Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự công cộng tại tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.21 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÂM ĐÌNH ĐỨC

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM
TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TẠI TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÂM ĐÌNH ĐỨC

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM
TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TẠI TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong luận văn là những kiến
thức của bản thân tôi có được trong quá trình học tập, nghiên cứu tài liệu và thực
tiễn công tác dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Hồ Sỹ Sơn. Những nội dung của các
tác giả khác đã được trích dẫn, ghi chú theo đúng quy định. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lâm Đình Đức


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG ..............................................7
1.1. Khái niệm, cơ sở, nguyên tắc, mục đích và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình
các tội xâm phạm trật tự công cộng ............................................................................7
1.2. Cơ chế phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự công cộng..........................19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM
PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TẠI TỈNH QUẢNG NAM ............................ 32
2.1. Thực trạng nhận thức mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, nội dung phòng ngừa tình
hình các tội xâm phạm trật tự công cộng ..................................................................32
2.2. Thực trạng xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật
tự công cộng ..............................................................................................................34
2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm trật tự công cộng .............................................................................................. 37
2.4. Kết quả của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự công cộng ............45
CHƯƠNG 3. TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM
PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TẠI TỈNH QUẢNG NAM ............................ 56
3.1. Dự báo tình hình các tội xâm phạm trật tự công cộng và khả năng phòng ngừa
tình hình các tội này tại tỉnh Quảng Nam .................................................................56

3.2. Tăng cường nhận thức mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, nội dung phòng ngừa
tình hình các tội xâm phạm trật tự công cộng ........................................................... 59
3.3. Tăng cường xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
trật tự công cộng ........................................................................................................61
3.4. Tăng cường tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình các tội xâm phạm
trật tự công cộng ........................................................................................................69
3.5. Tăng cường các nguồn lực cho phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự
công cộng ..................................................................................................................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANQG

:

An ninh quốc gia

ANTQ

:

An ninh Tổ quốc

ANTT

:


An ninh trật tự

CAND

:

Công an nhân dân

TTATXH

:

Trật tự an toàn xã hội

TTCC

:

Trật tự công cộng

TTXH

:

Trật tự xã hội

XHCN

:


Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội xâm phạm TTCC là loại tội phạm nguy hiểm xâm phạm các quy
định của nhà nước về TTCC gây ra những thiệt hại về tài sản của nhà nước,
của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, xâm
phạm đến hoạt động bình thường, ổn định xã hội ở những nơi công cộng.
Trong những năm qua, tình hình các tội xâm phạm TTCC diễn biến phức tạp,
có sự gia tăng cả về số lượng và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đặc biệt, các
đối tượng phạm tội có sự liên kết thành các băng nhóm, hình thành các
đường dây phạm tội có tổ chức, hoạt động manh động, tinh vi, gây ra những
thiệt hại nghiêm trọng, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân.
Quảng Nam là một tỉnh ven biển thuộc vùng kinh tế phát triển trọng
điểm miền Trung, có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh, quốc phòng.
Thời gian qua, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội thì tình hình ANTT
trên địa bàn tỉnh cũng có nhiều diễn biến phức tạp, số vụ việc có liên quan
đến TTATXH luôn chiếm tỉ lệ cao và cơ cấu tội phạm đa dạng. Nằm trong xu
hướng chung đó, tình hình các tội xâm phạm TTCC trên địa bàn tỉnh cũng có
nhiều diễn biến phức tạp. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam, từ năm 2014 đến năm 2018, Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử
tổng cộng 978 vụ án xâm phạm TTCC, với 1.421 bị cáo, trung bình 195.6
vụ/năm và 284.2 bị cáo/năm.
Tình hình trên đây phải được kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn kịp thời,
nếu không sẽ gây hậu quả phức tạp, khó lường về ANTT. Yêu cầu đặt ra là
cần phải làm tốt công tác phòng ngừa để giải quyết được từ đầu, tại chỗ, hạn
chế và tiến tới triệt tiêu những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tình hình các

1



tội xâm phạm TTCC. Nhận thức được điều này, trong những năm qua, các cơ
quan, ban ngành tỉnh Quảng Nam đã phát huy vai trò chủ công, nòng cốt trên
mặt trận phòng ngừa tình hình tội phạm, đã chủ động xây dựng kế hoạch, đề
ra nhiều chủ trương, biện pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
TTCC và đã đạt được những kết quả quan trọng góp phần vào sự nghiệp bảo
đảm ANTT. Song thực tiễn hoạt động này vẫn còn những hạn chế, bất cập
nhất định, nhất là: Nhận thức về mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, nội dung
phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC còn hạn chế; việc tuyên
truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật có nơi, có lúc còn mang tính hình thức,
hiệu quả chưa cao; phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ, tấn công trấn áp các
tội xâm phạm TTCC ở một số địa phương còn yếu, chưa tạo được sự chuyển
biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của quần chúng nhân dân. Các
biện pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC đã được triển khai
nhưng hiệu quả đạt được chưa cao. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ chuyên
trách làm công tác phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC còn mỏng,
trình độ năng lực còn hạn chế; việc phối hợp giữa các cơ quan, chức năng
trong phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC có nơi, có lúc chưa kịp
thời, chặt chẽ nên hiệu quả đạt được chưa cao.
Về mặt lý luận, đến nay đã có một số công trình khoa học nghiên cứu ở
các ở các khía cạnh và mức độ khác nhau về đấu tranh phòng, chống tình
hình các tội phạm TTCC. Mặc dù vậy, chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC tại tỉnh Quảng Nam.
Từ những lập luận nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Phòng ngừa tình hình
các tội xâm phạm trật tự công cộng tại tỉnh Quảng Nam” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC là một vấn đề có tầm
quan trọng hàng đầu trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thời


2


gian qua, đã có một số nhà luật học, tội phạm học quan tâm nghiên cứu ở các
khía cạnh và mức độ khác nhau, cụ thể:
- Giáo trình “Luật Hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), chương X:
Các tội xâm phạm an toàn công cộng, TTCC”, Võ Khánh Vinh, năm 2001.
- Luận văn thạc sĩ “Các tội xâm phạm TTCC trong luật Hình sự Việt
Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang”, Triệu Văn Nam, năm 2016.
- Luận văn thạc sĩ “Nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm
đánh bạc của lực lượng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Quảng Nam”, Vũ
Ngọc Khánh, năm 2014.
- Luận văn thạc sĩ “Tội gây rối TTCC trong luật Hình sự Việt Nam”,
Nguyễn Thanh Hải, năm 2011.
- Luận văn thạc sĩ “Tội chứa mại dâm trong luật Hình sự Việt Nam
trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội”, Nguyễn Thu
Huyền, năm 2015.
Những công trình khoa học nêu trên chủ yếu tập trung nghiên cứu về
các tội phạm xâm phạm TTCC nói chung hoặc một số tội phạm riêng lẽ trong
nhóm các tội phạm xâm phạm TTCC, chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách có hệ thống về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC tại tỉnh
Quảng Nam. Vì vậy, đề tài luận văn có tính độc lập và không trùng lặp với
các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình
các tội xâm phạm TTCC và khảo sát thực trạng phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm TTCC tại tỉnh Quảng Nam, luận văn đề ra các giải pháp nhằm
tăng cường phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC tại tỉnh Quảng
Nam trong thời gian tới.


3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình
các tội xâm phạm TTCC.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm TTCC tại tỉnh Quảng Nam.
- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình các
tội xâm phạm TTCC tại tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
TTCC tại tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình
các tội xâm phạm TTCC.
- Về địa bàn: Luận văn nghiên cứu, khảo sát tại địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu, khảo sát trong khoảng thời gian từ
năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả đã nghiên cứu nhiều loại tài
liệu tại Thư viện của Học viện Khoa học xã hội, tại Công an tỉnh Quảng Nam,
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam...

Qua đó đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận, tập hợp các số liệu nhằm giải

4


quyết các vấn đề được đề cập trong luận văn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tác giả sử dụng để phân tích các tài
liệu, số liệu liên quan đến phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC tại
tỉnh Quảng Nam, qua đó tổng hợp làm rõ nhận thức lý luận và đánh giá thực
trạng của hoạt động phòng ngừa trên.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Tác giả nghiên cứu các bài viết, các
báo cáo thực tiễn về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC tại tỉnh
Quảng Nam, trên cơ sở đó rút ra những nhận xét, đánh giá, đề xuất giải pháp
nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC tại tỉnh
Quảng Nam trong thời gian tới.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Trên cơ sở các tài liệu, số liệu thu
được về thực trạng phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC tại tỉnh
Quảng Nam, tác giả tiến hành thống kê, so sánh làm cơ sở để chứng minh làm
rõ các vấn đề được đề cập trong luận văn.
- Phương pháp chuyên gia: Tác giả tranh thủ ý kiến của những người có
trình độ cao, am hiểu sâu về lý luận, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong
phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC thông qua việc xin ý kiến
đánh giá, nhận xét của các chuyên gia về vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đây là công trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu toàn diện,
có hệ thống về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC. Những kết quả
nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng sau:
Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp nhất định vào
phát triển khoa học phòng ngừa tội phạm.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận dụng vào

thực tiễn phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC tại tỉnh Quảng Nam
và trong phạm vi cả nước. Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu

5


tham khảo tại các cơ sở nghiên cứu và đào tạo chuyên ngành luật ở nước
ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm trật tự công cộng.
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự
công cộng tại tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự
công cộng tại tỉnh Quảng Nam.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
1.1. Khái niệm, cơ sở, nguyên tắc, mục đích và ý nghĩa của phòng
ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự công cộng
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự công cộng
Phòng ngừa tình hình tội phạm là khái niệm cơ bản của tội phạm học,
vấn đề này luôn được các nhà khoa học đặt ra nghiên cứu và được các nhà lập
pháp đề cập đến trong các văn bản luật. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác

nhau về phòng ngừa tình hình tội phạm, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, phòng ngừa tình hình tội phạm là việc áp
dụng các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật… do các cơ quan, tổ
chức và công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô
hiệu hóa các nguyên nhân, điều kiện phạm tội; không để tội phạm xảy ra; làm
giảm tội phạm và tiến tới loại trừ hoàn toàn tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Theo quan điểm này, phòng ngừa tình tội phạm bao gồm cả hoạt động phòng
ngừa và hoạt động đấu tranh chống tội phạm. Quan điểm này được đa số các
nhà khoa học, nhà nghiên cứu lý luận về tội phạm học ủng hộ.
Quan điểm thứ hai cho rằng, phòng ngừa tình hình tội phạm chỉ là các
hoạt động tác động vào nguyên nhân, điều kiện của tội phạm nhằm ngăn ngừa
trước không để tội phạm xảy ra và loại trừ nguyên nhân phát sinh tội phạm.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về phòng ngừa tình hình tội phạm
nhưng tựu trung lại, phòng ngừa tình hình tội phạm trước hết là việc làm rõ
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên phạm vi toàn xã hội, từ
đó áp dụng các biện pháp nhằm xóa bỏ nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm, xóa bỏ nguồn gốc phát sinh tội phạm. Đồng thời tiến hành

7


quản lý, giáo dục đối với những người có điều kiện, khả năng phạm tội nhằm
không để họ tiếp tục thực hiện tội phạm, ngăn chặn, hạn chế, làm giảm tình
hình tội phạm, tiến tới loại bỏ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Để
phòng ngừa tình hình tội phạm đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các biện pháp
khác nhau với sự tham gia phối hợp chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội và mọi công dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
nhằm tạo ra môi trường sống lành mạnh, tạo điều kiện cho việc phát triển,
hoàn thiện nhân cách con người mới XHCN.
Tội phạm xâm phạm TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được

quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý, xâm phạm các quy định của Nhà nước về TTCC, gây
ra những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức, thiệt hại về tính
mạng, tài sản của công dân, xâm phạm đến hoạt động bình thường ở những
nơi công cộng. Các tội xâm phạm TTCC được quy định từ điều 318 đến điều
329 thuộc mục 4, chương XXI, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), bao gồm 12 tội danh: Tội gây rối TTCC; tội xâm phạm thi thể, mồ
mả, hài cốt; tội hành nghề mê tín, dị đoan; tội đánh bạc; tội tổ chức đánh bạc
hoặc gá bạc; tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có; tội rửa tiền; tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm
pháp; tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy; tội chứa mại dâm; tội môi giới mại
dâm; tội mua dâm người dưới 18 tuổi.
Tình hình các tội xâm phạm TTCC là một bộ phận trong cơ cấu tình hình
tội phạm. Do vậy, phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC không thể tách
rời phòng ngừa tình hình tội phạm cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC là hoạt động phòng ngừa đối với
nhóm tội phạm cụ thể, vì vậy phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC
mang những nét đặc trưng riêng, trong đó phải xác định các vấn đề cụ thể sau:

8


Một là, phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC phải tiến hành
đồng bộ các biện pháp chính trị, kinh tế, pháp luật, nghiệp vụ chuyên ngành,
hành chính, giáo dục… để nghiên cứu, tìm ra và hạn chế, triệt tiêu những
nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm các tội xâm phạm TTCC.
Hai là, phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC được tiến hành
một cách có hệ thống, có tính xã hội cao với sự tham gia của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân, trong đó các cơ quan bảo vệ pháp
luật và Tòa án là lực lượng trung tâm và nòng cốt. Đây là lực lượng có vị trí,

vai trò rất quan trọng trong công tác bảo đảm ANTT nói chung và phòng
ngừa tình hình tội phạm nói riêng; lực lượng này được đào tạo bài bản, được
áp dụng các phương tiện, biện pháp nghiệp vụ vào thực tiễn phòng ngừa tình
hình tội phạm và phải chủ động phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác để
triển khai các biện pháp phòng ngừa.
Ba là, mục đích của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC là
nghiên cứu, tìm ra và hạn chế, triệt tiêu những nguyên nhân và điều kiện của
tình hình các tội xâm phạm TTCC nhằm hạn chế và tiến tới loại bỏ tình hình
tội phạm đó ra khỏi đời sống xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa: “Phòng ngừa tình hình các
tội xâm phạm trật tự công cộng là việc áp dụng đồng bộ các biện pháp chính
trị, kinh tế, pháp luật, nghiệp vụ chuyên ngành, hành chính, giáo dục… do
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân tiến hành, dưới sự lãnh
đạo của Đảng để nghiên cứu, tìm ra và hạn chế, triệt tiêu các nguyên nhân và
điều kiện của tình hình các tội xâm phạm trật tự công cộng, nhằm hạn chế và
tiến tới loại bỏ tình hình các tội xâm phạm trật tự công cộng ra khỏi đời sống
xã hội”.
1.1.2. Cơ sở của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự công cộng
- Cơ sở chính trị: Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng

9


ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC nói riêng là nhiệm vụ chung của toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân. Đảng ta luôn xác định đấu tranh phòng, chống
tội phạm và vi phạm pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của Đảng. Đảng chỉ rõ: “Trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm phải kết hợp chặt chẽ chủ động tiến công với chủ động phòng ngừa, lấy
chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính” [2, tr.5].
Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình
mới” đã đặt ra mục đích: “Trong thời gian tới, công tác phòng, chống tội
phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm mới; tạo ra môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu
quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và bình
yên của nhân dân” [5, tr.3]. Để đạt được mục đích đó Chỉ thị số 48-CT/TW
đã đề ra 4 yêu cầu và 9 nhiệm vụ chủ yếu trong phòng, chống tội phạm. Trong
đó, Chỉ thị đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là: “Các cấp ủy Đảng,
chính quyền từ Trung ương đến cơ sở phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công
tác phòng, chống tội phạm, xác định công tác này là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm, thường xuyên của mình; đề ra các nghị quyết, chương trình để
thực hiện có hiệu quả các chủ trương, kế hoạch phòng, chống tội phạm; định
kỳ sơ kết, tổng kết, đánh giá tình hình, kết quả thực hiện; tăng cường đôn đốc,
kiểm tra, thanh tra, kịp thời giải quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
trong quá trình phòng, chống tội phạm” [5, tr.5].
Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã
xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải
pháp phòng, chống tội phạm, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới của tình
hình thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế. Đặc biệt Nghị quyết số 28-NQ/TW

10


đã đặt ra vấn đề “bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ xa”, tức là tăng cường các
hoạt động phòng ngừa trong đó có phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
TTCC. Nghị quyết số 28-NQ/TW đã chỉ rõ: “Trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm phải lấy việc giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính đi đôi với
giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật”
[2, tr.4].

Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị về “Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm ANTT trong tình hình mới”
cũng đã đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ trong công tác phòng, chống tội phạm, bảo
đảm ANTT. Chỉ thị nhấn mạnh việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tội phạm, bảo đảm ANTT trong tình hình mới; trong
công tác phòng, chống tội phạm phải lấy chủ động phòng ngừa là chính, kết
hợp chặt chẽ với tích cực tấn công trấn áp tội phạm.
Bên cạnh đó, các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đều
đặt ra nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, trong đó có hoạt động
phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC. Gần đây nhất, Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đặt ra 1 trong 6 nhiệm vụ
trọng tâm là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường
hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm ANQG, giữ gìn TTATXH”
[13, tr.5].
Tại tỉnh Quảng Nam, trên cơ sở các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh cũng đã
ban hành các nghị quyết chỉ đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
trong đó có phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC. Điển hình, Nghị
quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI nhiệm kỳ 2015
– 2020 đã đề ra giải pháp bảo đảm quốc phòng – an ninh, giữ gìn TTATXH:

11


“Chủ động nắm bắt, dự báo chính xác tình hình, phát hiện, ngăn ngừa, đấu
tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù
địch. Triển khai đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, kiềm chế sự gia tăng của
tội phạm. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về ANTT, giữ vững ổn định
chính trị và TTATXH” [30, tr.13]. Chương trình hành động số 09-CTr/TU

ngày 15/3/2011 của Tỉnh ủy tỉnh Quảng Nam chỉ đạo các tổ chức Đảng, các
ban ngành, đoàn thể, địa phương triển khai thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW đã
chỉ rõ: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội
phạm; các cấp ủy đảng, chính quyền tỉnh phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
công tác phòng, chống tội phạm, xác định công tác này là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của mình… Huy động sự tham gia rộng
rãi, tích cực của các tổ chức quần chúng và nhân dân vào công tác phòng,
chống tội phạm”…
Các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về phòng, chống tội phạm, bảo đảm
ANTT là cơ sở chính trị quan trọng để các cơ quan ban ngành, nòng cốt là các
cơ quan bảo vệ pháp luật triển khai các biện pháp phòng, chống tội phạm
trong đó có phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC.
- Cơ sở lý luận:
Lý luận về tội phạm học đã chỉ ra rằng, tình hình tội phạm trong đó có
tình hình các tội xâm phạm TTCC là hiện tượng xã hội tiêu cực chỉ xuất hiện
trong một giai đoạn nhất định của xã hội loài người và sẽ mất khi khi các
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm đó không còn nữa.
Nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình các tội xâm phạm TTCC là sự
tác động qua lại giữa các yếu tố khách quan của môi trường sống với các yếu
tố chủ quan thuộc về cá nhân mỗi con người làm phát sinh tình hình các tội
xâm phạm TTCC. Chính vì vậy, phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
TTCC là hoạt động có thể thực hiện được nếu như xác định đúng nguyên

12


nhân, điều kiện làm phát sinh, thúc đẩy loại tội phạm này xuất hiện, từ đó áp
dụng hệ thống các biện pháp để hạn chế, triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện
đó nhằm loại bỏ tình hình các tội xâm phạm TTCC ra khỏi đời sống xã hội.
Để phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC trên một địa bàn,

vùng, miền cụ thể thì ngoài việc xác định nguyên nhân, điều kiện chung nhất,
đặc thù nhất của tình hình các tội xâm phạm TTCC còn phải xác định những
nét đặc trưng về đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hóa, môi trường xã hội… của
địa bàn, vùng, miền đó là nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội xâm
phạm TTCC. Vì vậy, để phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC tại
một địa bàn cụ thể có hiệu quả thì phải xác định được đầy đủ nguyên nhân,
điều kiện của tình hình các tội xâm phạm TTCC tại địa bàn đó, từ đó đưa ra
biện pháp phòng ngừa phù hợp, tức là các biện pháp phòng ngừa tình hình tội
phạm phải được thiết kế cụ thể phù hợp với đặc điểm của từng địa bàn, vùng,
miền cụ thể với các đối tượng có đặc điểm nhân thân khác nhau.
- Cơ sở pháp lý: Cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong
phòng ngừa tình hình tội phạm, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật trong đó có các quy định về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và
phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC nói riêng, cụ thể:
Điều 4, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy
định: “(1) Cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và các
cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của
Nhà nước, tổ chức, cá nhân phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giám
sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.

(2)

Cơ quan, tổ chức có nhiệm

vụ giáo dục những người thuộc quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác,
ý thức bảo vệ và tuân theo pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã
hội chủ nghĩa; kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện gây ra

13



tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình.

(3)

Mọi công dân có nghĩa vụ tích

cực tham gia phòng, chống tội phạm” [20, tr.3].
Đặc biệt, từ điều 318 đến điều 329, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) quy định một cách cụ thể các tội xâm phạm TTCC. Đây là
cơ sở pháp lý hết sức quan trọng để các chủ thể triển khai các hoạt động
phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC.
Điều 2, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Bộ luật Tố tụng
hình sự có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời
mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” [21, tr.2].
Điều 16, Luật CAND năm 2014 quy định: “CAND có chức năng tham
mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, đấu tranh
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về ANQG, TTATXH, đấu tranh
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; đấu tranh phòng, chống âm
mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm pháp
luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội” [24, tr.7].
Khoản 4, Điều 8, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy
định: “Cơ quan điều tra có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội
và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục

và ngăn ngừa” [25, tr.4].
Bên cạnh đó, Luật khiếu nại năm 2011; Luật Tố cáo năm 2011, Luật xử
lý vi phạm hành chính năm 2013, Nghị định 167/2013/NĐ-CP… cũng có
những điều, khoản quy định về phòng ngừa tình hình tội phạm.

14


Những văn bản pháp lý trên thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với
hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho
các cơ quan chức năng trong việc triển khai hoạt động phòng ngừa tình hình
các tội xâm phạm TTCC.
- Cơ sở thực tiễn: Trong những năm qua, tình hình các tội xâm phạm
TTCC diễn biến phức tạp, có sự gia tăng cả về số lượng và hậu quả nguy
hiểm cho xã hội. Đặc biệt, các đối tượng phạm tội xâm phạm TTCC có sự liên
kết thành các băng nhóm, hình thành các đường dây phạm tội có tổ chức, hoạt
động manh động, tinh vi, gây ra những thiệt hại nghiêm trọng, gây tâm lý
hoang mang, lo lắng trong nhân dân.
Để ổn định tình hình an ninh chính trị, TTATXH, góp phần vào sự
nghiệp Công nghiệp hóa – hiện đại hóa của đất nước thì việc đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC
nói riêng là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của toàn xã hội. Nhận thức được điều
này, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước, các cơ quan ban ngành, trọng
tâm là các cơ quan bảo vệ pháp luật đã phát huy vai trò chủ động, tích cực,
sáng tạo trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; đặc biệt, đã xây dựng các kế
hoạch, đề ra nhiều chủ trương, biện pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm TTCC, quá trình triển khai thực hiện đã đạt được những kết quả quan
trọng góp phần vào sự nghiệp bảo đảm ANTT. Mặc dù vậy, hoạt động
phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC vẫn còn nhiều hạn chế, chưa
đủ sức đẩy lùi tội phạm, còn xảy ra nhiều vụ đánh bạc với quy mô lớn, hoạt

động có tổ chức, tội phạm gây rối TTCC, rửa tiền, chứa mại dâm, môi giới
mại dâm diễn biến phức tạp. Vì vậy, việc nghiên cứu, đề ra các giải pháp
nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC là vấn đề
cấp thiết.

15


1.1.3. Nguyên tắc của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự
công cộng
Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC phải tuân thủ các nguyên
tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc pháp chế XHCN: Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
TTCC là một bộ phận của đấu tranh giai cấp, mang tính quyền lực nhà nước,
do đó hoạt động này phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế XHCN. Lênin đã chỉ
rõ: “Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội,
trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân, nhân viên nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng
và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để chính xác”
[46, tr. 347].
Nguyên tắc pháp chế XHCN trong phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm TTCC thể hiện ở chỗ mọi hoạt động phòng ngừa tội phạm phải được
thực hiện trên cơ sở pháp luật, đó là hệ thống các quy định pháp luật có liên
quan đến phòng ngừa tình hình tội xâm phạm TTCC được quy định ở các văn
bản pháp luật khác nhau (Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình
sự, các văn bản pháp luật và các quy phạm pháp luật khác). Để hoạt động
phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC tuân thủ nguyên tắc pháp chế
XHCN đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất, toàn diện
và được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân; đồng thời các chủ thể
phòng ngừa tội phạm phải tuân thủ nghiêm chỉnh, nhất quán các quy định

pháp luật trong quá trình tiến hành các hoạt động phòng ngừa đó.
- Nguyên tắc dân chủ: Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC
được xác định là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, do
đó phải thu hút đông đảo các tầng lớp, lực lượng trong xã hội, đặc biệt là đông
đảo quần chúng nhân dân tích cực, tự giác tham gia. Điều này chỉ đạt được

16


khi người dân được dân chủ bàn bạc, phát huy sáng kiến, sáng tạo trong
phòng ngừa tình hình tội phạm theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”.
Để đảm bảo nguyên tắc dân chủ trong phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm TTCC đòi hỏi phải lấy dân làm gốc, phải thật sự tôn trọng, bảo vệ và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời các cấp ủy Đảng, chính
quyền, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải được củng cố trong sạch, vững
mạnh, là chỗ dựa vững chắc để nhân dân phát huy quyền làm chủ.
- Nguyên tắc phối hợp giữa các chủ thể: Phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm TTCC là trách nhiệm chung của toàn xã hội, trong đó mỗi ngành,
mỗi cấp có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, do đó phải có sự phối hợp giữa
các ngành, các cấp, phải huy động sức mạnh tổng hợp của các lượng lượng,
phương tiện, biện pháp khác nhau.
Nguyên tắc này thể hiện, hoạt động phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm TTCC phải được tổ chức có hệ thống, có sự lãnh đạo thống nhất từ cơ
quan đầu mối chuyên trách, đồng thời có một cơ chế phối hợp được định rõ
trong các chương trình, kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm. Bên cạnh đó
phải có sự phối hợp phòng ngừa tình hình tội phạm với các tổ chức, quốc gia
trên thế giới nhằm hạn chế nguy cơ xâm phạm TTCC, tiếp nhận, bảo vệ, hỗ
trợ nạn nhân của tình hình tội phạm.
- Nguyên tắc cụ thể: Xuất phát từ tính chất đặc thù của từng địa bàn,

từng lĩnh vực hoạt động nên hoạt động phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm TTCC phải đảm bảo tính cụ thể, rõ ràng, khả thi và phù hợp với điều
kiện đặc thù của mỗi địa phương, mỗi lĩnh vực.
Nguyên tắc này đòi hỏi, bên cạnh các chương trình, kế hoạch phòng
ngừa tội phạm chung của quốc gia, các địa phương, các ngành cần xây dựng
các chương trình, kế hoạch phòng ngừa tội phạm riêng trên cơ sở đặc điểm

17


đặc thù của từng địa bàn, từng lĩnh vực; khắc phục tình trạng định hướng
phòng ngừa tội phạm chung chung, mang tính hình thức.
1.1.4. Mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
trật tự công cộng
Thứ nhất, mục đích: Hoạt động phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm
TTCC nhằm đạt được các mục đích cơ bản sau:
- Huy động được sự quan tâm của toàn xã hội, sự tham gia tích cực, có
trách nhiệm và hiệu quả của các chủ thể trong xã hội vào hoạt động phòng
ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC.
- Tập trung nghiên cứu, phát hiện và hạn chế, thủ tiêu các hiện tượng xã
hội tiêu cực là nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội xâm phạm TTCC,
không để nảy sinh và phát triển loại tội phạm này.
- Kịp thời ngăn chặn không để xảy ra các hành vi phạm tội mới; quản lý,
giáo dục đối với những người có điều kiện, khả năng phạm tội và phòng ngừa
tái phạm tội.
Thứ hai, ý nghĩa: Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC mang
lại nhiều ý nghĩa to lớn, cụ thể:
- Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC mang ý nghĩa chiến
lược vì trên cơ sở nghiên cứu, phát hiện, hạn chế, triệt tiêu các nguyên nhân
và điều kiện làm nảy sinh tình hình các tội xâm phạm TTCC, từ đó tiến tới

loại bỏ tình hình các tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội, tạo môi trường
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc làm này
không chỉ làm giảm tình hình các tội xâm phạm TTCC trong hiện tại mà còn
giúp làm giảm tình hình các tội phạm này trong tương lai.
- Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC mang ý nghĩa kinh tế vì
hoạt động này giúp nhà nước và xã hội không phải tốn kém nguồn nhân lực
và tài chính cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và tái hòa nhập cộng

18


đồng cho người phạm tội cũng như khắc phục hậu quả do các tội xâm phạm
TTCC gây ra. Khoản kinh phí này sẽ có ý nghĩa tích cực hơn nếu được đầu tư
vào các hoạt động an sinh xã hội, nâng cao đời sống cho người dân.
- Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC mang ý nghĩa nhân văn
sâu sắc vì hoạt động này giúp hạn chế số người bị pháp luật trừng phạt, xã hội
cách ly, đồng thời giúp nại nhân và cộng đồng xã hội không phải gánh chịu
các hậu quả do các tội xâm phạm TTCC gây ra.
- Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC còn mang ý nghĩa xã
hội sâu sắc vì phòng ngừa tốt, hạn chế thấp nhất tình hình tội phạm sẽ giúp
cho công tác quản lý xã hội được thuận lợi hơn; các chủ thể không chịu nhiều
áp lực trong việc đấu tranh chống tội phạm, con người được sống trong môi
trường an toàn, lành mạnh hơn. Bên cạnh đó, phòng ngừa tốt sẽ phản ánh
được năng lực của các chủ thể, uy tín của Đảng, Nhà nước, các cơ quan bảo
vệ pháp luật được nâng cao.
1.2. Cơ chế phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự công cộng
1.2.1. Nội dung của phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự
công cộng
Để hoạt động phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC đạt được
mục đích đề ra, các chủ thể cần tập trung thực hiện các nội dung sau:

Thứ nhất, khắc phục, hạn chế nguyên nhân và điều kiện của tình hình
các tội xâm phạm TTCC.
Theo quy định tại mục 4, chương XXI, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017), các tội xâm phạm TTCC gồm 12 tội danh được quy
định từ Điều 318 đến Điều 329, tất cả các tội phạm này đều phát sinh từ
những nguyên nhân và điều kiện nhất định. Do đó, khắc phục, hạn chế
nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm TTCC là nội dung
quan trọng hàng đầu, có tính chiến lược của hoạt động phòng ngừa tình hình

19


các tội xâm phạm TTCC.
Để khắc khắc phục, hạn chế nguyên nhân và điều kiện của tình hình các
tội xâm phạm TTCC cần áp dụng tổng thể các biện pháp kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội với sự tham gia của cả hệ thống chính trị - xã hội nhằm nâng
cao hiệu quả công tác quản lý xã hội, hạn chế, xóa bỏ các mâu thuẫn xã hội,
xóa bỏ các hiện tượng xã hội tiêu cực, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người dân… Về bản chất, nội dung phòng ngừa này không mang tính
cưỡng chế, bắt buộc nên có thể được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau.
Đây là nội dung phòng ngừa có tính chiến lược, đảm bảo sự thống nhất đồng
bộ giữa các chủ thể, do cơ quan có thẩm quyền tiến hành.
Thứ hai, ngăn chặn các tội xâm phạm TTCC.
Trong phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm TTCC bên cạnh nội dung
khắc phục, hạn chế nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm cần phải
tiến hành ngăn chặn không để các tội xâm phạm TTCC xảy ra (đối với các tội
phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội) hoặc ngăn chặn không để các tội xâm
phạm TTCC thực hiện đến cùng (đối với các tội phạm đang xảy ra).
Để ngăn chặn các tội xâm phạm TTCC, cần áp dụng các biện pháp tác
động trực tiếp đến những người cụ thể có khả năng, điều kiện thực hiện hành

vi phạm các tội xâm phạm TTCC. Đó có thể là các biện pháp quản lý hành
chính về ANTT (quản lý nhân khẩu, hộ khẩu; quản lý các cơ sở, ngành nghề
kinh doanh có điều kiện về ANTT; quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ
trợ); quản lý, giáo dục đối tượng theo pháp luật (tập trung vào những người có
tiền án tiền sự, những người có quan hệ mật thiết với đối tượng phạm tội,
người thường xuyên tham gia vào các tệ nạn xã hội); tổ chức tuần tra, kiểm
soát tại các địa bàn, khu vực công cộng… Nội dung này thường được thực
hiện bởi các cơ quan chuyên trách và mang lại hiệu quả cao trong việc ngăn
chặn các tội xâm phạm TTCC.

20


×