Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

luận văn thạc sĩ Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học ở tỉnh Tiền Giang.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.66 KB, 112 trang )

kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức
cho học sinh phổ thông trung học
ở tỉnh tiền giang
H NI - 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH PHỔ
THÔNG TRUNG HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và tính tất yếu kết hợp giáo
dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông
trung học ở Việt Nam hiện nay 7
1.2. Chủ thể, nội dung, hình thức và phương pháp kết hợp giáo dục
pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung
học ở Việt Nam hiện nay 28
1.3. Yêu cầu đối với việc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo
đức cho học sinh phổ thông trung học ở Việt Nam hiện nay 41
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KẾT HỢP GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
PHỔ THÔNG TRUNG HỌC Ở TỈNH TIỀN GIANG TỪ
NĂM HỌC 2003 -2004 ĐẾN NĂM HỌC 2007-2008
48
2.1. Thực trạng kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho
học sinh phổ thông trung học ở tỉnh Tiền Giang từ năm học
2003 - 2004 đến năm học 2007 - 2008 48
2.2. Một số nhận xét, đánh giá chung 79
2.3. Giải pháp kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho
học sinh phổ thông trung học ở tỉnh Tiền Giang hiện nay 83


KẾT LUẬN
104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
107
PHỤ LỤC
112
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. GDCD Giáo dục công dân
2. GDPL Giáo dục pháp luật
3. GDĐĐ Giáo dục đạo đức
4. GVCN Giáo viên chủ nhiệm
5. PTTH Phổ thông trung học
6. XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tỷ lệ duy trì sĩ số qua các năm học 48
Bảng 2.2: Tỷ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm qua các năm 49
Bảng 2.3: Tỷ lệ học sinh xếp loại học lực qua các năm học 50
Bảng 2.4: Vi phạm pháp luật hình sự trong học sinh PTTH 53
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển sang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh cuộc vận động toàn dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật,
việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật (GDPL) đã trở nên cần thiết
và cấp bách hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, pháp luật dù hoàn thiện đến đâu cũng
không thể điều chỉnh hết mọi quan hệ xã hội. Do đó, ý thức tự giác chấp hành
pháp luật của mỗi người dựa trên lòng tự trọng, danh dự, phẩm giá, lương tâm
- biểu hiện tập trung của một nhân cách đạo đức là những yếu tố điều chỉnh xã
hội không gì có thể thay thế được. Vì vậy mà GDPL và giáo dục đạo đức
(GDĐĐ) phải song hành đồng thời phải có sự kết hợp với nhau là vấn đề hết
sức cần thiết trong tổ chức quản lý xã hội cũng như trong hoạt động giáo dục.

Học sinh nói chung, học sinh phổ thông trung học (PTTH) nói riêng là
lứa tuổi đang hình thành và phát triển nhân cách. Nếu được giáo dục đúng
hướng các em sẽ hình thành và phát triển những phẩm chất tích cực; ngược lại
sẽ trở nên dị dạng và méo mó về nhân cách. Ngày nay, trên cơ sở coi trọng
giáo dục kiến thức văn hóa, việc GDĐĐ, giáo dục ý thức công dân thông qua
GDPL và GDĐĐ ở trường phổ thông chính là một trong những phương thức
cơ bản nhằm đạt được mục tiêu và nhiệm vụ đào tạo của Đảng và Nhà nước.
Kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh ở các trường phổ thông là một
trong những nội dung quan trọng trong chương trình giáo dục ở Việt Nam.
Cùng với những kiến thức văn hóa trên các lĩnh vực, những hiểu biết cơ bản
về pháp luật và các giá trị đạo đức mà các em được lĩnh hội trong quá trình
học tập, tu dưỡng là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo sự phát
triển toàn diện của thế hệ công dân tương lai của đất nước, là hành trang để
thế hệ trẻ bước vào đời.
Những năm qua, cùng với việc tuyên truyền, GDPL gắn với cuộc vận
động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” cho mọi tầng
lớp nhân dân, việc GDPL kết hợp với GDĐĐ trong các trường phổ thông
cũng được quan tâm đổi mới cả về nội dung, hình thức, phương pháp, làm
cho hoạt động này có sự chuyển biến đáng kể về chất. Tuy nhiên, có một
thời gian khá dài, giáo dục chỉ mới chú trọng truyền thụ cho thế hệ trẻ
những kiến thức khoa học. Sự thiếu đồng bộ trong công tác giáo dục -
“thiên về dạy chữ, nhẹ về dạy người” đã dẫn đến hậu quả là tình trạng
xuống cấp về đạo đức, vi phạm pháp luật, tội phạm ở lớp trẻ xảy ra nghiêm
trọng, chiếm tỷ lệ cao trong tổng số người phạm pháp và đang có xu hướng
gia tăng. Do đó, trong tình hình hiện nay, kết hợp GDPL và GDĐĐ cho
người chưa thành niên nói chung, cho học sinh nói riêng được đặt ra như một
tất yếu khách quan.
Ở Tiền Giang những năm gần đây, GDPL cho học sinh nói chung, học
sinh PTTH nói riêng đã được quan tâm và tiến hành song song, kết hợp với
GDĐĐ và huy động được sự tham gia của nhiều lực lượng XH. Tuy nhiên, vì

nhiều lý do khác nhau, việc giáo dục ý thức pháp luật, ý thức đạo đức cho học
sinh chưa được chú trọng đúng mức; sự liên kết giữa gia đình, nhà trường và
xã hội trong giáo dục chưa chặt chẽ; tình trạng học sinh vi phạm nội quy, kỷ
luật trường học - một biểu hiện của vi phạm đạo đức có xu hướng gia tăng,
nhất là một bộ phận học sinh đã vi phạm pháp luật với tính chất ngày càng
phức tạp.
Thực trạng trên đã đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cả về lý luận và thực
tiễn đòi hỏi phải nghiên cứu, giải quyết. Tuy nhiên, có thể khẳng định cho
đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống
những vấn đề lý luận về kết hợp GDPL và GDĐĐ cho đối tượng học sinh,
tạo cơ sở khoa học để vận dụng vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn
trong công tác giáo dục. Đây cũng là lý do tác giả chọn đề tài: “Kết hợp
giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung
học ở tỉnh Tiền Giang” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kết hợp GDPL và GDĐĐ nói chung và cho các đối tượng giáo dục cụ
thể là một vấn đề tuy không mới nhưng luôn mang tính thời sự nên được
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu
về GDPL và GDĐĐ dưới nhiều góc độ khác nhau.
- Nhóm đề tài nghiên cứu về sự khác biệt và tương đồng giữa đạo đức
và pháp luật cũng như sự tác động qua lại giữa chúng khi điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Ở góc độ này có một số công trình nghiên cứu sau:
Hoàng Thị Kim Quế (chủ nhiệm- 2002), Mối quan hệ giữa pháp luật
và đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ.
Nguyễn Thúy Hoa (2005), Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý
nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật, Học viện chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, cũng nghiên cứu về vấn đề trên nhưng trong phạm vi tư
tưởng Hồ Chí Minh có các công trình khoa học sau:
Lương Hồng Quang (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp

luật và đạo đức trong quản lý xã hội, Luật văn thạc sĩ luật, Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Hoàng Thị Kim Quế (2002), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp
luật và đạo đức, Tạp chí nghiên cứu lập pháp.
Trần Nghị (2004), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật.
- Nhóm đề tài nghiên cứu về GDPL dưới góc độ khái quát chung và
cho từng đối tượng cụ thể gồm có các công trình sau:
Trần Văn Trầm (2002), Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên
địa bàn tỉnh Bình Định- Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ luật, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguyễn Đình Đặng Lục (2005), Vai trò của pháp luật trong quá trình
hình thành nhân cách, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Nguyễn Đình Đặng Lục (2008), Giáo dục pháp luật trong nhà trường,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Trần Thị Sáu (2008), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục pháp luật, Tạp chí nghiên cứu lập pháp.
- Nhóm đề tài nghiên cứu về GDĐĐ cho đối tượng cụ thể dưới góc độ
triết học gồm có:
Trần Minh Đoàn (2001), Giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Thanh Hà (2007), Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
với việc xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận văn
thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nhóm công trình nghiên cứu về vấn đề GDĐĐ nói chung và GDĐĐ
cho học sinh nói riêng được thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm có:
Đỗ Thắng (2003), Phương châm, phương pháp giáo dục thế hệ trẻ
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí giáo dục.
Võ Văn Nam (2004), Suy nghĩ từ những lời dạy của Bác đối với việc

trồng người, Tạp chí giáo dục.
Nguyễn Đức Hòa (2008), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác giáo dục
đạo đức học sinh trong nhà trường phổ thông, Tạp chí triết học.
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên là nguồn tư liệu quý báu và
quan trọng để tác giả tham khảo, định hướng cho việc nghiên cứu đề tài của
mình. Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu
việc kết họp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang như đề tài
tác giả đã lựa chọn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn về kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH làm cơ sở đề xuất và
luận chứng các giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn công tác này.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn không đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý
luận về GDPL, GDĐĐ mà chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về kết
hợp GDPL và GDĐĐ và thực tiễn kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở
tỉnh Tiền Giang từ năm học 2003 - 2004 đến năm học 2007- 2008.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về kết hợp GDPL và GDĐĐ
cho học sinh PTTH, đánh giá thực trạng và luận chứng các giải pháp kết hợp
có hiệu quả GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang.
Phù hợp với mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về GDPL và GDĐĐ; kết hợp
GDPL và GDĐĐ; phân tích tính tất yếu kết hợp GDPL và GDĐĐ; làm rõ về
mặt chủ thể, nội dung, hình thức, phương pháp và yêu cầu kết hợp GDPL và
GDĐĐ cho học sinh PTTH ở Việt Nam hiện nay.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học
sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang để rút ra những ưu, nhược điểm cũng như tìm ra
nguyên nhân dẫn đến hạn chế của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn công tác này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

- Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức; quan điểm, chủ trương của
Đảng về GDPL, GDĐĐ mới và những tri thức lý luận của các bộ môn khoa
học chuyên ngành khác liên quan như đạo đức học, tâm lý học, giáo dục học.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, chủ yếu sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các
phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp thống kê, điều
tra xã hội học. Hệ thống các phương pháp trên được sử dụng cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để giải quyết nhiệm vụ đặt
ra ở cả hai chương, trong đó Chương 1 chủ yếu vận dụng phương pháp phân
tích và tổng hợp; ở Chương 2, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn,
phương pháp lịch sử cụ thể là phương pháp được sử dụng chủ yếu để đảm bảo
đánh giá thực trạng một cách khách quan và toàn diện.
Ngoài ra, các phương pháp thống kê, điều tra xã hội học (phiếu điều
tra, phỏng vấn trực tiếp) cũng được sử dụng để làm nổi bật vấn đề nghiên cứu,
đảm bảo sự gắn kết và tính liên thông của toàn bộ nội dung luận văn.
6. Đóng góp mới của luận văn
Từ kết quả đạt được, luận văn có những điểm mới về mặt khoa học sau:
- Luận văn lần đầu tiên đưa ra những luận cứ khoa học để làm sáng tỏ
một cách hệ thống vấn đề kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở
Việt Nam hiện nay. Những kết quả nghiên cứu của đề tài là những bổ sung
vào lý luận pháp luật vấn đề kết hợp GDPL và GDĐĐ trong quản lý xã hội
nói chung, trong hoạt động giáo dục nói riêng, góp phần nâng cao nhận thức
lý luận về ý nghĩa, vai trò của sự kết hợp đó.
- Phân tích làm rõ những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những hạn
chế trong kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở Tiền Giang.
- Đề xuất và luận chứng một cách đồng bộ các giải pháp kết hợp có

hiệu quả GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG TRUNG HỌC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NGUYÊN TẮC VÀ TÍNH TẤT YẾU KẾT
HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH PHỔ
THÔNG TRUNG HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1.1. Khái quát những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật và giáo
dục đạo đức
1.1.1.1. Về giáo dục pháp luật
- Khái niệm giáo dục pháp luật
Khi pháp luật ra đời thì đồng thời cũng phát sinh nhu cầu GDPL.
GDPL với tư cách là một hoạt động xã hội đã xuất hiện từ rất sớm. Ở Việt
Nam cho đến nay những vấn đề lý luận về GDPL nói chung và khái niệm
GDPL nói riêng vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy, khái niệm GDPL được tiếp
cận từ khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm với nghĩa rộng và hẹp
khác nhau. Tuy nhiên, dù tiếp cận theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, GDPL vẫn
luôn là một hoạt động mang đầy đủ những tính chất chung của giáo dục, song
nó có đặc điểm riêng về mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp và chủ
thể. Trong khoa học pháp lý, GDPL được hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm
giáo dục, theo đó, giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức,
có mục đích tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức
pháp luật, tình cảm và hành vi xử sự phù hợp với pháp luật hiện hành.
- Môc ®Ých cña giáo dục pháp luật
Cũng như các dạng hoạt động giáo dục khác, GDPL có mục đích riêng

của nó. Việc xác định đúng mục đích GDPL có ý nghĩa quan trọng vì trong đa
số các trường hợp, nội dung, hình thức, phương pháp GDPL phụ thuộc vào
mục đích của nó.
+ Mục đích nhận thức: GDPL góp phần hình thành, làm sâu sắc và
từng bước mở rộng tri thức pháp luật của công dân. Tri thức pháp luật có
vai trò quan trọng đối với việc hình thành tình cảm, lòng tin và thái độ
đúng đắn đối với pháp luật. Tri thức pháp luật giúp con người đánh giá,
kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp luật. Mục đích này đặc
biệt quan trọng trong điều kiện nước ta hiện nay, khi hiểu biết pháp luật
của công dân còn thấp, nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa
đầy đủ. Đây cũng là yêu cầu của việc hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội
bằng pháp luật, xây dựng một xã hội văn minh, công bằng, dân chủ, bình
đẳng, kỷ cương và trật tự. “Tăng cường giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu
biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật, bảo đảm pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh, thống nhất,
công bằng” [14, tr.50].
+ Mục đích cảm xúc: GDPL nhằm hình thành tình cảm, lòng tin và
thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Có tri thức pháp luật mà không có tình
cảm, sự tôn trọng và lòng tin đối với pháp luật thì con người rất dễ hành động
lệch khỏi chuẩn mực pháp luật. Ngược lại, lòng tin càng vững vàng thì hành
vi càng có khả năng đúng đắn, hợp pháp. Như vậy, tình cảm, thái độ đúng đắn
đối với pháp luật bao giờ cũng là sự biểu hiện và là thước đo lòng tin vào
pháp luật của mỗi người. Lòng tin vào tính công bằng của pháp luật sẽ hướng
dẫn hành vi hợp pháp. Nội hàm của mục đích cảm xúc là giáo dục tình cảm
công bằng, ý thức trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật ở mọi lúc, mọi nơi;
phê phán, lên án những biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi vi phạm
pháp luật đồng thời ủng hộ và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của
pháp luật.
+ Mục đích hành vi: GDPL hình thành động cơ, hành vi và thói quen
xử sự theo pháp luật. Có thể nói kết quả cuối cùng mà hoạt động GDPL

hướng tới là thói quen xử sự theo pháp luật. Thiếu mục đích này thì hoạt động
GDPL trở nên vô nghĩa. Có nhiều yếu tố tác động để hình thành hành vi của
con người nhưng có thể nói GDPL là con đường cơ bản. Hoạt động này sẽ
cung cấp những tri thức pháp luật, giáo dục lòng tin sâu sắc, dẫn đến việc tuân
theo pháp luật một cách tự nguyện. Đó là yếu tố quan trọng để hình thành
động cơ và hành vi hợp pháp. Để đạt được điều này, quá trình GDPL phải sử
dụng nhiều hình thức, phương pháp, phải kiên trì và thường xuyên.
Việc phân chia các mục đích GDPL như trên chỉ mang tính tương đối
vì giữa chúng có mối quan hệ kế tiếp, đan xen qua lại và thống nhất chặt chẽ
với nhau. Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác; từ tính tự giác đến tính tích
cực; từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. Ngược lại, khi có thói
quen xử sự theo pháp luật thì lòng tin, tình cảm pháp luật càng được củng cố.
Do đó khi tiến hành GDPL phải hướng vào cả ba mục đích trên.
Việc xác định mục đích GDPL có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận
lẫn thực tiễn GDPL bởi việc xác định đúng tạo điều kiện đảm bảo chất lượng
tương ứng của hoạt động này.
- Vai trò của giáo dục pháp luật
+ Để phát huy vai trò của pháp luật trên thực tế, tạo lập mối quan hệ
hài hòa giữa nhà nước và công dân, quyền dân chủ và tự do của công dân
được tôn trọng và thực thi, bộ máy nhà nước được tổ chức và vận hành có
hiệu quả thì điều kiện tiên quyết là phải có sự hiện diện của pháp luật ở mọi
nơi; văn hóa pháp lý của công dân được nâng cao, nghĩa là phải tiến hành
GDPL. GDPL là cầu nối quan trọng để đưa pháp luật vào đời sống bởi nếu
pháp luật được ban hành dù tốt đến đâu chăng nữa nhưng nếu không được
triển khai thực hiện tới mọi người dân thông qua GDPL thì không thể phát
huy được hiệu lực, hiệu quả.
+ Nếu pháp luật là phương tiện chủ yếu nhà nước sử dụng để quản lý
xã hội, phương tiện để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
thì GDPL có vai trò quan trọng trong việc trợ giúp các cơ quan, cán bộ công
chức và mọi công dân biết cách sử dụng đúng đắn pháp luật trong công việc

cũng như trong cuộc sống hằng ngày. GDPL làm cho mỗi người ý thức sâu
sắc quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình.
+ Cùng với giáo dục chính trị, tư tưởng, GDĐĐ, GDPL tạo ra những
khả năng và nhân tố thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước, thông qua việc củng cố ở những người làm công tác quản lý, ở mọi
công dân những phẩm chất tích cực trong ý thức cũng như hành vi pháp lý,
tạo ra ở họ khả năng phản ứng và không đồng tình, không tiếp nhận các hành
vi tiêu cực, chống đối pháp luật. Vì vậy, trong quá trình cải cách bộ máy nhà
nước, xây dựng nhà nước pháp quyền thì GDPL càng có ý nghĩa quan trọng.
+ GDPL chính là tăng cường khả năng tự bảo vệ của chủ thể
trước những tác động bất thường của cuộc sống. Sự hiểu biết sâu về
pháp luật là nhân tố đặc biệt quan trọng, giúp cho chủ thể nhân cách tự
ý thức được trách nhiệm pháp lý đối với hành vi của mình…Qua đó,
tạo cho chủ thể khả năng kiềm chế cao, biết lựa chọn phương thức ứng
xử thích hợp trước mọi tình huống xảy ra và tránh cho chủ thể nhân
cách bị rơi vào hoàn cảnh phạm tội không tự giác [28, tr.42- 43].
+ Đối với thế hệ trẻ, GDPL được tiến hành sớm sẽ giúp họ có những
nhận thức cơ bản về pháp luật, nâng cao khả năng tư duy pháp lý, tránh được
hành động bột phát, gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. GDPL cho học sinh là
biện pháp tích cực để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật ở
người chưa thành niên. GDPL được tiến hành thường xuyên, sâu rộng là yếu
tố quan trọng góp phần hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
1.1.1.2. Về giáo dục đạo đức
- Khái niệm giáo dục đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống những quan
niệm về cái thiện, cái ác; cái tốt, cái xấu; về lương tâm, trách nhiệm; hạnh
phúc, lẽ sống; sự công bằng…và những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi,
ứng xử trong quan hệ giữa con người với nhau và với xã hội. Các chuẩn mực
và quy tắc đó được hình thành khách quan do nhu cầu cuộc sống và sự phát
triển của xã hội.

Đạo đức trong mỗi con người không phải tự nhiên có được mà hình
thành trên cơ sở tiếp nhận các chuẩn mực đạo đức từ xã hội và thông qua quá
trình tu dưỡng, rèn luyện của bản thân - tức thông qua con đường tự giáo dục.
Con người sinh ra không phải “bản tính thiện” hay “bản tính ác” mà như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Thiện ác phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Như vậy, có thể hiểu: Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục
đích đến đối tượng giáo dục nhằm giúp cho nhân cách mỗi người phát triển
đúng đắn, có hành vi ứng xử đúng mực trong mối quan hệ cá nhân với xã hội,
cá nhân với mọi người xung quanh và của cá nhân với chính mình.
- Mục đích của giáo dục đạo đức
+ Trước hết, GDĐĐ nhằm hình thành những hiểu biết về các giá trị,
chuẩn mực đạo đức và ý nghĩa của việc thực hiện các chuẩn mực đó. Sự hiểu
biết về các chuẩn mực đạo đức là sự nhận thức về thiện - ác, tốt - xấu, đúng -
sai, về cách ứng xử. Nếu thiếu những tri thức này con người sẽ không phân
biệt được đâu là tốt, xấu, đâu là thiện, ác…và vì vậy hành động của họ dễ dẫn
đến sai lầm, bởi lẽ người ta chỉ hành động đúng trong chừng mực hiểu biết
chính xác.
+ GDĐĐ góp phần hình thành tình cảm đạo đức như lòng yêu thương,
tôn trọng, niềm tin vào con người; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt; không đồng
tình với cái ác, cái sai, cái xấu…
Tình cảm đạo đức là một đặc trưng mang tính bản chất của con
người nói chung và nhân cách đạo đức nói riêng. Tình cảm đạo đức là một
bộ phận của hệ thống tình cảm chung của con người. Tình cảm đạo đức
biểu hiện ra như là những phản ứng có điều kiện của tình cảm con người
đối với những hiện tượng đạo đức. Người ta đồng tình, ngưỡng mộ trước
hành động mang tính thiện; tức giận, căm phẫn trước những hành vi độc
ác…Đó vừa là biểu hiện khả năng nhận thức, khả năng đánh giá hành vi
đạo đức, vừa là sự biểu hiện xu thế phát triển của nhân cách đạo đức theo

hướng tích cực ở mỗi chủ thể. Bồi dưỡng tình cảm đạo đức có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng nhân cách đạo đức, xây dựng
con người mới. “Nói rèn luyện con người trước hết là nói giáo dục lòng
nhân ái cho con người, vì lòng thương người là đạo lý cuộc sống, là đạo
lý làm người” [18, tr.29].
Trong tình cảm đạo đức, niềm tin là cơ sở quan trọng để xây dựng một
nhân cách đạo đức tốt. Niềm tin là động lực quan trọng để thúc đẩy và quy
định hành động của mỗi người vì niềm tin là cơ sở đem lại cho chúng ta một
nhận thức, một tâm trạng tốt xấu, thiện, ác…trước khi hành động. Khi có
niềm tin trong sáng, con người hoạt động tích cực, hướng thiện hơn, tin tưởng
vào quyết định cho mỗi hành vi mà mình thực hiện. Niềm tin là điều mà nhân
cách đạo đức cần phải có để thực hiện một hành vi đạo đức.
+ GDĐĐ giúp con người biết lựa chọn và thực hiện hành vi ứng xử phù
hợp với các chuẩn mực đạo đức trong những tình huống cụ thể của cuộc sống.
Đạo đức khi đã trở thành chuẩn mực xã hội và quy tắc xử sự
chung, thông qua giáo dục, dư luận xã hội và niềm tin nội tâm, nó sẽ
điều chỉnh hành vi con người cho phù hợp với lợi ích của cộng
đồng, của xã hội. Sự điều chỉnh này nhiều khi còn mạnh mẽ và hiệu
quả hơn các phương tiện quản lý khác [44, tr.10].
Có thể nói kết quả cuối cùng mà hoạt động GDĐĐ hướng tới là thói
quen xử sự theo các chuẩn mực đạo đức đã được cộng đồng thừa nhận. Xét
đến cùng, các mục đích trên đều nhằm phục vụ cho mục đích hành vi. Thiếu
mục đích này thì hoạt động giáo dục, rèn luyện đạo đức trở nên vô nghĩa.
- Vai trò của giáo dục đạo đức
Hiện nay, GDĐĐ được nhiều nước coi là khâu quan trọng nhất tạo ra
bộ mặt nhân cách của thế hệ trẻ nói riêng, của con người thời kỳ văn minh
hậu công nghiệp nói chung. GDĐĐ là yếu tố cơ bản tạo ra tâm lực của cá
nhân và cùng với các quá trình giáo dục khác khai thác nguồn lực con người -
tài nguyên vô tận vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Có
thể đề cập vai trò cụ thể của GDĐĐ như sau:

+ GDĐĐ có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách, lối
sống. Đạo đức là những chuẩn mực để con người rèn luyện, tu dưỡng nhân
cách; là những quan điểm, quan niệm, tư tưởng về đạo lý làm người, là
“nguyên tắc sống chủ yếu của con người” [61, tr.13]. Không có đạo đức,
người ta vẫn có thể là một nhà chuyên môn giỏi nhưng không thể là một con
người hoàn hảo như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính
rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì
ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà
không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không
làm lợi gì cho loài người [34, tr.172].
Nhờ có đạo đức, mỗi người tự xác định được vị trí, vai trò của mình
trong xã hội để từ đó có những hành vi, xử sự cho phù hợp với những chuẩn
mực chung của xã hội, đảm bảo hài hòa lợi ích cá nhân trong mối quan hệ với
lợi ích của cộng đồng.
+ GDĐĐ còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố và duy trì, ổn
định xã hội. Xã hội nguyên thủy chưa có pháp luật, ở đó đạo đức là công cụ
quan trọng bậc nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội, giữ cho xã hội ổn định,
trật tự. Trong xã hội có giai cấp, để điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật
không phải là công cụ duy nhất, công cụ vạn năng. Ngoài pháp luật còn có
những công cụ điều chỉnh khác như đạo đức, tín điều tôn giáo, tập quán, quy
định của các tổ chức xã hội…trong đó đạo đức là công cụ quan trọng, thích
ứng được với việc điều chỉnh mọi quan hệ, mọi đối tượng trong xã hội. Đạo
đức điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội từ giản đơn đến phức tạp, nhạy
cảm, từ hẹp đến rộng, từ biểu hiện bằng hành vi cho đến những suy nghĩ, tư
tưởng lẩn khuất bên trong mỗi người…Đây là những quan hệ xã hội mà pháp
luật và các công cụ khác khó có thể can thiệp, thậm chí nhiều khi sự can thiệp
của pháp luật chỉ đem đến kết quả ngược lại.
+ GDĐĐ còn ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển tài năng. Tài
năng của con người muốn phát triển phải dựa trên sự phát triển của nhân cách

đạo đức. Không có được những phẩm chất, giá trị đạo đức làm nền tảng, tài
năng sẽ rất khó phát triển hoặc phát triển một cách méo mó, lệch lạc, thậm chí
còn có thể trở thành tội ác, phản đạo đức. Khi mỗi người có được nhân cách
đạo đức tốt, lối ứng xử đúng mực do GDĐĐ mang lại, thì đó là cơ sở cho tài
năng phát triển. Một người có lòng yêu nước thiết tha, có lý tưởng, ước mơ,
hoài bão lớn, sống hòa mình với mọi người, họ sẽ là người cần cù trong học
tập, nghiên cứu khoa học, hăng hái trong lao động, nhiệt tình trong công tác,
có nhiều đóng góp cho xã hội.
+ GDĐĐ còn có vai trò quan trọng trong trường hợp pháp luật chưa
hoàn thiện, còn nhiều chỗ trống. Bởi vì, nhờ có đạo đức, người ta sẽ biết kiềm
chế, không lợi dụng khe hở của pháp luật để thực hiện những hành vi vi phạm
pháp luật hoặc hành vi tuy chưa phải là trái pháp luật (vì chưa có luật điều
chỉnh) nhưng không phù hợp với những chuẩn mực đạo đức.
1.1.1.3. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức
Về lý luận cũng như thực tiễn, GDPL và GDĐĐ luôn có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Điều đó được quy định khách quan bởi mối quan hệ hữu
cơ giữa pháp luật và đạo đức. Trước khi nhà nước và pháp luật ra đời, xã hội
đã được điều chỉnh bằng các quy phạm đạo đức. Khi pháp luật trở thành
phương tiện chủ yếu để nhà nước quản lý xã hội, thì đạo đức vẫn giữ một vai
trò quan trọng và không thể thiếu trong điều chỉnh hành vi con người. Chỉ với
sự đảm bảo bằng quyền lực nhà nước thôi thì pháp luật khó đi vào cuộc sống.
Trước tiên không phải là cưỡng chế mà chính đạo đức và các quy phạm xã
hội khác giúp cho pháp luật không chỉ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh
mà còn được thực hiện một cách tự giác, tự nguyện. Nhưng pháp luật không
chỉ dựa vào đạo đức để đi vào đời sống xã hội, pháp luật còn là một trong
những phương tiện để nhà nước đưa các quan điểm, quan niệm đạo đức của
giai cấp thống trị thành các quy phạm đạo đức chính thống trong xã hội - tức
chuyển hóa các quy phạm đạo đức thành quy phạm pháp luật. Các quy phạm
pháp luật tiến bộ đều có sự phù hợp với đạo đức. Pháp luật càng phù hợp với
đạo đức thì hiệu quả điều chỉnh càng cao. Pháp luật tiến bộ luôn hướng con

người đấu tranh chống lại cái ác, vươn tới cái thiện. Nói cách khác, pháp luật
tiến bộ là hiện thân của đạo đức, bảo vệ đạo đức. Có thể nói, pháp luật là
phương tiện không thể thiếu được cho sự tồn tại bình thường của xã hội nói
chung và đạo đức nói riêng; bởi vì:
Pháp luật là một trong những biện pháp để khẳng định một
chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng
khó khẳng định bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng
bấy nhiêu. Vì vậy, không thể buông lỏng pháp luật nếu như việc này
chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội [1, tr.177].
Cả pháp luật và đạo đức đều góp phần bảo vệ các giá trị chân, thiện,
mỹ, đều liên quan đến hành vi và đụng chạm đến lợi ích của con người và xã
hội. Pháp luật buộc người ta hành động bằng áp lực từ bên ngoài, còn đạo đức
buộc người ta hành động bằng áp lực nội tâm, tức bằng lương tâm, sự giác
ngộ và thôi thúc từ bên trong. Hành vi con người đạt hiệu quả cao và bền
vững nếu nó phù hợp với động cơ nội tại bên trong. Sự khác biệt nhưng lại
thống nhất này là cơ sở để pháp luật và đạo đức bổ sung và hỗ trợ cho nhau.
Chính mối quan hệ này giải thích vì sao trong quản lý xã hội nói chung, trong
giáo dục nói riêng phải kết hợp chặt chẽ giữa GDPL với GDĐĐ.
Văn kiện Đại hội VIII đã khẳng định: “Tăng cường pháp chế, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp
luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức” [15, tr.45]. GDPL tạo ra
khả năng thiết lập những nguyên tắc đạo đức, củng cố tình cảm, nghĩa vụ đạo
đức cho mỗi người. GDĐĐ sẽ hình thành ở công dân sự tôn trọng sâu sắc đối
với pháp luật.
Đạo đức là tiền đề cần thiết, quan trọng cho việc hình thành nhân cách
con người. Nếu chỉ chú trọng pháp luật, không chú ý đạo đức thì các hiện
tượng vi phạm đạo đức sẽ diễn ra. Bởi lẽ, người ta có thể thực hiện đúng pháp
luật, nhưng vẫn có thể vi phạm về mặt đạo đức. Mặt khác, bản thân pháp luật
sẽ không có tác dụng nếu không có “gốc” đạo đức và tuân thủ pháp luật là
một giá trị đạo đức cơ bản, hàng đầu của mọi công dân.

Như vậy, giữa pháp luật và đạo đức có sự thống nhất về mục tiêu, sự hỗ
trợ, tác động đồng thuận, từ đó nâng cao được hiệu quả giáo dục chung, làm
cho việc thực hiện pháp luật trở nên tự giác, tức là đáp ứng những yêu cầu của
các chuẩn mực đạo đức. Sự thống nhất đó đòi hỏi sự tác động tổng hợp của cả
hai dạng giáo dục này để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau nhằm hình thành hành vi
không những hợp pháp mà còn hợp đạo đức.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc kết hợp giáo dục pháp luật
và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học
1.1.2.1. Khái niệm kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức
GDPL và GDĐĐ đều hướng con người đến việc thực hiện những hành
vi phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận trên cơ sở những tri
thức được lĩnh hội và tình cảm, niềm tin hình thành trong mỗi cá nhân. Tuy
nhiên, GDPL sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều nếu nó được tiến hành trong một
môi trường xã hội lành mạnh, với những con người trọng đạo lý, tình nghĩa.
Ngược lại, GDĐĐ cũng sẽ có hiệu quả hơn nếu nó được tiến hành trong một
tổ chức có trật tự, kỷ cương, với những con người có ý thức về các quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý, có sự hiểu biết về pháp luật. Kết hợp được
giữa GDPL và GDĐĐ do vậy sẽ nâng cao hơn rất nhiều hiệu quả giáo dục
chung đối với con người. Ở đây, sự kết hợp giữa GDPL và GDĐĐ được hiểu
là toàn bộ hoạt động thực tiễn được tiến hành theo nội dung, hình thức,
phương pháp và theo một cơ chế nhất định nhằm phát huy vai trò và trách
nhiệm của các chủ thể trong tác động hình thành ý thức pháp luật, nhân cách
đạo đức, hành vi, xử sự của con người, đáp ứng cao nhất yêu cầu của nhà
nước và đòi hỏi của xã hội.
1.1.2.2. Đặc điểm của kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo
đức cho học sinh phổ thông trung học
Theo quan niệm trên, kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH có
những đặc điểm chung và đặc điểm riêng sau:
- Thứ nhất: Đặc điểm chung của kết hợp GDPL và GDĐĐ
+ Kết hợp GDPL và GDĐĐ là hoạt động được tiến hành thường xuyên,

liên tục và lâu dài. Pháp luật và đạo đức không phải ngẫu nhiên có được mà
hình thành trên cơ sở đòi hỏi và nhu cầu của cuộc sống. Các chuẩn mực pháp
luật, đạo đức không phải là cố định, bất biến vì bên cạnh những chuẩn mực
tồn tại lâu dài, ổn định, vẫn có nhiều chuẩn mực biến đổi do tác động của điều
kiện kinh tế, xã hội. Trong khi đó, hoạt động của con người từ môi trường gia
đình đến môi trường xã hội đều chịu sự tác động của hai loại quy phạm có
tính phổ biến này. Do đó, nếu không có sự kết hợp GDPL và GDĐĐ một cách
thường xuyên, lâu dài thì việc thiếu hiểu biết, thiếu ý thức dễ dẫn con người
đến những hành vi lệch chuẩn.
+ Kết hợp GDPL và GDĐĐ là hoạt động do nhiều chủ thể tiến hành,
gồm chủ thể chuyên nghiệp và cả những chủ thể không chuyên nghiệp. Vì
vậy, đây là sự tác động nhiều chiều, trong đó mỗi chủ thể với vị trí, vai trò,
chuyên môn khác nhau có những hình thức, phương pháp, nội dung giáo dục
khác nhau nhưng đều hướng tới mục đích cuối cùng là định hướng hành vi
của đối tượng giáo dục theo những yêu cầu của pháp luật và các chuẩn mực
đạo đức xã hội.
+ Kết hợp GDPL và GDĐĐ diễn ra từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng.
Ở phạm vi hẹp là giáo dục gia đình, thông qua ứng xử, lối sống, tấm gương
của cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình. Ở phạm vi rộng là những
tác động giáo dục trong mỗi cơ quan, tổ chức, rộng hơn là tác động giáo dục
của toàn xã hội. Sự tác động đó có đặc trưng là luôn có mối liên hệ và sự hỗ
trợ, thống nhất với nhau. Nếu tác động giáo dục từ các loại hình giáo dục ấy
mâu thuẫn với nhau thì có thể dẫn đến triệt tiêu tính tích cực của chủ thể vốn
đã được hình thành từ trước đó. Điều này lý giải tại sao phần lớn trẻ vị thành
niên vi phạm pháp luật có nguyên nhân từ gia đình (cha mẹ vi phạm pháp
luật) trong khi ở trường các em được giáo dục toàn những điều hay lẽ phải.
Hiển nhiên, cũng không loại trừ trường hợp tác động tích cực của những quan
hệ ngoài phạm vi gia đình đã loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của quan hệ
gia đình trước đó. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả kết hợp GDPL và GDĐĐ
đòi hỏi phải có sự thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau giữa các môi trường.

- Thứ hai: Đặc điểm riêng của kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh
PTTH
Kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH là một bộ phận của kết
hợp GDPL và GDĐĐ cho toàn xã hội, do đó nó cũng mang những đặc điểm
chung của hoạt động này. Tuy nhiên, do những đặc trưng riêng về đối tượng
giáo dục nên kết hợp GDPL và GDĐĐ học sinh PTTH có đặc thù riêng sau:
+ Về mục đích: kết hợp GDPL và GDĐĐ không chỉ nhằm hình thành ở
học sinh những hiểu biết về pháp luật, các chuẩn mực đạo đức mà quan trọng
hơn những hiểu biết đó giúp các em hình thành thái độ đúng đắn, lối ứng xử
phù hợp với những quy tắc, chuẩn mực của xã hội trong quan hệ với trường
lớp, với gia đình và với cộng đồng, biết dung hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi
ích chung của tập thể, của xã hội.
+ Chủ thể kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh rất đa dạng, bao gồm:
nhà trường (các thầy cô giáo, tổ chức đoàn, các tổ chức khác trong trường
học); cha mẹ và các thành viên khác của gia đình; các ban, ngành, đoàn thể xã
hội. Mỗi chủ thể có vai trò, nhiệm vụ khác nhau khi tham gia vào quá trình
này, vừa thể hiện sự phân công rõ ràng vừa thể hiện sự phối hợp với nhau.
+ Đối tượng của kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH là các
em học sinh phần lớn trong độ tuổi từ 16 đến dưới 18 (đang học lớp 10 đến
lớp 12 các trường PTTH). Đây là lứa tuổi có nhiều biến đổi về tâm sinh lý
trong đó sự hiếu thắng, thích khám phá cái mới, thích làm theo thần tượng và
bốc đồng, dễ tổn thương là một trong những đặc điểm tâm lý nổi bật.
+ Học sinh PTTH là những người còn đang ngồi trên ghế nhà trường do
đó kết hợp GDPL và GDĐĐ chủ yếu được tiến hành song song với hoạt động
học tập văn hóa. Vì vậy, từ nội dung, hình thức cho đến phương pháp giáo
dục đòi hỏi phải có tính sư phạm. Tuy nhiên, khác với việc dạy và học các
môn khác, GDPL kết hợp với GDĐĐ không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ
kiến thức mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải được thể hiện thành tình
cảm, niềm tin, hành động thực tế của học sinh và quá trình đó không chỉ bó
hẹp trong những giờ lên lớp mà còn được thể hiện thông qua tất cả hoạt động

có thể có trong nhà trường và cả những hoạt động ngoài trường học.
1.1.2.3. Nguyên tắc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức
cho học sinh phổ thông trung học
Kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH được thực hiện trên cơ
sở những nguyên tắc sau:
- Thứ nhất: GDĐĐ là nền tảng, GDPL là trọng yếu: Đạo đức là “gốc”,
là cơ sở để hình thành nên một nhân cách tốt. Giáo dục con người muốn đạt
hiệu quả phải dựa trên cái “gốc” đạo đức và gắn liền với quá trình GDĐĐ.
Đối với học sinh, để các em trở thành những người vừa có tài vừa có đức, quá
trình giáo dục cũng phải dựa trên nền đạo đức và không thể thoát ly được quá
trình GDĐĐ. Nhưng đạo đức con người phải tuân thủ công lý nghĩa là phải
dựa trên cơ sở hệ chuẩn mực đúng, sai của pháp luật. Mặt khác, là công dân
của một xã hội được quản lý bằng pháp luật thì tuân thủ pháp luật phải là một
trong những tiêu chuẩn hàng đầu. Do đó GDPL phải là khâu trọng yếu hướng
con người đến hành động không những hợp đạo lý mà còn hợp pháp.
- Thứ hai: Trong GDĐĐ có GDPL, trong GDPL có GDĐĐ. Đạo đức
và pháp luật tuy có những điểm khác biệt nhau nhưng luôn có sự bổ sung, hỗ
trợ cho nhau tạo nên hiệu quả của việc điều chỉnh xã hội. Vì vậy, GDPL cũng
như GDĐĐ không thể tiến hành biệt lập mà phải kết hợp, lồng ghép với nhau
cả trong nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục.
- Thứ ba: Kết hợp GDPL và GDĐĐ phải có sự linh hoạt, sáng tạo.
GDPL kết hợp với GDĐĐ tuy được tiến hành theo những nội dung, hình thức
và phương pháp nhất định cho cùng một đối tượng là học sinh PTTH trong
một chừng mực nhất định với những điểm tương đồng về tâm sinh lý. Tuy
nhiên, mỗi học sinh là một con người cụ thể, không ai giống ai. Mặt khác,
điều kiện, hoàn cảnh của từng nơi, từng môi trường giáo dục cũng khác nhau
do đó trên cơ sở cái chung về nội dung, hình thức, phương pháp mà vận dụng
một cách phù hợp với đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh.
- Thứ tư: Nhà trường, gia đình, xã hội phải có sự phân công rành mạch
về nghĩa vụ, trách nhiệm đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau.

GDPL kết hợp với GDĐĐ là công việc rất khó khăn, phức tạp. Trong quá
trình giáo dục này, học sinh tiếp nhận tác động từ nhiều phía: nhà trường, gia
đình, xã hội. Công tác giáo dục chỉ đạt hiệu quả khi các chủ thể tham gia vào
quá trình giáo dục có sự phân định rõ ràng về nghĩa vụ, trách nhiệm để tránh
sự chồng chéo và đùn đẩy trách nhiệm cho nhau; đồng thời phải phối hợp chặt
chẽ nhằm làm cho các tác động giáo dục đến đối tượng giáo dục được thực
hiện theo những yêu cầu thống nhất, tạo ra sự hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau, phát
huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của từng thiết chế. Mặt khác, sự phối hợp này
còn giúp cho mỗi chủ thể hiểu đầy đủ hơn về đối tượng giáo dục của mình, từ
đó lựa chọn biện pháp tác động phù hợp. Việc kết hợp giáo dục giữa nhà
trường, gia đình và xã hội từ lâu đã được xem là nguyên lý cơ bản của giáo
dục. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc kết hợp ba môi trường
này. Trong công tác giáo dục thế hệ trẻ, Người chỉ thị cho mọi nhà trường:
Phải liên hệ mật thiết với gia đình học trò bởi vì giáo dục trong
nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và
trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt
hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong
gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn [38, tr.101].
- Thứ năm: Xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh cho việc hình
thành và phát triển nhân cách. Môi trường giáo dục giữ vai trò rất quan trọng
trong giáo dục nói chung, GDPL kết hợp với GDĐĐ nói riêng vì môi trường
đó tác động đến quá trình giáo dục trước hết ở khía cạnh tâm lý, đạo đức. Đó
là quan hệ giữa người dạy với người học, với tập thể lớp, tổ chức Đoàn, hội,
với chính quyền, nhân dân địa phương…Những yếu tố này có ảnh hưởng
quan trọng đến tâm lý, tình cảm, thái độ, ý thức, hành vi của người học. Một
môi trường lành mạnh là một môi trường trong đó người học luôn cảm thấy
mình được yêu thương, tôn trọng, được đánh giá đúng; một môi trường mà
trong đó các tệ nạn xã hội và các hiện tượng tiêu cực khác không có điều kiện
tồn tại hoặc nếu có xuất hiện thì cũng nhanh chóng bị loại trừ.
1.1.3. Tính tất yếu kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức

cho học sinh phổ thông trung học ở Việt Nam hiện nay
Kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở Việt Nam hiện nay
xuất phát từ những lý do sau:
- Thứ nhất: Xuất phát từ yêu cầu xây dựng con người phát triển toàn
diện
Trong sự nghiệp đổi mới Đảng ta đã khẳng định nhiệm vụ xây dựng
con người phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể, mỹ. Giáo dục đào tạo không
chỉ nhằm mục đích tạo ra những “cỗ máy lao động” mà thông qua giáo dục,
các giá trị văn hóa tốt đẹp sẽ được phát triển ở người học, giúp họ hoàn thiện
những tố chất cá nhân, phát triển hài hòa các mặt trên. Quan điểm giáo dục
toàn diện được đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng, gần đây nhất văn kiện
Đại hội X đã chỉ rõ:
Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam,
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các
giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý
tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa
con người Việt Nam [16, tr.106].
Quan điểm giáo dục toàn diện của Đảng đã được cụ thể hóa thành mục
tiêu giáo dục phổ thông thể hiện trong Luật giáo dục 2005 như sau:
“Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị
cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” [47, Điều 27].

×