thành viên thứ 6 của tổ chức là Brunei đã được kết nạp ngay sau
20


khi nước này được trao trả độc lập từ phía Anh (1984). Tất nhiên Việt Nam và Brunei là
hai nước rất khác nhau về diện tích, dân số, văn hoá, tôn giáo, chế độ chính trị, kinh tế…
nhưng những khoảng thời gian dài nêu trên cũng cho thấy phần nào những khó khăn,
những bước thăng trầm trong quan hệ giữa hai phía để có thể đến với nhau và cùng
hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn của đại gia đình Đông Nam Á .
Những năm 1960 khi cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam đang ở cao trào
và có sự tham gia (trực tiếp hay gián tiếp) của một số nước ASEAN, hai bên hầu như
không có quan hệ với nhau (trừ mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và
Indonesia).
Vào những năm 1970, quan hệ Việt Nam – ASEAN đã dần được thiết lập và phát triển
cùng với thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, và
đặc biệt qua chuyến thăm các nước ASEAN của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng
năm 1978, sau khi Việt Nam thống nhất và trở thành Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Các bên đã bàn đến các vấn đề hợp tác kinh tế và an ninh chính trị như khả năng ký

hiệp ước không xâm lược lẫn nhau. Tuy nhiên các sự kiện tiếp theo liên quan đến
Campuchia đã làm quan hệ hai bên trở nên xấu đi, thậm chí đối đầu vào những năm 80.
Cùng với những cố gắng trong việc tìm giải pháp hoà bình cho cuộc xung đột
Campuchia, quan hệ Việt Nam – ASEAN được cải thiện trở lại và khả năng Việt Nam có
thể tham gia tổ chức hợp tác khu vực của các quốc gia ĐNA này đã được đề cập đến từ
năm 1989 tại cuộc gặp không chính thức lần thứ hai về vấn đề campuchia ở Jakarta (JIM
2). Ba năm sau đó, Việt Nam trở thành quan sát viên của ASEAN (7/1992), và lại ba năm
tiếp nữa đã trở thành viên chính thức của ASEAN (7/1995). Bên cạnh những thay đổi sâu
sắc diễn ra trên thế giới và ở khu vực từ năm 1989, nhận thức về lợi ích chung của ĐNA,
về sự liên kết cùng nhau phát triển đã đưa đến sự thông cảm hơn giữa Việt Nam và
ASEAN về lợi ích an ninh của nhau, để tiến tới cùng chia sẻ một số phận chung của các
quốc gia Đông Nam Á.
*Đối với việc giải quyết các tranh chấp, trong đó có tranh chấp chủ quyền giữa
Việt Nam với một số nước liên quan.
Việt Nam đã cùng ASEAN soạn thảo Quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao của
Hiệp ước TAC. Nội dung chính của quy chế là Hội đồng chỉ tiếp nhận giải quyết những
tranh chấp có thể ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định khu vực, được các bên liên quan
trực tiếp đồng ý và chỉ đóng vai trò trung gian hòa giải mà không sử dụng biện pháp
cưỡng chế, mọi quyết định đều dựa trên nguyên tắc nhất trí. Việc các nước ASEAN thông
qua được bộ nguyên tắc của Hội đồng tối cao TAC vào tháng 7 năm 2001 tạo lập một cơ
sở pháp lí, góp phần giải quyết các tranh chấp nội khối và các tranh chấp giữa các thành
viên ASEAN với các đối tác ngoài khu vực một cách hòa bình và thỏa đáng hơn. Trong
hoạt động của Hội đồng tối cao. Việt Nam luôn chú ý tới việc duy trì chỉ đạo của
ASEAN, tránh biến Hội đồng thành một tòa án khu vực với vai trò của một vài nước
21


khống chế các quyết định của Hội đồng. Các nước ASEAN thực hiện nguyêt tắc không
can thiệp vào công việc nội bộ khi sử dụng ASEAN Troika trong giải quyết xung đột, chỉ
được thực hiện khi có sự nhất trí của tất cả ngoại trưởng ASEAN.

Hơn nữa, ASEAN Troika hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp vào
công việc nội bộ, chức năng của ASEAN Trorika không có thẩm quyền quyết định và chỉ
đóng vai trò tư vấn cho các ngoại trưởng ASEAN. Như vậy, Việt Nam có thể vận dụng
như một phương tiện hữu ích giúp Việt Nam giải quyết tốt hơn các bất đồng, tranh chấp
trong quá trình tham gia liên kết, hợp tác với các thành viên ASEAN khác, tăng cường
tình đoàn kết, hữu nghị với các nước này.
Như vậy, trong giai đoạn hiện nay với tư cách là một thành viên có trách nhiệm tích
cực của ASEAN, Việt Nam tiếp tục khẳng định ASEAN là nhân tố quan trọng hàng đầu
đối với việc duy trì môi trường hòa bình, an ninh và hợp tác phát triển vì phát triển ở
Đông Nam Á, hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu an ninh và phát triển của từng nước thành viên
cũng như cả Hiệp hội. Việt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ hơn và coi trọng đúng mức
tầm quan trọng chiến lược của ASEAN đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Việt Nam đánh giá cao cảu việc gia nhập và tham gia hợp tác ASEAN, vì điều đó đã và sẽ
mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng, thiết thực về chính trị - an ninh, kinh tế,
văn hóa – xã hội và đối ngoại mà bao trùm là tạo môi trường quốc tế thuân lợi cho xây
dựng và bảo vệ đất nước cũng như hỗ trợ Việt Nam hội nhập nhanh chóng và hiệu quả
hơn với khu vực và thế giới.
4. MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng, núi liền núi, sông liền sông. Nhân dân
hai nước có mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Sáu nhăm năm trước, vào ngày
18/01/1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhà nước đầu tiên trên thế giới thiết
lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã đặt mốc lịch sử quan trọng trong mối quan hệ lâu đời giữa hai
nước Việt Nam - Trung Quốc.
-

-

Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, quan hệ giữa 2 nước bước vào giai đoạn

xung đột mà nguyên nhân chủ yếu đến từ vấn đề Campuchia và Việt Nam tang
cường quan hệ đồng minh với Liên Xô. Sau đó, Trung Quốc đã mở cuộc tấn công
vào các tỉnh biên giới Việt Nam ngày 17/2/1979, kèm với hành dộng bắt tay với
Mỹ, tiến hành bao vây, cấm vận, kêu gọi ASEAN cô lập ngoại giao với Việt Nam.
Việt Nam đã tiến hành đổi mới chính sách đối ngoại, trong đó nhấn mạnh việc
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (thông qua Nghị quyết Đại hội VI Đảng
Cộng sản Việt Nam). Sau khi Việt Nam rứt quân khỏi Campuchia (09/1989), 1
năm sau (09/1990), các cuộc gặp giữa các nhà lãnh đạo các bên được diễn ra
thường xuyên hơn. Đến tháng 11/1991, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc
chính thức được bình thường hóa.
22


*Các động thái làm gia tăng căng thẳng trong khu vực của Trung Quốc hiện nay
Động thái

Vụ hạ giàn khoan Hải Dương-981
("HD-981") là sự việc Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa (Trung Quốc) đưa giàn khoan
Hải Dương 981 vào khu vực Biển Đông
gần quần đảo Hoàng Sa vào ngày 1 tháng
5 năm 2014, dẫn tới việc nhà nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên
bố phản đối, đồng thời tàu thuyền của hai
quốc gia đã có một số va chạm.Báo chí
quốc tế xem nơi Trung Quốc đặt giàn
khoan là vùng biển tranh chấp nhưng cả
Việt Nam và Trung Quốc đều khẳng định
đây là vùng biển thuộc chủ quyền của
mình và không thừa nhận có tranh chấp tại

đây

Trung Quốc xây đảo nhân tạo ở Biển
Đông :là vụ việc Trung Quốc thực hiện
các việc xây dựng và mở rộng diện tích sử
dụng trên các đảo hiện có tranh chấp ở
Biển Đông. Năm 2014, Trung Quốc là
quốc gia đầu tiên tiến hành cải tạo với quy
mô lớn các thực thể là bãi đá ngầm đang
do nước này chiếm hữu, thuộc quần đảo
Trường Sa - khu vực tranh chấp chủ quyền
giữa Trung Quốc và các quốc gia khác
(Việt Nam, Philippines, Malaysia, Đài
Loan và Brunei), thành các đảo nhân tạo
với diện tích lớn ngang cấp độ các đảo tự
nhiên lớn nhất ở quần đảo Trường Sa.

Phản ứng của cộng đồng quốc tế
Ngày 10/7/2014, Thượng viện Hoa Kỳ
thông qua Nghị quyết S.RES.412 về Biển
Đông yêu cầu Trung Quốc quay lại
nguyên trạng trước ngày 1/5/2014. Nghị
quyết khẳng định sự ủng hộ của Mỹ đối
với quyền tự do hàng hải, sử dụng các
vùng biển và không phận ở khu vực châu
Á-Thái Bình Dương theo đúng quy định
của luật pháp quốc tế. Nghị quyết cho
rằng các yêu sách lãnh thổ và hành động
của Trung Quốc là không thể biện minh
theo luật pháp quốc tế như đã được nêu rõ

trong UNCLOS và là một hành động đơn
phương nhằm thay đổi nguyên trạng bằng
vũ lực, vi phạm Tuyên bố về cách ứng xử
của các bên tại Biển Đông (DOC) mà
Trung Quốc đã ký với Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2002.
Nghị quyết cũng lên án việc cưỡng chế, sử
dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực gây cản
trở các hoạt động hàng hải, yêu cầu chính
phủ Trung Quốc rút giàn khoan Hải
Dương 981 cùng các lực lượng ra khỏi các
vị trí hiện nay, trả mọi việc trở về nguyên
trạng trước ngày 1/5/2014.

Ngay lập tức gặp phải sự phản đối hay lên
tiếng quan ngại của các nước trong khu
vực. Ngày 24 tháng 9 năm 2014, tại trụ sở
Liên Hiệp Quốc ở New York, Tổng thống
Philippines Benigno Aquino III đã tố cáo
hành động cải tạo các bãi đá ngầm thành
đảo nhân tạo của Trung Quốc tại quần đảo
Trường Sa.

23


Ba nước lớn nhất Âu châu là Anh, Pháp và
Đức đã cùng đưa ra một tuyên bố chung
rằng họ ‘quan ngại về tình hình ở Biển
Đông, vốn có thể dẫn đến mất an ninh và

căng thẳng trong khu vực’, đồng thời lên
tiếng chỉ trích hành động của Bắc Kinh
Trung quốc tăng cường quân sự hóa trên Biển Đông. trước giờ EU3 cho rằng
trên biển Đông : Xây dựng các sân bay để Mỹ đương đầu với Trung Quốc trên
trái phép, đưa loại các vũ khí, tên lửa quân Biển Đông để bảo vệ tự do hàng hải và
sự đến chiếm đóng tại khu vực nào
hàng không là ‘đã đủ rồi’, nhưng bây giờ
‘họ thấy rằng Bắc Kinh đã coi Mỹ không
ăn thua gì mà ngày càng lớn tiếng với Mỹ’
nên họ cho rằng vấn đề Biển Đông ‘không
chỉ là giữa Mỹ với Trung Quốc, hay giữa
các nước đông nam Á với Trung Quốc mà
là vấn đề quốc tế’.
*Quan điểm của Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông
Chủ trương nhất quán của Việt Nam về giải quyết các tranh chấp ở Biển
Đông là bằng biện pháp hòa bình, trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau,
tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm
1982. Theo đó, đối với các vấn đề chỉ liên quan đến Việt Nam và một quốc gia khác thì
giải quyết song phương. Với các vấn đề liên quan đến nhiều nước, nhiều bên, liên quan
đến tự do, an toàn hàng hải thì cần sự bàn bạc của các bên liên quan. Trong trường hợp
các bên không giải quyết được bằng cơ chế đàm phán thì cần phải thực hiện bằng các
phương thức khác, như: trung gian, hòa giải hoặc các cơ chế tài phán quốc tế.
Trong khi chờ một giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề Biển Đông, các bên liên
quan cần nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông
(DOC); nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không làm phức tạp
hóa tình hình, không có hành động vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Về bảo đảm hòa
bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông, Việt Nam hoan
nghênh và đánh giá cao nỗ lực cũng như đóng góp mang tính xây dựng của cộng đồng
quốc tế đối với vấn đề này; ủng hộ các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng biện
pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, trong đó có Công ước của Liên

hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển đối với
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phù hợp với luật pháp quốc tế, triển khai thực
hiện đầy đủ DOC và khuyến khích các bên xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở
Biển Đông (COC).

24


Về đề nghị “gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung Quốc, Việt Nam không
phản đối. Tuy nhiên, Việt Nam không chấp nhận yêu sách “đường 9 đoạn” phi lý của
Trung Quốc để tạo thành vùng chồng lấn với các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của Việt Nam. Việt Nam khẳng định, sẽ tiếp tục khai thác và bảo vệ các lợi ích kinh tế
trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, trong đó có những hoạt động của các công ty dầu
khí; đồng thời, hoan nghênh và cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty nước
ngoài có thực lực và kinh nghiệm tiến hành hợp tác thăm dò, khai thác tài nguyên dầu khí
trong thềm lục địa Việt Nam.

IV. ĐÁNH GIÁ VỀ VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM Ở CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG
Từ sau Nghị quyết Trung ương 8, Việt Nam đã thể hiện một tinh thần chủ động và tịch
cực hơn, tự tin hơn trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong quan hệ với các
nước, các tổ chức quốc tế và trong việc giải quyết các vấn đề khu vực và thế giới.
Nguyên nhân sự thay đổi này:
 Xu thế toàn cầu hóa và phụ thuộc buộc các nước phải hợp tác với nhau nhằm ngăn

chặn, giải quyết các vấn đề toàn cầu, xuyên biên giới, không loại từ một quốc gia
nào
 Từ góc độ khu vực, 10.2003 ASEAN đã có những bước tiến quan trọng thông qua
Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II, quyết tâm xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm
2020. Trên cở sở đó, tháng 12/2018 10 nước ASEAN đã phê chuẩn Hiến chương
ASEAN. Đặc biệt tại Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS), 10/2010 các nước đã

nhất trí mời Hoa Kỳ và Nga than gia EAS. Như vậy EAS bao gồm 10 nước
ASEAN và 8 nước phi ASEAN bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Australia, New Zealand, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Nga. Đây là quyết định có tính đột
phá về một cơ chế hợp tác đa phương mới, với sự tham gia của tất cả nước lớn, có
khả năng thay thế các cơ chế cũ trong tương lai.
 Từ góc độ quốc gia, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Năm 2007,
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO
cũng như hoàn thành tốt vai trò ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, chưa bao giờ, vị trí và vai trò của Việt Nam lại
được thể hiện một cách rõ nét như bây giờ. Vị trí đó được nhìn nhận qua một số yếu tố
sau đây:
1. Vị trí địa chiến lược của Việt Nam:
25


×