Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Phổ biến, giáo dục pháp luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN NGHĨA

PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Đà Nẵng, năm 2019

1


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN NGHĨA

PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành

: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số :


8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN LINH GIANG

Đà Nẵng, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các
cơ quan cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Học viên

Trần Văn Nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ ....................................... 8
1.1. Khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm của phổ biến, giáo dục pháp luật ............... 8
1.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ................... 15
1.3. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và cơ sở pháp lý của phổ biến, giáo dục
pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ......................................................... 27
1.4. Điều kiện đảm bảo thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số................................................................................................ 29
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH QUẢNG NAM ....... 34

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân
tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Nam........................................................................ 34
2.2. Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ở
tỉnh Quảng Nam .............................................................................................. 39
2.3. Đánh giá chung và bài học kinh nghiệm trong công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam .......... 55
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 58
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC THIỂU SỐ .................................................................................. 60
3.1. Quan điểm tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số ............................................................................................................ 60
3.2. Giải pháp tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số ............................................................................................................ 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BTC

Bộ Tài chính

BTP

Bộ Tư pháp

CP

Chính phủ


CT

Chỉ thị

DTTS

Dân tộc thiểu số

GDPL

Giáo dục pháp luật

THVN

Truyền hình Việt Nam

TNVN

Tiếng nói Việt Nam

PBGDPL

Phổ biến giáo dục pháp luật



Nghị định

NXB


Nhà xuất bản



Quyết định

QH

Quốc hội

TTg

Thủ tướng Chính phủ

TW

Trung ương

TT

Thông tư

UBND

Ủy ban Nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) có vị trí, vai trò vô
cùng quan trọng trong sự nghiệp trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta. Nhiều năm qua công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể quan tâm tổ
chức thực hiện, đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Trong đời sống xã hội,
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa, vai trò quan trọng là nhằm
trang bị, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, giáo dục ý thức tôn trọng, chấp
hành pháp luật cho các tầng lớp nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, công tác
này càng trở nên cần thiết khi Đảng, Nhà nước ta chủ trương "Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân", "tăng cường
quản lý xã hội bằng pháp luật". Điều 3, Luật PBGDPL quy định về chính
sách của Nhà nước về phổ biến , giáo dục pháp luật có quy định rõ: Phổ biến,
giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà
nước giữ vai trò nòng cốt; Nhà nước bảo đảm nguồn lưc ̣ cần thiết cho công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật; Thực hiện xã hội hóa công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật; khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có đóng góp tích cực
trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hôm nay, công tác phổ biến giáo dục pháp luật càng có ý nghĩa
quan trọng, cần thiết. Đặc biệt, nó càng trở nên quan trọng, bức thiết khi hiện
nay Đảng, Nhà nước ta đề ra đường lối, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cải
cách tư pháp, đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở,
thực hiện Quy chế dân chủ, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở...
Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy công tác tuyên truyền, phổ biến,

1



giáo dục pháp luật không ngừng được tỉnh Quảng Nam đẩy mạnh thực hiện
và đặt ra những kế hoạch hoạt động phù hợp với đặc thù riêng của địa phương
mình. Tuy nhiên, trên thực tế Quảng Nam là một tỉnh có 09 huyện miền núi,
vùng cao còn nhiều khó khăn ý thức pháp luật trong nhân dân còn nhiều hạn
chế do đó đòi hỏi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phải được tiến hành
thường xuyên liên tục với nhiều biện pháp thích hợp hơn. Là một người đã
từng gắn bó với công việc tại nới người đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS)
đang sinh sống bản thân tôi đã được tiếp cận, tìm hiểu với công tác phổ biến,
tuyên truyền và giáo dục pháp luật qua đó thấy được phần nào những khó
khăn vướng mắc cũng như những kết quả đã đạt được của công tác này tại địa
phương này. Để thể chế hóa quan điểm do Đảng đề ra, nhiều văn bản pháp
luật về giáo dục pháp luật đã được nhà nước bàn hành, ngày 25/5/2017 Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 705/QĐ-TTg về ban hành chương
trình phổ biến giáo dục pháp luật giai đoạn 2017 - 2021. Do đó tôi chọn đề tài
" Phổ biến, giáo dục pháp luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn
tỉnh Quảng Nam" là nội dung chính trong chuyên đề luận văn tốt nghiệp của
mình. Tuy nhiên do kiến thức còn hạn chế, thời gian công tác không nhiều
nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được ý
kiến đóng góp của thầy cô để bản thân tôi góp phần nhỏ bé vào công tác
PBGDPL nói chung và PBGDPL cho đồng bào DTTS ở Quảng Nam nói
riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, công tác phổ
biến giáo dục pháp luật càng có ý nghĩa quan trọng, cần thiết. Đặc biệt, nó
càng trở nên quan trọng, bức thiết khi hiện nay Đảng, Nhà nước ta đề ra
đường lối, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cải cách tư pháp, đổi mới và


2


nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, thực hiện Quy chế dân
chủ, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở...
Quảng Nam cũng là nơi nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc như
khiếu kiện, tụ tập đông người, cưỡng chế giải phóng mặt bằng, các xung đột
pháp lý, tội phạm... Trước những đòi hỏi, thách thức của đất nước trong điều
kiện mới thì song hành cùng việc nâng cao chất lượng làm luật, xây dựng luật,
ý thức pháp luật của người dân càng cần được nâng lên, công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cho người dân cũng cần được chú trọng hơn nữa. Nhận
thức rõ vị trí đó, tỉnh Quảng Nam tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế xã
hội, mở rộng dân chủ xã hội, mặt khác, đặc biệt quan tâm đến giáo dục truyền
thống văn hoá, ý thức công dân, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật cho các
tầng lớp cán bộ, nhân dân. Để xây dựng được môi trường xã hội lành mạnh,
đồng thuận, dân chủ và kỷ cương, kỷ luật, lúc này công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật có ý nghĩa, vai trò rất quan trọng, nhất là giáo dục pháp luật tại các
vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Những năm qua đã có rất nhiều học giả, nhiều công trình khoa học đi
sâu nghiên cứu công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung
nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhiều bộ phận nhân dân như phổ biến,
giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên, cựu chiến binh, đoàn viên thanh
niên, phụ nữ, nông dân....Có thể liệt kê một số nghiên cứu gần đây nhất như
cuốn “Pháp luật dành cho học sinh”, “Pháp luật dành cho phụ nữ” của Hội
đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật thành phồ Hà Nội, “Sổ
tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật” của Bộ Tư pháp...
- Nguyễn Tất Viễn (2005), Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số chuyên đề
60 năm ngành Tư pháp; “Chất lượng giáo dục pháp luật và những tiêu chí
đánh giá”; Đề tài cấp Bộ, mã số 92-98-223 của Viện Nghiên cứu khoa học pháp
lý - Bộ Tư pháp; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục pháp


3


luật trong công cuộc đổi mới, ; Tìm kiếm mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có
hiệu quả trong một số dân tộc ít người”; Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nhà
nước và pháp luật Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000 “Đổi mới giáo
dục pháp luật trong hệ thống các Trường chính trị ở nước ta hiện nay”. Vấn đề
nâng cao ý thức pháp luật cũng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu với
nhiều công trình khoa học được công bố như: "Nâng cao ý thức pháp luật của
đội ngũ cán bộ quản lý hành chính" của TS. Lê Đình Khiên, 2002; "Tăng
cường công tác giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức
thành phố Hồ Chí Minh" của Nguyễn Thanh Bình, 2005; "Ý thức pháp luật và
vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà trường nhằm nâng cao ý thức pháp luật
cho học sinh, sinh viên ở nước ta hiện nay " Luận văn tốt nghiệp của Nguyễn
Thị Thúy, năm 2011;
Trong các công trình trên các tác giả chủ yếu nói về vấn đề nâng cao ý
thức pháp luật nói chung mà chưa đi sâu nghiên cứu về vấn đề phổ biến, giáo
dục pháp luật ở cơ sở nhất là ở Quảng Nam nhằm góp phần giáo dục sự “tự
giác”, giảm bớt tội phạm, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, giảm khiếu
kiện tại một trong những trung tâm lớn nhất của Việt Nam. Do vậy, vấn đề
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở
nói chung, ở tỉnh Quảng Nam nói riêng trong giai đoạn hiện nay cần được tiếp
tục nghiên cứu làm rõ. Nghiên cứu thành công đề tài này sẽ góp phần làm
phong phú, sinh động vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng, hiệu quả hoạt
động hành chính cấp cơ sở, góp phần cải cách hành chính, thực hiện mục tiêu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Một số công trình khoa học trên đã diễn giải được một số vấn đề lý
luận và giải pháp PBGDPL cho một số đối tượng là người DTTS cũng như
thực tiễn PBGDPL trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.


4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu lý luận về phổ biến, giáo dục
pháp luật ở cơ sở, các khái niệm có liên quan; vấn đề tổ chức và hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở; các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở. Phân tích lý luận về giáo
dục pháp luật cho đồng bào DTTS nói chung và đánh giá thực trạng giáo dục
pháp luật cho đồng bào DTTS tỉnh Quảng Nam nói riêng. Qua đó, đề xuất
những giải pháp nhằm tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục
pháp luật cho đồng bào DTTS tỉnh Quảng Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Luận văn phân tích một số vấn đề lý luận về PBGDPL cho
đồng bào DTTS: khái niệm, mục đích, đặc điểm của PBGDPL và các nội
dung, phương pháp, hình thức PBGDPL cho đồng bào DTTS.
Thứ hai: Phân tích tình hình PBGDPL cho người DTTS ở tỉnh Quảng
Nam. Làm rõ những kết quả, hạn chế, và nguyên nhân của vấn đề trong công
tác tuyên truyền PBGDPL đối với người DTTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Thứ ba: Các giải pháp nhằm tăng cường PBGDPL cho đồng bào DTTS,
từ đó đề xuất các định hướng chung trong thời gian đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề phổ biến, giáo dục pháp luật cho
đồng bào DTTS và thực tiễn công tác PBGDPL cho người dân ở vùng DTTS
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: nghiên cứu thực tiễn công tác

PBGDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

5


Về mặt thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu công tác PBGDPL trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2009 đến 2018, tức là từ khi có “Quyết định
số 554/QĐ-TTg ngày 04/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ và Luật phổ biến,
giáo dục pháp luật năm 2012” và tiếp tục triển khai Quyết định số 1163/QĐTTg ngày 08/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “đẩy
mạnh công tác phổ biến pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017 – 2021”.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về đổi mới Nhà nước và pháp luật, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, về nâng cao chất lượng hiệu quả công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật ở cơ sở; các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp luật học so sánh, điều tra xã hội
học, phỏng vấn trực tiếp; phương pháp khảo sát để thống kê, thu thập thông
tin, số liệu thực tế phục vụ cho việc phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên
nhân của vấn đề nghiên cứu
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn
6.1. Về mặt ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu tương đối có hệ
thống về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào
DTTS ở tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra, luận văn góp phần phát triển những vấn

đề lý luận mà các công trình, bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan

6


đến lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số.
6.2. Về mặt ý nghĩa thực tiễn
Luận văn không chỉ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả chỉ đạo, tổ
chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào DTTS, mà
còn góp phần đánh giá đúng thực trạng công tác trên, đề xuất những biện
pháp, giải pháp có căn cứ khoa học để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh.
Đặc biệt, luận văn còn góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa vấn đề
phổ biến, giáo dục pháp luật với vấn đề phát triển kinh tế xã hội, xây dựng
nếp sống văn hoá, lối sống theo pháp luật trong cộng đồng dân cư. Từ đó, góp
phần giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống, thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ
sở.
7. Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Lý luận chung về phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng
bào dân tộc thiểu số.
Chương 2: Tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân
tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường hiệu quả của công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số.

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm của phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật
Phổ biến giáo dục pháp luật là một từ ghép giữa “phổ biến pháp luật”
và “giáo dục pháp luật”.
Là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình
cảm niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp
luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
Phổ biến pháp luật có đối tượng tác động rộng rãi, mang ý nghĩa xã hội
và nhân văn sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban hành
nhưng không được phổ biến công khai mà chỉ được coi là một công cụ để nhà
nước dùng để trị dân.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của PBGDPL trong đời sống xã hội
Mục đích PBGDPL là chuyển tải pháp luật đi vào cuộc sống của người
dân, quá trình truyền tải pháp luật được bắt đầu bằng hoạt động PBGDPL.
Thứ nhất: Pháp luật của Nhà nước không phải khi nào cũng được mọi
người trong xã hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm
chỉnh. Tuy rằng bản chất pháp luật của Nhà nước ta là tốt đẹp, nó phản ánh ý
chí, nguyện vọng, mong muốn của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã
hội. Tuy nhiên, dù những quy định pháp luật có tốt đẹp nhưng không được
nhân dân biết đến thì vẫn không đi vào cuộc sống.
Thứ hai: Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh
khi họ tin tưởng vào những quy định của pháp luật.
Thứ ba là tạo ý thức tự giác của người dân với pháp luật ý thức tự giác

8


chấp hành pháp luật của nhân dân góp phần tích cực vào việc củng cố, xây
dựng hệ thống chính trị, nâng cao dân trí, ổn đinh chính trị, an ninh quốc

phòng các địa phương, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, chỉ
có vàthể được nâng cao khi công tác PBGDPL cho nhân dân được tiến hành
thường xuyên, kịp thời và có tính thuyết phục.
Thứ tư là PBGDPL góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là sự tác động của Nhà nước lên các quan hệ xã hội
để bảo đảm cho các quan hệ xã hội phát triển theo đúng những mục tiêu đã
định. Quản lý nhà nước có ba nội dung chính sau đây: xây dựng các thể chế;
hướng dẫn, tổ chức thực hiện; thanh tra, kiểm tra. Theo Luật PBGDPL, nội
dung quản lý nhà nước về PBGDPL bao gồm:
- Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế
hoạch;
- Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác PBGDPL; Bồi
dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ PBGDPL;
- Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật; v) Thống
kê, tổng kết về PBGDPL;
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong
PBGDPL và hợp tác quốc tế về PBGDPL.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về PBGDPL, Bộ Tư pháp chịu
trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về PBGDPL; chủ trì
xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chương trình, kế hoạch dài
hạn, trung hạn về PBGDPL; chủ trì xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp
luật. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về
PBGDPL.
Về vị trí, vai trò và ý nghĩa của công tác PBGDPL trong xã hội, trong

9


xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực; các cấp

ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đã nhận thức đầy đủ hơn, xác định rõ đây là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Vì thế, đã tích cực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức triển khai và bảo đảm thực hiện, góp phần nâng cao nhận thức của toàn
xã hội về vị trí, vai trò của Hiến pháp và pháp luật trong quản lý đất nước và
kiến tạo sự phát triển xã hội, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể.
Hoạt động PBGDPL được đổi mới cả về nội dung, hình thức. Hầu hết
các văn bản quy phạm pháp luật sau khi ban hành đều được đăng tải cộng
khai trên hệ cơ sở dữ liệu, cổng thông tin, trang tin điện tử để mọi người,
doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, khai thác, sử dụng. Đề cương tuyên truyền,
phổ biến, giới thiệu các Luật, Pháp lệnh, nhất là những điểm mới, được sửa
đổi, bổ sung thay thế được biên soạn kịp thời, chất lượng được nâng lên, phục
vụ trực tiếp cho công tác tuyên truyền miệng. Các phương tiện thông tin,
truyền thông đại chúng, nhất là mạng lưới tại cơ sở tăng cường chuyên trang,
chuyên mục, đưa tin bài phản ánh về tình hình thực thi pháp luật; công tác
giáo dục pháp luật trong nhà trường được quan tâm đổi mới, cả về nội dung,
cách thức triển khai và phù hợp hơn với tâm sinh lý lứa tuổi; gắn với giáo dục
hình thành nhân cách con người phát triển toàn diện. Công tác PBGDPL cho
nhóm đối tượng đặc thù, giáo dục chuyên biệt, nhất là cho người dân vùng
sâu, vùng xa qua các hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý lưu động được tăng
cường hơn.
PBGDPL đồng thời tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong
môi trường quản lý nhà nước bằng pháp luật, hình thành các điều kiện và
nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tạo ra khả
năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp luật

10



diễn ra trong quá trình quản lý [TS Nguyễn Huy Hoàng, Học viện CT-HC
KVIII, năm 2016].
1.1.3. Đặc điểm, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống, nâng cao kiến thức và hiểu biết
pháp luật cho cán bộ, nhân dân và góp phần ngăn ngừa, hạn chế các hành vi
vi phạm pháp luật do thiếu kiến thức về pháp luật. Đây cũng là một trong
những đặc điểm của ngành Tư pháp [56, tr.333 – 334]. Để triển khai kịp thời,
hiệu quả và đồng bộ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Sở Tư pháp phải
thường xuyên kịp thời tham mưu UBND tỉnh ban hành các kế hoạch triển
khai: công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; các Chương trình, Đề án về phổ
biến, giáo dục pháp luật; các Bộ luật, Luật mới được Quốc hội thông qua và
tổ chức Ngày Pháp luật.
1.1.4. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với các lĩnh vực giáo dục
khác
1.1.4.1. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức, chính
trị tư tưởng
Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội thuộc hai lĩnh vực
khác nhau nhưng đều bao gồm hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, xử sự điều
chỉnh hành vi, thái độ của con người; chúng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, chịu sự thay đổi khi tồn tại xã hội thay đổi.
Cả hai hình thái ý thức xã hội này đều góp phần điều chỉnh các quan hệ
xã hội phù hợp với lợi ích, yêu cầu chung, phục vụ sự phát triển chung của xã
hội và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Pháp luật, bản thân nó bao hàm tính chủ quan, sự khái quát hóa quá
cao, dễ bị lạc hậu so với sự thay đổi của thực tiễn nên khó đi vào cuộc sống.
Ở nước ta, pháp luật là sản phẩm phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân,

11



thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, đó chính là sự kết tinh của ý
Đảng, lòng dân.
Vì vậy, tuân thủ pháp luật chính là tuân thủ, thượng tôn ý chí của nhân
dân, vì lợi ích của nhân dân. Hệ thống pháp luật nước ta đang trong quá trình
được xây dựng và hoàn thiện, nên cần có sự hỗ trợ từ các phương thức điều
chỉnh khác để giữ vững ổn định xã hội, ngăn chặn những hành vi đi ngược với
lợi ích chung của người dân.
Trong suốt chặng đường đấu tranh giữ vững độc lập dân tộc, phát triển
đất nước, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã luôn phát huy phẩm chất đạo đức cách
mạng, nắm vững và bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; lấy đó làm cơ sở để vạch ra mục tiêu, phương hướng trong hành
động. Đó là nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Những hạn chế về trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật; sự xuống cấp
về ý thức đạo đức cách mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên là nguyên
nhân dẫn đến các hành vi vi phạm trong chính đội ngũ cán bộ, đảng viên,
khiến cho dư luận xã hội bức xúc và lên án mạnh mẽ.
Để cán bộ, đảng viên nhận thức đúng và tự giác thực hiện tốt các yêu
cầu, nhiệm vụ; gương mẫu đi đầu trong chấp hành và thượng tôn pháp luật,
bảo vệ pháp chế, bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật; trong sạch về phẩm
chất, lối sống... thì giáo dục đạo đức cách mạng phải gắn chặt với giáo dục lý
tưởng cách mạng, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Có như vậy, sức mạnh của đạo đức cùng với sức mạnh của luật pháp mới phát
huy hiệu lực, hiệu quả; những quy phạm về đạo đức mới trở thành hệ thống
các quy tắc xử sự của cán bộ, đảng viên mang tính chuẩn mực, tiến bộ.
Theo đó, yêu cầu đặt ra trong giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng
viên phải bảo đảm đạt được các mục tiêu sau:
Một là, củng cố, bảo vệ những quan niệm, quan điểm, tư tưởng, chuẩn

12



mực hợp lý, tốt đẹp của đạo đức truyền thống và đạo đức tiến bộ; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Hai là, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên tuyệt đối trung thành
với sự nghiệp, lý tưởng cách mạng của Đảng. Trong từng việc làm cụ thể, mỗi
cán bộ, đảng viên phải góp phần giữ vững và tăng cường lòng tin của nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Ba là, nguyên tắc “lấy dân làm gốc” phải trở thành “kim chỉ nam”
trong quá trình thực thi chức trách, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên; mỗi
cán bộ, đảng viên phải lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu, thước đo hiệu
quả công tác của mình. Kết quả hoàn thành nhiệm vụ là thước đo trình độ giác
ngộ cách mạng, phẩm chất chính trị và năng lực công tác; đồng thời là tiêu chí
cơ bản để đánh giá kết quả giáo dục, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên.
Bốn là, đề cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trước Đảng, trước
nhân dân.
Năm là, cấp ủy, người đứng đầu trong các cơ quan, đơn vị phải nêu
gương sáng về đạo đức, lối sống, phong cách làm việc để cán bộ, đảng viên
noi theo. Trong từng việc làm cụ thể, mỗi cán bộ, đảng viênTại Đại hội XII,
Đảng ta nhấn mạnh: “Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng
xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”; “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng
cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và
đề cao đạo đức xã hội”. Mặt khác, trình độ dân trí của đất nước ta ngày càng
được nâng cao, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên phải có ý thức pháp luật và
được trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật mới đáp ứng yêu cầu giải quyết
công việc.
Giáo dục pháp luật là để hình thành trong họ ý thức tôn trọng pháp luật,


13


biết tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật một cách chủ động,
tích cực và đúng đắn, nhằm phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật trong
công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, cần kết
hợp chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật, tăng cường kỷ luật, kỷ cương với giáo
dục đạo đức cách mạng để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự có đủ
tâm, đủ tầm, bản lĩnh vững vàng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân [5,
tr.292].
1.1.4.2. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật và giáo dục tri thức kinh tế
Pháp luật và kinh tế là quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng. Trong mối quan hệ này, pháp luật có tính độc lập tương đối. Một mặt
pháp luật phụ thuộc vào kinh tế; mặt khác pháp luật lại có sự tác động trở lại
một cách mạnh mẽ đối với kinh tế. Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể
hiện ở chỗ: Cơ cấu nền kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định thành phần cơ cấu
các ngành luật.
Tính chất nội dung của các quan hệ kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết
định tính chất, nội dung của quan hệ pháp luật, phương pháp điều chỉnh của
pháp luật. Chế độ kinh tế, thành phần kinh tế tác động quyết định tới sự hình
thành, tồn tại các cơ quan, tổ chức và thể chế pháp lý, phương thức hoạt động
của các cơ quan bảo vệ pháp luật và thủ tục pháp lý. Mặt khác pháp luật cũng
có sự tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế.
Để khắc phục nhược điểm đó, các nhà nước tư sản đã nhiều lần phải
điều chỉnh, phải thay đổi đường lối để đảm bảo cho pháp luật có thể thích ứng
được với tình hình.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và
đông đảo nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, phản ánh
đúng đắn trình độ phát triển của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cho nên
pháp luật xã hội chủ nghĩa có nội dung tiến bộ và giữ vai trò tích cực trong


14


việc tác động tới quá trình phát triển kinh tế xã hội [16, tr.34].
1.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
1.2.1. Quan điểm phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số
1.2.1.1. Quan điểm của đồng bào dân tộc thiểu số
Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số.
Mặc dù quyền của người thiểu số đã được luật quốc tế khẳng định và được
ghi nhận tại Điều 27 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và
trong Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân
tộc, chủng tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ năm 1992. "Dân tộc thiểu số là thuật
ngữ ám chỉ cho một nhóm người cư trú trên lãnh thổ của một quốc gia có chủ
quyền mà họ là công dân của quốc gia này; Duy trì mối quan hệ lâu dài với
quốc gia mà họ đang sinh sống; thể hiện bản sắc riêng về chủng tộc, văn hóa,
tôn giáo và ngôn ngữ của họ; đủ tư cách đại diện cho nhóm dân tộc của họ,
mặc dù số lượng ít hơn trong quốc gia này hay tại một khu vực của quốc gia
này; có mối quan tâm đến vấn đề bảo tồn bản sắc chung của họ, bao gồm cả
yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo và ngôn ngữ của họ. Nghị định
05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân tộc, tại Khoản 2, Điều 4
“Dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên
phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, hiện
nay ở Việt Nam có 54 dân tộc anh em thì ngoài dân tộc Kinh là dân tộc chiếm
đa số thì 53 dân tộc còn lại đều là dân tộc thiểu số.
1.2.1.2. Đặc điểm phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục trính
trị, tư tưởng, nhằn truyền đạt thông tin, nội dung pháp luật giúp đối tượng

được tác động có những hiểu biết nhất định về pháp luật góp phần nâng cao ý

15


thức pháp luật và chấp hành pháp luật nhất là đối tượng người đồng bào
DTTS.
Hiện nay đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số,
vùng khó khăn được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm; kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội được tăng cường đầu tư; lĩnh vực giáo dục và đào tạo đạt được
nhiều kết quả tích cực; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng tốt
hơn; bản sắc văn hóa các dân tộc được quan tâm bảo tồn và phát triển, quốc
phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; đồng bào dân tộc thiểu
số được tuyên truyền, quán triệt, tiếp cận nhiều hơn với thông tin, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, trình độ dân trí được nâng nên.
Tuy nhiên hiện tại và trong thời gian tới, tại các vùng dân tộc miền núi
đang và sẽ có nhiều vấn đề cần quan tâm. Đó là, các cấp ủy, Đảng chưa quan
tâm kịp thời, thực hiện các quy định của pháp luật nhiều nơi hiệu quả còn
thấp, giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện của người dân còn chậm, gây nhiều
bức xúc, trình độ cán bộ người dân tộc thiểu số còn hạn chế.
Sự biến đổi khí hậu và những tàn phá thiên nhiên nhiều năm qua đã làm
cho môi trường sản xuất, sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều
rủi ro, bất trắc khó lường như mưa lũ, lở đất, mất nhà, mất ruộng, hư hỏng
đường sá, cầu cống, hoặc tình trạng môi trường nước, đất, không khí xuống
cấp do các khu công nghiệp trên địa bàn gây ra. Việc sản xuất lâm nghiệp,
trồng trọt, chăn nuôi còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa tiếp cận được thị trường,
đáp ứng nhu cầu sản phẩm sạch, chất lượng cao nên hiệu quả kinh tế còn hạn
chế. Sự chênh lệch giàu nghèo tiếp tục phân hóa, tệ nạn trong cộng đồng chưa
giảm. Nhiều hủ tục còn tiếp tục duy trì như: tảo hôn, hôn nhân cận huyết, ma
chay, cưới hỏi theo lối cũ… Tình trạng tội phạm tiếp tục tăng lên và đa dạng

hơn [22, tr.136].
Công tác giáo dục pháp luật còn gặp rất nhiều khó khăn và thách thức,

16


yêu cầu đặt ra là phải tăng cường giáo dục pháp luật, đưa các chính sách dân
tộc, chính sách xóa đói, giảm nghèo đến với vùng đồng bào dân tộc miền núi
và duy trì phát triển kinh tế - xã hội ổn định, bền vững. Cần thu hút đội ngũ
người già làng, trưởng bản, tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của họ trong việc phổ
biến, GDPL là rất cần thiết như Đại hội IX của Đảng đã xác định: “Động viên
phát huy vai trò của những người tiêu biểu có uy tín trong dân tộc ở địa
phương” [10, tr28].
1.2.2. Những yêu cầu của công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số
Trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật V.I. Lê-Nin đã nhấn
mạnh: “Luật là biện pháp chính trị, là chính trị”. Muốn pháp luật được
chuyển tải, thấm nhuần vào đời sống nhân dân thì phải nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật [36, tr. 423].
Công tác tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS và miền núi giúp
đồng bào nâng cao nhận thức về các chính sách, pháp luật của Nhà nước liên
quan trực tiếp đến đời sống của đồng bào. Tuyên truyền, vận động đồng bào
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về công tác dân tộc, bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, di
sản văn hóa của các DTTS, vận động xóa bỏ các hủ tục lạc hậu.
Để thực hiện các chủ trương, chính sách trên cần phải kết hợp, lồng
ghép với các chương trình, đề án có nội dung về PBGDPL đang triển khai tại
vùng DTTS và miền núi. Lựa chọn xây dựng mô hình điểm ở các xã, thôn,
bản vùng sâu, vùng xa, biên giới. Thực hiện việc tuyên truyền, PBGDPL bằng
nhiều hình thức, trên các phương tiện thông tin đại chúng, chú trọng tập trung

bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ PBGDPL cho các báo cáo viên,
những người làm công tác dân tộc. Tổ chức nghiên cứu và xây dựng bộ tài
liệu chương trình khung về nội dung, kỹ năng, nghiệp vụ PBGDPL để tuyên

17


truyền vận động. Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức,
viên chức và đội ngũ những người trực tiếp được giao thực hiện nhiệm vụ
công tác này trong hệ thống cơ quan công tác dân tộc. Biên soạn sổ tay hỏi
đáp pháp luật, tình huống pháp luật; tổ chức các hội nghị tuyên truyền
PBGDPL điểm tại địa phương. Nhằm triển khai công tác PBGDPL có hiệu
quả, cần có những biện pháp và lộ trình hằng năm cho công tác này, lồng
ghép các chương trình, đề án có nội dung tương tự để thực hiện. Huy động
các nguồn lực xã hội khác cho hoạt động PBGDPL.
1.2.3. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số
1.2.3.1. Sự cần thiết của phổ biến, giáo dục pháp luật
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật luôn giữ vị trí quan trọng trong
đời sống xã hội. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, công tác này càng có vai
trò quan trọng về nhiều mặt. Chính vì vậy, sau khi Đảng ta đề ra chủ trương
đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật ngày càng được quan tâm và được coi là nhiệm vụ quan trọng góp phần
nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân
dân.
Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp và hiện
nay là Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 ra đời tiếp tục khẳng

định chức năng giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật trong phạm vi cả nước của Bộ Tư pháp. Với vị trí,
vai trò ngày càng quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, ngày
09/12/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW

18


về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Chỉ thị khẳng
định phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của các
cơ quan Đảng, chính quyền, Nhà nước và cả hệ thống chính trị; coi công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg
ngày 16/12/2004 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo
dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở
xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010 (Chương trình 212) và Quyết
định số 28/2006/QĐ-TTg ngày 28/01/2006 phê duyệt 4 Đề án chi tiết thuộc
Chương trình 212. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 63/2005/TT-BTC
ngày 05/8/2005 hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thể hiện sự quan tâm, tạo điều kiện của
Nhà nước về cơ sở vật chất cho công tác PBGDPL. Ngày 07/12/2007, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP về việc tiếp tục thực hiện Chỉ
thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (gọi tắt là Nghị quyết số
61/2007/NQ-CP). Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
37/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ
năm 2008 đến năm 2012.
Tại Điều 16 của Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Những quy định này của Hiến pháp phải

được thể chế hóa bằng các luật và được thi hành, đây cũng là niềm tin của
mọi người dân vào Hiến pháp và pháp luật. Vấn đề là làm thế nào để gây
dựng và nuôi dưỡng niềm tin pháp luật. Có lẽ không thể chỉ dựa vào hy vọng,
vào sự yên tâm về lòng tốt của người khác. Sự tin cậy cần được bảo vệ bởi
luật pháp [28, tr.27].

19


1.2.3.2. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật đối với đồng bào DTTS
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải phù hợp với các chủ
trương, chính sách lớn của Đảng và các luật tục của đồng bào DTTS. Nội dung
cần tập trung vào vào những văn bản pháp luật gắn liến với cuộc sống của
người dân, phù hợp với các chủ trương, chính sách của Nhà nước, lấy tiêu chí
đặc điểm địa bàn và đối tượng làm cơ sở để xây dựng và triển khai kế hoạch
PBGDPL, gắn công tác PBGDPL với thực tiễn chấp hành pháp luật. Tuỳ theo
yêu cầu của từng giai đoạn cụ thể, căn cứ vào tình hình thực tế cần triển khai
các văn bản liên quan đến cuộc sống hàng ngày của đồng bào như: các quy
định pháp luật về dân sự, về quyền dân chủ của công dân về Luật Khiếu nại, tố
cáo; về an ninh, trật tự như: Luật Giao thông đường bộ, Luật Biên giới quốc
gia, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Xử lý vi phạm hành chính...
Công tác PBGDPL được phân theo từng giai đoạn cụ thể, căn cứ vào
nhu cầu thực tế của từng địa phương để tuyên truyền phổ biến các văn bản
phù hợp, tác động liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân. Đồng thời
Phòng tư pháp các huyện là cơ quan Thường trực Hội đồng phối hợp
PBGDPL huyện là cánh tay nối dài đã chủ động xây dựng kế hoạch PBGDPL
hàng tháng, quý, năm phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn xác định từng
nhóm đối tượng cụ thể.
Trước hết là PBGDPL cho cán bộ công chức, viên chức nhà nước và
cán bộ công chức cơ sở. Đây là nhóm đối tượng hàng ngyaf trwci tiếp giải

quyết các công việc thuộc bộ máy nhà nước, các quyền ,lợi ích của nhân dân.
Do đó, cần phải phổ biến các văn bản pháp luật về cán bộ công chức như:
Hiến pháp năm 2013, luật Cán bộ công chức, luật phòng chông tham nhũng,
luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí, luật tổ chức HĐND và UBND, bộ
luật Hình sự, Dân sự, Hôn nhân và gia đình, luật Đất đai, luật Khiếu nại, luật
Tố cáo, luật xử lý vi phạm hành chính... Bên cạnh đó, tùy theo yêu cầu của
từng ngành, đơn vị mà phổ biến, giáo dục các nội dung văn bản liên quan đến

20


×