Đề tài:
KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN ÔN THI TỐT NGHIỆP 12
PHẦN LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
_______________________
Phần thứ nhất: ĐẶT VẤN ĐỀ
Bắt đầu từ năm 2009, đề thi tốt nghiệp THPT môn ngữ văn, bên cạnh những
phần tái hiện kiến thức văn học, nghị luận văn học, còn có một phần bắt buộc thí sinh
thành lập văn bản nghị luận khoảng 400 chữ bàn về một vấn đề mang tính thời sự của
đời sống xã hội. Cấu trúc này áp dụng cho cả hệ phổ thông và hệ bổ túc THPT. Thang
điểm đánh giá cho phần câu này khá cao, chiếm 3/10 điểm của toàn bài thi. Theo
hướng dẫn của bộ GD-ĐT và thông tin từ các cơ quan truyền thông thì đề thi Ngữ văn
năm 2010 cũng sẽ nằm trên trục cấu trúc của đề thi năm 2009. Như vậy có nghĩa
trong đề bài thi môn ngữ văn năm nay chắc chắn sẽ có dạng câu này, mà người ta
thường gọi đó là nghị luận xã hội. Nhưng thực tế trong kỳ thi Tốt nghiệp năm 2009,
số lượng thí sinh làm được bài này không nhiều, nếu có làm được thì chất lượng cũng
không cao. Vì sao vậy ? Cần phải làm gì trước thực tế này ? Đó là những câu hỏi
đang đặt ra cần giải quyết của giáo viên đang trực tiếp giảng dạy và ôn thi tốt nghiệp
Ngữ văn 12 nói chung và ôn thi tốt nghiệp Ngữ văn 12 hệ bổ túc nói riêng.
Là người tham gia chấm thi tốt nghiệp năm 2009, năm 2010 trực tiếp giảng dạy
và ôn tập Ngữ văn cho học sinh lớp 12, chúng tôi thực sự trăn trở trước vấn đề này.
Sau một thời gian nghiên cứu tìm tòi và thể nghiệm, qua đề tài khiêm tốn này, chúng
tôi muốn đề xuất một số phương án ôn tập cho dạng bài làm văn nghị luận xã hội. Với
mục tiêu là tìm ra một hướng đi hiệu quả trong giảng dạy ôn thi tốt nghiệp THPT,
môn ngữ văn lớp 12 - hệ bổ túc.
- 1 -
*
* *
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Các khái niệm:
1. Nghị luận: đgt. Bàn bạc và đánh giá một vấn đề. (theo Từ điển tiếng Việt)
2. Văn nghị luận
- Văn nghị luận: thể văn dùng lí lẽ phân tích, giải quyết vấn đề. (theo Từ điển tiếng
Việt)
- Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) trình bày những ý kiến của
mình bằng cách dùng lý luận bao gồm cả lý lẽ và dẫn chứng để làm rõ một vấn đề
thuộc về chân lý nhằm làm cho người đọc (người nghe) hiểu, tin, đồng tình với những
ý kiến của mình và hành động theo những điều mà mình đề xuất. (theo Bảo Quyến –
Rèn luyện làm văn nghị luận – NXB Giáo dục, 2003)
3. Văn nghị luận xã hội
- Văn nghị luận xã hội hiểu đơn giản là những bài nghị luận về một hiện tượng đời sống
hoặc một tư tưởng đạo lí. (theo Thanh Vân – Nghị luận xưa nhưng không cũ – Web:
phongdiep.net)
- Nghị luận xã hội là kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã hội (theo Bảo Quyến – Rèn
luyện làm văn nghị luận – NXB Giáo dục, 2003)
Khái niệm xã hội được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những vấn đề thuộc mọi
quan hệ, mọi hoạt động của con người trong mọi lĩnh vựcđời sống xã hội như chính
trị, kinh tế, giáo dục, môi trường, dân số v.v…
- 2 -
Nghị luận xã hội có thể đề cập tới rất nhiều mặt của đời sống xã hội. Từ những vấn
đề có tầm nhân loại như chiến tranh hòa bình, tình trạng ô nhiễm môi trường, những
vấn đề nhân sinh quan như quan niệm về lẽ sống và cái chết, về hạnh phúc và tình yêu
đến những vấn đề xã hội cụ thể như nạn tham nhũng, tệ cờ bạc, ý thức về pháp luật…,
tóm lại là mọi vấn đề liên quan tới đời sống của con người và xã hội đề có thể trở
thành đề tài của bài nghị luận xã hội. Tuy nhiên, đề tài của bài nghị luận xã hội thông
thường hướng vào những vấn đề có tính chất thời sự, có ý nghĩa thiết thực và cấp
bách đối với xã hội.
II. Các chủ đề nghị luận xã hội
Nghị luận xã hội được sử dụng trong việc bàn bạc đánh giá nhận định…về mọi
phương diện trong đời sống xã hội, vì vậy mỗi tài liệu lại có một cách chia chủ đề
khác nhau. Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, trong cuốn “Muốn viết được bài văn
hay” (NXB GD – 1994) thì nghị luận xã hội có thể chia ra thành 6 chủ đề lớn như
sau:
- Nghị luận về một vấn đề đạo đức nhân sinh
- Nghị luận về một vấn đề chính trị
- Nghị luận về một vấn đề tư tưởng văn hóa
- Nghị luận về một vấn đề kinh tế
- Nghị luận về một vấn đề lịch sử
- Nghị luận về một vấn đề địa lý, môi trường
SGK Làm văn lớp 12 (NXB GD-1999) thì chia ra thành 3 chủ đề lớn:
- Bình luận chính trị
- Bình luận vấn đề xã hội
- Bình luận vấn đề tư tưởng văn hóa
Còn SGK Ngữ văn lớp 12 (NXB GD- 2009) lại chia thành 2 chủ đề lớn:
- Nghị luận về một tư tưởng đạo lý
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống
- 3 -
Dù chia chủ đề như thế nào thì văn nghị luận xã hội đều tập trung bàn bạc, trao đổi
một vấn đề nào đó liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội về vật chất hoặc đời sống
tinh thần của con người.
III. Những yêu cầu của bài văn nghị luận xã hội
1. Yêu cầu chung
Bài nghị luận xã hội dù ngắn hay dài đều phải đạt được những yêu cầu sau:
1. 1. Bài nghị luận xã hội phải thể hiện sự hiểu biết chính xác tường tận về vấn đề hay
hiện tượng xã hội được bàn bạc. Người viết nghị luận phải chỉ ra được thực chất cũng
như xu hướng vận động của vấn đề hay hiện tượng đó.
1. 2. Bài nghị luận xã hội đòi hỏi người viết phải có chính kiến, phải bộc lộ công khai
lập trường quan điểm, tư tưởng của mình. Một bài bình luận xã hội không thể thiếu
phần đề xuất những ý kiến, nhận định, đánh giá về vấn đề xã hội được đem ra bàn
bạc. Trên cơ sở đó, người viết có thể đề nghị một giải pháp thích hợp.
1. 3. Bài nghị luận xã hội đòi hỏi phải có tính thời sự cao. Nó phải hướng tới mục
đích định hướng tư tưởng và hành động cho người đọc, thuyết phục họ tham gia tích
cực vào việc giải quyết những vấn đề xã hội đang được đặt ra
1. 4. Bài nghị luận xã hội là một kiểu bài nghị luận có tính chất tổng hợp cao, đòi hỏi
phải sử dụng hầu như tất cả các thao tác nghị luận. Một mặt, bài nghị luận xã hội coi
trọng việc giải thích làm sáng tỏ nội dung cụ thể của những thuật ngữ, hiện tượng,
vấn đề…được đề cập đến; mặt khác, nó đòi hỏi phải phân tích những phương diện,
những khía cạnh cụ thể của các hiện tượng, vấn đề xã hội đang bàn bạc. Bài nghị luận
xã hội cũng yêu cầu những nhận định, đánh giá phải có căn cứ xác đáng; những ý
kiến, nhận xét cần phải được chứng minh
1. 5. Trong nhà trường, bài nghị luận xã hội đòi hỏi học sinh chẳng những có hiểu biết
cụ thể, trình bày rõ ràng, thuyết phục một vấn đề xã hội đem bàn luận mà còn phải
nêu được suy nghĩ riêng của mình. Học sinh phải biết vận dụng những kiến thức trong
thực tế đời sống hay trong sử sách để luận giải các vấn đề xã hội, đồng thời phải có
- 4 -
một ngôn ngữ sắc bén, chính xác, gợi cảm, có khả năng khơi động được tư tưởng và
tình cảm xã hội của người đọc.
2. Yêu cầu đối với bài văn nghị luận xã hội trong bài thi Tốt nghiệp Bổ túc
THPT .
Bài văn NLXH thi Tốt nghiệp Bổ túc THPT yêu cầu dưới dạng một bài viết
khoảng 300 đến 400 chữ bàn về một vấn đề nào đó mang tính thời sự cấp thiết của đời
sống xã hội. Ví dụ năm 2009, đề yêu cầu :
Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) phát biểu ý kiến về tầm
quan trọng của môi trường tự nhiên đối với cuộc sống con người.
Với dung lượng khoảng 400 chữ thì quan trọng nhất là thí sinh phải biết cách
thành lập một văn bản NLXH: đúng thể loại, có kết cấu logic, diễn đạt mạch lạc...;
đảm bảo tối thiểu về mặt nội dung: biểu lộ tương đối hiểu biết về lĩnh vực bàn luận,
có ý kiến , quan điểm rõ ràng , có lý lẽ dẫn chứng xác đáng, có cách lập luận chặt chẽ,
thuyết phục trong quá trình giải quyết vấn đề.
Vấn đề được đưa ra bàn luận ở đây không quá khó đối với HV lớp 12 về cả
dung lượng lẫn nội dung nghị luận, vì lĩnh vực bàn luận thực sự các em hiểu khá kỹ.
Điều quan trọng là các em làm thế nào để viết ra được những hiểu biết đó, bàn bạc về
nó, có quan điểm, thái độ rõ ràng…bằng một văn bản đúng với yêu cầu về nội dung
và hình thức.
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN
I. Vai trò vị trí của văn nghị luận xã hội :
1. Trong đời sống
Nghị luận xã hội là loại văn được ứng dụng hết sức rộng rãi trong đời sống . Ta
có thể dễ dàng bắt gặp nó trên bất kỳ một một phương tiện thông tin đại chúng nào,
- 5 -
nằm dưới dạng các bài bình luận, xã luận về một vấn đề nào đó, một hiện tượng nào
đó thuộc lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, v.v…hay những buổi trò chuyện, thuyết
giáo của các nhà giáo dục, bài giảng đạo đức của các mục sư, linh mục, tu sỹ… Dẫu
tồn tại dưới dạng nói hay dạng viết thì nghị luận xã hội luôn có một vị trí quan trọng
trong đời sống xã hội. Bởi nó giúp con người nhận thức một cách đầy đủ, cập nhật,
khách quan các vấn đề liên quan đến đời sống , để từ đó định hướng tốt cho sự phát
triển tích cực theo quy luật vận động của xã hội. Trung Quốc, nước láng giềng với ta
có một bề dày văn hóa đồ sộ và văn học đương nhiên có những thành tựu nổi trội trên
thế giới. Tuy vậy trong đề thi tuyển sinh Đại học môn Ngữ văn của họ lại chỉ hỏi về
nghị luận xã hội. Ở Việt Nam, việc cho thêm câu hỏi nghị luận xã hội vào đề văn là
một tín hiệu đáng mừng, thể hiện sự phát triển của đời sống xã hội và vị trí quan trọng
của loại văn này.
Nghị luận xã hội là một yêu cầu cần thiết trong đời sống đặc biệt là cho học sinh.
Bởi vì qua đó, có thể kiểm tra chính xác năng lực tư duy, óc sáng tạo, sự hiểu biết của
học sinh; mặt khác tránh tình trạng "đạo văn" hay lệ thuộc nhiều vào sách vở.
2. Trong nhà trường
Văn nghị luận nói chung, văn nghị luận xã hội nói riêng được đưa vào chương
trình phổ thông cả hai cấp học (THCS và THPT) với vị trí trọng yếu trong hệ thống
thể loại văn bản được lựa chọn đưa vào tìm hiểu và rèn luyện kỹ năng thành lập.
2. 1. Chương trình trung học cơ sở:
Nghị luận xã hội được hướng dẫn khá kỹ ở lớp 9 với phần khái luận lẫn cách
làm bài và đề cập đến cả hai loại bài NLXH, với 4 bài cụ thể:
- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
- Cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
- Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý
- Cách làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý
Ngoài ra còn được bổ trợ thêm qua phần đọc hiểu một số văn bản dạng nghị luận xã
hội như:
- 6 -
- Bàn về đọc sách (Chu Quang Tiềm)
- Tiếng nói của văn nghệ (Nguyễn Đình Thi)
- Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới (Vũ Khoan)
Nhận xét: Nhìn chung chương trình THCS chỉ mang tính giới thiệu và thực hành
NLXH ở mức độ sơ giản, chưa tập trung vào việc khắc sâu tri thức và rèn luyện kỹ
năng làm bài dạng nghị luận này. Nói đúng hơn đó chỉ là bước đệm để hoàn thiện ở
chương trình THPT
2. 2. Chương trình Trung học phổ thông (THPT)
Trong chương trình THPT, dạng nghị luận xã hội được thực hành khá kỹ, bắt
đầu từ lớp 11. Ngay bài viết số 1 ở đầu năm học lớp 11 đã được định hướng làm bài
NLXH, sau đó khi hướng dẫn HV tiếp cận hàng loạt các thao tác lập luận như phân
tích, bác bỏ, bình luận, so sánh… thì các ngữ liệu SGK đều lấy dạng NLXH. Cụ thể:
- Bài thao tác lập luận phân tích có một đoạn ngư liệu viết về vấn đề dân số;
- Bài luyện tập thao tác lập luận phân tích có một đoạn ngư liệu viết về vấn đề khoa
học
- Bài thao tác lập luận bác bỏ có một đoạn ngư liệu viết về vấn đề tiếng mẹ đẻ, một
đoạn viết về hút thuốc lá
- Bài thao tác lập luận bình luận: ngữ liệu luyện tập một đoạn bàn về giao thông, một
đoạn bàn về pháp luật
- Bài luyện tập thao tác lập luận bình luận ngữ liệu một đoạn viết về lời cảm ơn, một
đoạn viết về vấn đề áo phao phòng chết đuối cho HS đi học qua sông suối
- Bài viết số 6 lại tiếp tục được định hướng làm bài nghị luận xã hội.
Ở phần văn học cũng được tích hợp một số văn bản dạng NLXH như:
- Về luân lý xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh)
- Đọc thêm: Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Nguyễn An Ninh)
- Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh)
- Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (Ăng Ghen)
Các ngữ liệu trong bài: phong cách ngôn ngữ chính luận cũng chọn dạng NLXH:
- Cao trào chống Nhật cứu nước (Trường Chinh)
- 7 -
- Việt Nam đi tới (Báo QĐNDVN năm 2007)
- Tinh thần yêu nước của nhân dân ta
Đến lớp 12 thì phần nghị luận XH được đề cập ngay từ đầu năm học với hai bài lý
thuyết cụ thể:
- Nghị luận về một tư tưởng đạo lý
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống
Và bài viết làm văn số 1 cũng được ấn định là văn NLXH
Nhận xét: Như vậy nghị luận xã hội có vị trí hết sức quan trọng trong nhà trường phổ
thông. Ở đó học sinh không chỉ được tiếp cận dạng bài NLXH mà còn được luyện tập
thực hành thành lập văn bản một cách khá kỹ càng.
II. Thực trạng vấn đề
Như trên đã trình bày, vai trò vị trí, tầm quan trọng của NLXH lớn như vậy,
nhưng thực tế kết quả làm bài của HV đang có nhiều thách thức về mặt chất lượng.
Đa số học sinh chưa làm được bài nghị luận xã hội, hoặc làm rất kém, đặc biệt là học
viên Bổ túc. Bằng chứng là kết quả kỳ thi Tốt nghiệp năm 2009 vừa rồi hiếm có thí
sinh nào dành điểm cao cho bài làm cho câu này. Vì sao vậy? Có khá nhiều nguyên
nhân, nhưng tập trung vào mấy điểm sau:
- Do tuổi đời còn nhỏ, cơ hội va chạm với muôn mặt đời sống ít, nên dẫn đến vốn
hiểu biết xã hội của học viên hạn chế.
- Ý thức tiếp cận những vấn đề xã hội của các em chỉ mang tính quan sát mà không
mang tính nhận thức cho nên biết mà không nói được một cách kỹ càng.
- HV bổ túc là đối tượng con nông dân nghèo ít có điều kiện tiếp cận với các kênh
thông tin hoặc khả năng nhận thức thấp vì vậy vốn hiểu biết xã hội hạn chế.
- Học viên nắm lý thuyết làm văn NLXH rất hời hợt: Ở lớp 9 học sinh chỉ tiếp cận
cách thức làm bài NLXH mang tính sơ giản, sau đó lên lớp 10 chủ yếu ôn lại kiến
thức khái quát của văn bản tự sự, thuyết minh và nghị luận văn học mà không đề cập
đến NLXH. Đến chương trình lớp 11 có tập trung vào NLXH nhưng chỉ mang tính
tích hợp bằng cách giới thiệu một số văn bản dạng NLXH trong phần đọc hiểu văn
- 8 -
bản, chọn ngữ liệu cho phần làm văn dạng văn bản NLXH và thực hiện hai bài viết
liên quan. Cho đến năm lớp 12 mới tái hiện lại cách làm bài qua hai bài lý thuyết. Nói
đúng hơn chương trình phổ thông chỉ tập trung rèn luyện nghị luận văn học, chương
trình THPT có 24 bài viết làm văn thì NLXH chỉ có cơ hội được viết 3 bài (2 bài lớp
11, 1 bài lớp 12) còn lại là nghị luận văn học. Bản thân giáo viên cũng đặt việc rèn
luyện làm văn nghị luận văn học ở vị trí số 1, vì nó liên quan đến các tác phẩm văn
học. Cho nên các em học sinh nắm phương pháp làm bài và vốn về nghị luận xã hội
thực sự hạn chế.
Thực ra yêu cầu của đề thi tốt nghiệp phần nghị luận xã hội là không cao về
dung lượng lẫn lĩnh vực vấn đề bàn luận. Ví dụ đề thi năm 2009:
Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) phát biểu ý kiến về tầm
quan trọng của môi trường tự nhiên đối với cuộc sống con người.
Các em hiểu rất rõ về môi trường và giá trị của nó cũng như những tiềm năng
hủy hoại môi trường thông qua các môn học Giáo dục môi trường, địa lý, ngữ văn…
và cả trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể khẳng định, kiến thức để làm
một bài viết này đối với các em là rất đầy đủ đa dạng và phong phú. Nhưng tại sao hệ
quả là các em lại không làm được bài hoặc làm bài chất lượng thấp? Theo chúng tôi
nguyên nhân trọng yếu nhất là HV không biết cách nói ra những điều mình có,
nghĩa là HV thiếu hẳn phương pháp cách thức làm bài và các kỹ năng làm văn
NLXH.
Chính vì vậy, năm học 2009 – 2010, chúng tôi được giao hai lớp 12 (12G,
12K), khi làm bài viết số 1 – NLXH đã có một kết quả vô cùng lo ngại:
BẢNG THỐNG KÊ ĐIỂM BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI SỐ 01 LƠP 12G, 12K
Điểm
Lớp
10-9 T.lệ
%
8-7 T.lệ
%
6-5 T.lệ
%
< 5 T.lệ
%
12 G
51 HV 0 0 7 14 % 11 22 % 33 65 %
12K
- 9 -
39 HV 0 0 4 10% 9 23 % 26 67%
Nhìn vào bảng thống kê ta thấy tỷ lệ HV đạt điểm trên trung bình quá thấp,
chưa đạt 40%. Lỗi vi phạm của HV chủ yếu là không biết cách làm bài, không xác
định được viết gì, viết như thế nào. Nói đúng hơn không biết cách xác định từng phần
nội dung cho bài viết của mình. Cho nên dẫn đấn tình trạng chung là kết cấu rời rạc,
thiếu tính hệ thống, lập luận lỏng lẻo không có tính logic, lý lẽ kém tính thuyết phục..
Như vậy vấn đề đặt ra cấp bách cần giải quyết trong việc ôn thi làm văn NLXH
đối với lớp 12 là ôn tập lý thuyết, hướng dẫn các cách thức làm bài, thực hành rèn
luyện kỹ năng làm văn NLXH
Chương III: NHỮNG GIẢI PHÁP ÔN TẬP
I. Hướng dẫn ôn tập lý thuyết
Lý thuyết làm văn NLXH không nhiều chủ yếu tập trung vào mấy đơn vị kiến
thức cơ bản sau:
- Khái lược về NLXH (bao hàm khái niệm, đặc điểm, yêu cầu của nghị luận xã
hội…)
- Cách làm bài NLXH
Trong hai phần này, phần khái luận chủ yếu để HV nhận diện được NLXH là gì,
các chủ đề của nó và bản chất của dạng văn bản này. Do vậy chúng tôi chỉ hướng dẫn
HV xem lại lý thuyết ở SGK lớp 9 đặc biệt là SGK lớp 12. Sau đó dành thời gian ôn
tập cách làm văn cho 2 loại nghị luận xã hội mà SGK ngữ văn đề xuất.
Sau đây là hệ thống kiến thức phần lý thuyết ôn tập:
HỆ THỐNG LÝ THUYẾT LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
A/NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG , ĐẠO LÝ
- 10 -
1. Khái niệm, đề tài, yêu cầu và các thao tác chính:
a) Khái niệm: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là quá trình kết hợp những thao
tác lập luận để làm rõ những vấn đề tư tưởng đạo lí trong cuộc sống.
b) Đề tài
Đề tài của nghị luận về tư tưởng, đạo lí là vô cùng phong phú, bao gồm:
- Các vấn đề về nhận thức như lí tưởng, mục đích sống,…
- Các vấn đề về tâm hồn, tính cách như:
+ Lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, bao dung, độ lượng,…
+ Tính trung thực, dũng cảm, chăm chỉ, cần cù, thái độ hòa nhã, khiêm tốn,…
+ Thói ích kỉ, ba hoa, vụ lợi,...
- Về các quan hệ gia đình như tình mẫu tử, anh em,...
- Về quan hệ xã hội như tình đồng bào, tình thầy trò, bạn bè,…
- Về cách ứng xử, những hành động của mỗi người trong cuộc sống.
c) Yêu cầu
- Hiểu được vấn đề cần nghị luận qua phân tích, giải thích để xác định vấn đề
- Phân tích, chứng minh những biểu hiện cụ thể của vấn đề, thậm chí so sánh,
bàn bạc, bãi bỏ,… nghĩa là biết áp dụng nhiều thao tác lập luận.
- Phải biết rút ra ý nghĩa của vấn đề.
- Người thực hiện nghị luận phải có lí tưởng và đạo lí.
2. Các thao tác lập luận cơ bản
Các thao tác lập luận cơ bản thường được sử dụng trong kiểu bài này là giải
thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận.
3. Nội dung cơ bản của bài làm:
- 11 -
- Giới thiệu,, giải thích tư tưởng đạo lý cần bàn
- Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến
vấn đề cần bàn
- Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng, đạo lý
4. Dàn bài khái quát
a) Mở bài
- Giới thiệu vấn đề được đưa ra bình luận.
- Nêu luận đề: dẫn nguyên văn câu chứa nội dung tư tưởng, đạo lý
- Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai.
b) Thân bài
- Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư
tưởng, đạo lí này).
- Phân tích, chứng minh, bình luận các khía cạnh ; bác bỏ, phê phán những sai
lệch (nếu có).
- Khẳng định chung, nêu ý nghĩa, liên hệ thực tế, rút ra bài học nhận thức và
hành động.
c) Kết bài
- Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết hoặc
dẫn thơ, văn để mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận.
- Rút ra bài học
- Nêu cảm xúc, suy nghĩ hành động của bản thân về vấn đề.
B/NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG
- 12 -