Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.97 KB, 104 trang )

``
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN HIẾU

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

LỜI CAM ĐOAN

HÀ NỘI - 2019


``
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN HIẾU

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA



HÀ NỘI - 2019


``

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả đề cập trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng và
chính xác.

Tác giả luận văn

TRẦN VĂN HIẾU

Nguyễn Đức Thảo


``

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI CƯỚP TÀI SẢN ................................................................................................ 7
1.1. Khái niêm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản ............................... 7
1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản ........................... 9
1.3. Các chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản ..................................................15
1.4. nội dung và các loại biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản .............. 20
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................................... 25
2.1. Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh............................................................................................. 25
2.2. Thực trạng về tổ chức các chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................................... 30
2.3. Thực trạng về nội dung các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh......................................................................... 38
Chương 3. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH53
3.1. Nâng cao nhận thức về phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh ....................................................................................................................53
3.2. Hoàn thiện tổ chức phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh ............................................................................................................................57
3.3. tăng cường nguồn nhân lực phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................................................... 62
3.4. Hoàn thiện nội dung và các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh......................................................................... 64
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................
PHỤ LỤC .....................................................................................................................


``

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ANTT

An ninh trật tự

BCA


Bộ Công an

BLHS

Bộ luật hình sự

CAND

Công an nhân dân

TNXH

Tệ nạn xã hội

CQĐT

Cơ quan điều tra

CSĐT

Cảnh sát điều tra

CSKV

Cảnh sát khu vực

CSND

Cảnh sát nhân dân


HĐND

Hội đồng nhân dân

KSV

Kiểm sát viên

QLHC

Quản lý hành chính

TAND

Tòa án nhân dân

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TTXH

Trật tự xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

CHXAPT

Chấp hành xong án phạt tù


``

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Số vụ và số người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh (2014 – 2018)..................................................................................... 1
Bảng 2.2 Tỉ trọng số vụ và sô người phạm tội cướp tài sản trong tổng số vụ và
người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (2014 – 2018) ............. 33
Bảng 2.3. Hệ số tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (2014 –
2018)

......................................................................................................................... 32

Bảng 2.4. Cơ cấu tội cướp tài sản theo đặc điểm nghề nghiệp của người phạm
tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (2014 – 2018)..................................... 39
Bảng 2.5. Cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội cướp tài sản trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (2014 – 2018) ................................................ 1
Bảng 2.6. Cơ cấu của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh theo độ tuổi của người phạm tội (2014 – 2018) .............................. 43
Bảng 2.7. Cơ cấu của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh theo giới tính của người phạm tội (2014 – 2018)............................... 44
Bảng 2.8. Cơ cấu của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh theo tình trạng nghiện ma tuý của người phạm tội (2014 – 2018) .. 44

Bảng 2.9. Cơ cấu của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh theo tái phạm, tái phạm nguy hiểm (2014 – 2018) ............................ 44
Bảng 2.10. Cơ cấu của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh theo trình độ học vấn của người phạm tội (2014 – 2018) ............... 43
Bảng 2.11. Tỉ lệ giữa số vụ phạm tội cướp tài sản đã xét xử, trả hồ sơ cho
VKS và còn tồn đọng trên địa bàn TPHCM (2014 – 2018) ....................................


``

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm miền Đông
nam bộ, có diện tích khoảng 2.095,6 km² và dân số khoảng 8,6 triệu người (tổng
cục thống kê). Thành phố Hồ Chí Minh cùng với Hà Nội là một trong hai trung tâm
kinh tế, chính trị, văn hóa, thương mại, du lịch lớn nhất của cả nước; là đầu mối
giao thông quan trọng và là cửa ngõ quốc tế nối Việt Nam với các nước Đông Nam
Á và trên thế giới. Trong những năm qua TP HCM được đầu tư hệ thống giao thông
hiện đại, đa dạng các loại hình giao thông phục vụ tốt nhu cầu vận chuyển hàng hoá,
hành khách đi và đến thành phố. TP HCM là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp,
khu chế xuất nhiều nhất trên cả nước, đã thu hút đông đảo lao động từ các tỉnh về
làm ăn, sinh sống, học tập. Có thể nói TP HCM hiện nay đang quá tải về dân số, các
hiện tượng tiêu cực cũng nảy sinh từ đây, Dân số đông cũng dẫn đến sự phức tạp về
ANTT, các loại tội phạm xâm phạm sở hữu trong đó có tội phạm cướp tài sản
những năm gần đây có diễn biến hết sức phức tạp. Theo số liệu thống kê của TAND
các cấp ở TP HCM, trong 5 năm từ 2014 đến 2018, TAND các cấp của TP HCM
xét xử sơ thẩm 763 vụ án cướp tài sản với 1668 bị cáo. Số vụ án cướp tài sản đã xét
xử sơ thẩm trong từng năm (từ 2014 đến 2018) có diễn biến tăng, giảm thất thường.
(Bảng 2.1 phụ lục). Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội còn ở mức
cao trong 5 năm qua số bị cáo bị tuyên mức phạt tù từ 7 năm đến 20 năm tù là 429

bị cáo chiếm 25,72% (Bảng 2.5 phụ lục). Người thực hiện hành vi phạm tội có xu
hướng trẻ hoá, đặc biệt là rơi vào nhóm tuổi từ 16 đến 18 tuổi phạm tội cướp tài sản
ngày càng cao. Qua thống kê của TAND thành phố về số bị cáo từ 16 đến 18 tuổi bị
xét xử về tội cướp tài sản cho thấy Năm 2014 có 11/493 bị cáo chiếm 2,23% đến
năm 2018 có 10/224 bị cáo chiếm 4,46% tăng 2,23% so với năm 2014.
Trong thời gian vừa qua mặc dù TP HCM đã tập trung lực lượng, đưa ra
nhiều biện pháp, thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác
phòng, chống tội phạm nói chung, tội cướp tài sản nói riêng. Tuy nhiên hiệu quả

1


``

vẫn còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan
ngoài ra công tác đánh giá tình hình tội phạm từ đó đưa ra các biện pháp phòng
ngừa tình hình tội cướp tài sản còn chưa thật sự có hiệu quả, chưa phát huy được vai
trò và tầm quan trọng của công tác này. Ngoài ra, công tác tổ chức phòng ngừa,
nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phòng ngừa...chưa được
quan tâm, đầu tư, bổ sung kịp thời. Hoạt động sơ kết, tổng kết, tuy đã tổ chức
thường xuyên hơn nhưng chưa đánh giá hết các thiếu sót, khuyết điểm, chưa có
chiều sâu. Cho nên việc đưa ra các bài học kinh nghiệm chưa hiệu quả. Bên cạnh đó
công tác phối hợp giữa các lực lượng tham gia phòng ngừa tình hình tội cướp tài
sản chưa thực sự trơn tru, hiệu quả, nội dung và phương pháp phát động phong trào
quần chúng nhân dân bảo vệ an ninh tổ quốc chưa sâu rộng, chưa cụ thể hóa, còn
mang tính khẩu hiệu gậy nhàm chán, chưa thực sự thu hút sự quan tâm, tham gia
tích cực của quần chúng nhân dân.
Do đó, việc nghiên cứu đánh giá đầy đủ và chính xác thực trạng hoạt động
phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn TP HCM từ đó đưa ra các giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản

là thực sự cấp thiết. Có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Với tình hình trên học viên
đã lựa chọn đề tài: “Phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu cả về lý luận và thực
tiễn về công tác phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình
tội cướp tài sản nói riêng học viên đã tiếp cận, tham khảo những nội dung sau:
Nhóm thứ nhất những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm học, phòng ngừa
tội phạm.
Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công
an nhân dân.

2


``

Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình tội phạm
học, Nxb Hồng Đức Hội Luật gia Việt Nam.
Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Nhóm thứ hai những luận án, luận văn về phòng, ngừa tội phạm xâm phạm
sở hữu và tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Đoàn Công Viên (2018), “Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn thành phố hồ chí minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp
phõng ngừa”, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành tội phạm học, Học viện Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
Nguyễn Đức Thảo (2016), “Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên
địa bàn TPHCM”, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành tội phạm học, Học viện Khoa học

Xã hội, Hà Nội.
Nhóm thứ ba những luận án, luận văn về phòng, ngừa tội phạm xâm phạm
sở hữu và tội cướp tài sản trên địa bàn khác.
Lê Ngọc Quảng (2018), “Phòng ngừa tội phạm ở các khu công nghiệp trên
địa bàn tỉnh đồng nai”, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành tội phạm học, Học viện Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
Hoàng Thị Hoa (2016), “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành tội phạm học, Học viện Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
Từ việc tham khảo các công trình nghiên cứu trên đây giúp cho học viên có
cách nhìn tổng quan, đầy đủ về những vấn đề lí luận và thực tiễn hoạt động phòng
ngừa tội phạm nói chung và tôi cướp tài sản nói riêng. Các công trình đã nêu đều
được tiếp cận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, phạm vi nghiên cứu
cũng khác nhau. Điểm chung nhất của các công trình nghiên cứu, tài liệu trên đây
đều mang tính khái quát, tính thời sự và có giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn. Tuy
nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu tiếp cận chuyên sâu về lý luận
và thực tiễn phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa Thành Phố Hồ Chí Minh.

3


``

Do đó việc nghiên cứu và thực hiện đề tài này là cần thiết và không bị trùng lấp về
nội dung nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá về thực trạng phòng ngừa tình hình cướp tài sản trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh..

Để đạt được mục đích trên đây, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp tài
sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Làm rõ những hạn chế, nguyên nhân
trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh.
- Đề xuất các biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình
hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về phòng ngừa
tình hình tội cướp tài sản; thực trạng các hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp
tài sản trên địa bàn TP HCM.
- Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội
phạm.
- Về thời gian: Các tài liệu về tình hình tội cướp tài sản được thống kê từ
năm 2014 đến năm 2018.
- Về địa bàn nghiên cứu: Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước về phòng,

4


``

chống tội phạm. Những vấn đề lý luận về tội phạm học nói chung và phòng ngừa
tình hình tội phạm nói riêng làm phương pháp luận nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng trong toàn bộ nội dung
luận văn nhằm làm rõ thực trạng phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản, nhưng
nguyên nhân của nó.
Phương pháp thống kê: được sử dụng để thống kê số liệu của các cơ quan
chức năng đưa vào luận văn ở phần phụ lục nhằm dẫn chứng cho những phân tích
khái quát tình hình của tội cướp tài sản trên địa bàn TP HCM.
Phương pháp so sánh: phương pháp này được sử dụng để đối chiếu, so sánh
giữa các số liệu đã thống kê để đưa ra những phân tích đánh giá đúng đắn về thực
trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản làm rõ những
điểm hạn chế, để đề ra các giải pháp phòng ngừa phù hợp, hiệu quả.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: học viên đã nghiên cứu các báo cáo sơ
kết, tổng kết năm, các báo cáo chuyên đề về phòng, chống tội cướp tài sản của các
cơ quan chức năng ở TP HCM trong thời gian qua, từ đó rút ra những hạn chế và
nguyên nhân của nó đồng thời đề xuất các giải pháp phòng, chống tội này trên địa
bàn TP HCM.
Phương pháp nghiên cứu điển hình: nghiên cứu 300 bản án điển hình là
những vụ án cần nghiên cứu về nhân thân, trình độ học vấn,...của người phạm tội
nhằm làm rõ những hạn chế trong công tác phòng ngừa tội phạm cướp tài sản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm
nói chung và phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản. Luận văn có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo phục vụ, học tập và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tội
phạm học và lĩnh vực khoa học luật hình sự.
Về mặt thực tiễn

5


``


Luận văn có thể là tài liệu tham khảo để cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức
xem xét, xây dựng và vận dụng các biện pháp phòng ngừa một cách có hiệu quả
tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn TP HCM.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
đề tài được kết cấu gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản.
Chương 2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội cướp
tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

6


``

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
CƯỚP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản
Trong cuộc đấu tranh với tội phạm hiện nay thì phòng ngừa tội phạm là
phương hướng chính. Vì thế nghiên cứu khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm
có ý nghĩa nhận thức, lý luận và thực tiễn quan trọng
Xét về thuật ngữ, ở nước ta hiện nay các nhà nghiên cứu đã sử dụng hai
thuật ngữ là “phòng ngừa tội phạm” và “phòng ngừa tình hình tội phạm”. Tuy nhiên
cả hai cách thức diễn đạt này đều làm rõ mục đích của phòng ngừa tình hình tội
phạm là hạn chế và loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.

Một số nước trên thế giới hiện nay đều thống nhất quan điểm cho rằng: việc
phòng ngừa tội phạm là không để cho tội phạm xảy ra, thủ tiêu các nguyên nhân và
điều kiện của tội phạm... hoặc là không để cho tội phạm gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội, khắc phục nguyên nhân và kiểm soát được tội phạm, hoàn thiện hệ
thống pháp luật về đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật cũng như có biện
pháp cải tạo, giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có ích cho
xã hội và cộng đồng.
Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay các nhà nghiên cứu có quan điểm khác
nhau chưa thống nhất được về định nghĩa phòng ngừa tình hình tội phạm. Theo
quan điểm thứ nhất một số nhà nghiên cứu cho rằng phòng ngừa tình hình tội phạm
bao gồm cả hoạt động phòng và chống tội phạm; quan điểm thứ hai cho rằng phòng
ngừa chỉ bao gồm hoạt động tác động vào nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
nhằm ngăn ngừa trước không để tội phạm xảy ra. Còn theo GS. TS Võ Khánh Vinh
“việc phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ các biện pháp mang
tính chất nhà nước, xã hội, và nhà nước – xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân
và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hoá (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng
cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm” [66, tr.154].

7


``

Từ những nhận thức cơ bản về phòng ngừa tình hình tội phạm chúng ta mới
có cơ sở đưa ra những quan điểm đúng đắn về phòng ngừa tình hình tội cướp tài
sản. Tóm lại phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản là hệ thống nhiều mức độ các
biện pháp mang tính chất nhà nước, xã hội, và nhà nước – xã hội nhằm khắc phục
các nguyên nhân làm nảy sinh và điều kiện của tội cướp tài sản. Mặt khác còn phải
sử dụng các biện pháp để phát hiện, xử lý kịp thời khi có tội cướp tài sản xảy ra
không để cho tội phạm gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, đồng thời có biện pháp

giáo dục cải tạo người phạm tội để họ trở thành những công dân có ích cho xã hội.
1.1.2. Ý nghĩa của việc phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản
Hiện nay tình hình tội phạm cướp tài sản đã gây ra những hậu quả, những
mất mát to lớn cả về vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân và toàn xã hội, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến TTATXH chính vì vậy phòng ngừa tình hình tội phạm có ý nghĩa
quan trọng và thiết thực trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và xây
dựng, phát triển đất nước:
Làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản chính là tạo môi
trường chính trị, xã hội ổn định để phát triển các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hoá,
giáo dục, ANQP...góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung.
Ngoài ra, phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản còn mang ý nghĩa chính trị xã
hội sâu sắc, phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân và xã hội. Tạo niềm
tin của nhân dân vào các cơ quan bảo vệ pháp luật, vào chế độ xã hội chủ nghĩa.
Một nguyên nhân sâu xa có tính quyết định việc phạm tội cướp tài sản đó là ở
môi trường xã hội. Phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản là dần loại trừ những nguyên
nhân điều kiện phạm tội, cụ thể là việc cải thiện điều kiện kinh tế, xã hội. Mặt khác
phải xây dựng một xã hội lành mạnh thì người phạm tội hoàn toàn có thể rèn luyện trở
thành người có ích cho xã hội. Vì vậy có thể khẳng định việc nghiên cứu tình hình tội
cướp tài sản có ý nghĩa nhân đạo và tiến bộ xã hội.
Về mặt kinh tế: Phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản một cách có hiệu quả sẽ
ngăn chặn những thiệt hại to lớn về kinh tế do tội phạm gây ra, kể cả những thiệt hại

8


``

gián tiếp mà nhà nước và xã hội phải chi trả để khác phục hậu quả. Đồng thời nếu hoạt
động phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản đạt hiệu quả cao sẽ kéo giảm tỷ lệ tội phạm

cướp tài sản. Theo đó ngân sách nhà nước chi trả cho hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử, cải tạo người phạm tội cũng sẽ giảm xuống đáng kể.
Về mặt quản lý xã hội: Phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản có ý nghĩa quan
trọng trong việc làm giảm áp lực công việc lên các cơ quan bảo vệ pháp luật và cán bộ
thực thi công vụ trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và giáo dục cải tạo người
phạm tội. Thông qua hoạt động phòng ngừa tội cướp tài sản nhà nước có thể kiểm soát
được một mảng tối của xã hội là tình hình tội cướp tài sản, qua đó nâng cao tính hiệu
quả của hoạt động quản lý nhà nước, đồng thời tăng cường hiệu quả trong hoạt động
chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
1.2.1. Mục đích phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản
Phòng ngừa tình hình tội phạm là vấn đề lí luận và thực tiễn phức tạp và
quan trọng trong tội phạm học. Để đạt được mục đích loại trừ tội phạm ra khỏi đời
sống xã hội Đảng và nhà nước ta rất coi trọng công tác phòng ngừa tình hình tội
phạm và coi đây là hoạt động thường xuyên, liên tục. Cụ thể Đảng ta đã ban hành
chỉ thị số 48/CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới” trong đó Đảng ta đã chỉ rõ “trong
thời gian tới công tác phòng chống tội phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội
phạm, nhất là các loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới, tạo môi trường lành
mạnh phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ cuộc sống
hạnh phúc và bình yên của nhân dân”. Nhà nước rất coi trọng vấn đề phòng ngừa
tình hình tội phạm. Bởi vì bản chất của nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, không ngừng đấu tranh vì công bằng và sự tiến bộ xã hội.
Mục đích của phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản là khắc phục hoặc làm
vô hiệu hoá các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm đó là vai trò cơ bản, quan

9



``

trọng trong công tác đấu tranh với tình hình tội cướp tài sản. Phòng ngừa tình hình
tội cướp tài sản hướng tới các mục đích sau:
Thứ nhất hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội cướp tài
sản, không để nảy sinh và phát triển loại tội phạm này.
Muốn hạn chế, xoá bỏ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói
chung và tội cướp tài sản nói riêng là công việc không dễ dàng, đây là công việc lâu
dài, khó khăn, phức tạp mà không thể sử dụng một hoặc một số biện pháp là thực
hiện được. Công việc này đòi hỏi sự tham gia và phối hợp chặt trẽ, mang tính hệ
thống đồng bộ của Đảng, nhà nước và cả xã hội (tổ chức xã hội, cá nhân, công dân)
theo khu vực địa lí, theo chương trình cấp địa phương và toàn quốc mà trong đó đặt
dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm khắc
phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, làm giảm bớt hoặc tiến tới
loại trừ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Việc xây dựng chương trình
phòng ngừa tình hình tội phạm đòi hỏi phải có chủ trương, chính sách đúng đắn,
hợp lý, toàn diện của Đảng và Nhà nước đối với từng lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội phù hợp với các đặc điểm tâm lý, kinh tế, xã hội và các đặc điểm truyền
thống của từng địa bàn.
Thứ hai ngăn chặn kịp thời, không để xảy ra các hành vi phạm tội mới.
Một trong những mục đích của phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản là
ngăn chặn kịp thời, không để xảy ra các hành vi phạm tội mới. Khác với nội dung
xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm thì cần có các biện pháp mang tính
chiến lược, lâu dài, liên tục thì ngược lại ngăn chặn là hoạt động có tính tức thời,
cấp bách, khi đối tượng đang có ý đồ, âm mưu và chuẩn bị thực hiện hành vi phạm
tội. Ngăn chặn hành vi phạm tội trộm cắp tài sản là việc tác động cụ thể đến đối
tượng, môi trường, hoàn cảnh phạm tội trộm cắp tài sản làm cho đối tượng phạm tội
tự giác từ bỏ hoặc không thể thực hiện được hành vi phạm tội của mình, làm cho tội
phạm không xảy ra, không gây ra hậu quả, tác hại.
Thứ ba phòng ngừa tái phạm tội.


10


``

Phòng ngừa tái phạm tội thực chất cũng là một bộ phận, một nội dung của
hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung. GS.TS Nguyễn Xuân Yêm cho rằng:
“Hoạt động phòng ngừa tái phạm tội đối với người đã chấp hành xong bản án hình
sự là hình thức phòng ngừa cá biệt của các biện pháp phòng ngừa tội phạm” [68,
tr.151].
Như vậy phòng ngừa tái phạm tội là hướng đến mục tiêu cảm hóa, giáo dục
không để cho những người đã bị kết án có hành vi tái phạm tội, khắc phục loại trừ
nguyên nhân, điều kiện của tái phạm tội.
Về đối tượng phòng ngừa tái phạm tội cướp tài sản đó chính là những người
đã có hành vi phạm tội cướp tài sản và đã bị kết án mà vẫn còn những khả năng,
điều kiện có thể dẫn đến hành vi phạm tội mới.
Để phòng ngừa tái phạm tội cướp tài sản có hiệu quả cần phải được tiến
hành đồng bộ các biện pháp, phương tiện và sự phối hợp chặt chẽ của các lực lượng
ở các cấp, trung ương đến địa phương, ở mỗi gia đình và toàn cộng đồng và phòng
ngừa nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn.
Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đầu tư, xây dựng, hoạch định, điều chỉnh
các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách giáo dục, cải tạo đến
những người chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương, người đang chấp hành
bản án tại địa phương hoặc trong các trại giam... Việc quản lý, giáo dục, cảm hóa tốt
sẽ góp phần làm cho tình hình ANTT, kỷ cương xã hội được tôn trọng, giữ vững và
là cơ sở tạo niềm tin cho nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, pháp luật và các chủ thể
quản lý xã hội để tiến tới công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tạo điều kiện tích cực, động viên những người đã bị kết án tiếp thu sự giáo
dục của gia đình, cộng đồng dân cư và của xã hội để tích cực cải tạo trở thành người

có ích cho xã hội, không tái phạm tội. Đối với những người đã bị kết án trở về địa
phương cần phải được quan tâm giúp đỡ họ ổn định cuộc sống như giải quyết công
ăn việc làm, giải quyết những vướng mắc về tư tưởng, đưa họ vào các hoạt động xã
hội ở nơi cư trú. Đây là một nội dung cơ bản, mang tính tích cực chủ động phòng

11


``

ngừa loại bỏ những điều kiện khả năng có thể tái phạm tội trở lại của những người
đã bị kết án khi trở về địa phương.
Thông qua tác động của cơ quan chuyên môn, đặc biệt là cơ quan Công an,
Quản lý, kiểm soát chặt chẽ những người đã chấp hành án xong trở về địa phương
để phát hiện kịp thời những biểu hiện nghi vấn tái phạm tội để chủ động phòng
ngừa, ngăn chặn tước bỏ những điều kiện, khả năng tái phạm tội. Để việc phòng
ngừa có hiệu quả tình hình tội cướp tài sản cần thiết phải xây dựng tốt về chương
trình, kế hoạch phòng ngừa phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn và mỗi loại
chủ thể trong những điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội cụ thể.
1.2.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh
“Phòng ngừa tình hình tội phạm là một loại hoạt động thực tiễn xã hội có
những đặc điểm đặc thù của mình. Cách thức tổ chức và hoạt động của hệ thống đó
phải được xây dựng theo những nguyên tắc nhất định” [53, tr.285]. Chính vì vậy,
nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản là những tư tưởng chỉ đạo, định
hướng, là quy tắc cơ bản của hành động có tính chất xuất phát điểm chi phối toàn bộ
các hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản từ khâu xây dựng kế hoạch đến
triển khai áp dụng. phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản nói cần đảm bảo các
nguyên tắc sau:
Nguyên tắc pháp chế.

Nguyên tắc này đòi hỏi phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản phải phù hợp
với các quy định của pháp luật. Pháp luật về phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản
đòi hỏi các chủ thể tuân thủ nghiêm chỉnh, nhất quán các quy định của pháp luật về
hoạt động đó để đảm bảo pháp chế. Các quy định pháp luật phòng ngừa tội cướp tài
sản được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau (Hiến pháp, Bộ luật, các
đạo luật, các văn bản pháp quy khác…).
Ngoài ra nguyên tắc pháp chế còn đòi hỏi pháp luật phòng ngừa tình hình
tội cướp tài sản phải được xây dựng trên những cơ sở khoa học, xây dựng một cách

12


``

hoàn thiện đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ, hợp lý, đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Nó cũng đòi hỏi từ các chủ thể phòng ngừa tình hình tội
cướp tài sản phải có ý thức tuân thủ pháp luật cao.
Nguyên tắc dân chủ
Dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân, sự tham gia rộng rãi của nhân dân
vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp, đây là một nguyên tắc Hiến định.
nguyên tắc này được quy định Tại điều 8 của Hiến pháp năm 2013 như sau: Nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng
Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân
dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, cửa quyền.
“Nội dung của nguyên tắc dân chủ thể hiện ở việc lôi cuốn đông đảo quần
chúng nhân dân lao động, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức
kinh tế thuộc mọi thành phần và toàn xã hội tham gia vào hoạt động phòng ngừa

tình hình tội phạm”.[66. Tr 147] Để nguyên tắc dân chủ đi vào thực tế cuộc sống,
cần xây dựng cơ chế, chính sách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể
tham gia phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản, đồng thời tuyên truyền để nhân dân
hiểu rõ phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản là sự nghiệp của toàn dân. Song song
đó cần có những chương trình tập huấn chuyên môn, kỹ năng cho các tổ chức tự
quản, các đơn vị tình nguyện.
Nguyên tắc nhân đạo.
Nhân đạo là đạo làm người. Đạo làm người thể hiện ở lòng thương yêu, với
ý thức tôn trọng các giá trị danh dự, nhân phẩm của con người, không làm đau đớn
con người. Nhân đạo là giá trị xã hội rất tiến bộ là truyền thống tốt đẹp của dân tộc
ta. Những đối tượng dễ bị tổn thương hoặc phải chịu những chế tài pháp lý thường
được đối xử theo tinh thần nhân đạo. “Nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi để các biện pháp
phòng ngừa được xây dựng và áp dụng trong thực tiễn không được hạ thấp nhân phẩm,

13


``

danh dự, các quyền cơ bản của con người mà phải hướng đến việc định hướng hành vi,
lối sống cho họ theo hướng hòa nhập với xã hội, làm những việc có ích cho xã hội.
Nguyên tắc này còn đòi hỏi hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm phải kết hợp hài
hòa, đúng mức độ biện pháp cưỡng chế với thuyết phục theo hướng tăng cường sự thuyết
phục, giáo dục” [66. Tr 147]. Để tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong quá trình
phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản, hoàn thiện về hệ thống pháp. Mặt khác, khi
xây dựng, kế hoạch phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản cần ưu tiên xây dựng các
biện pháp mang tính xã hội, hạn chế các biện pháp mang tính cưỡng chế. Tuân thủ
nguyên tắc nhân đạo thì hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản sẽ thu
được những kết quả tích cực, hạn chế những tổn thương cho người phạm tội.
Nguyên tắc khoa học

Xuất phát từ tính chất phức tạp của tình hình tội phạm, đặc biệt là trong giai
đoạn khoa học công nghệ phát triển như hiện nay nên hoạt động phòng ngừa tình
hình tội cướp tài sản cần chú trọng nguyên tắc khoa học. Đòi hỏi của nguyên tác
này là khi xây dựng kế hoạch, biện pháp phòng ngừa, tổ chức hệ thống phòng ngừa,
các chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản phải được xây dựng có cơ sở khoa
học, tức là có cơ sở lý luận và thực tiễn. Đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn trong
hoạt động phòng, chống tình hình tội cướp tài. Song song với đó hoạt động phòng
ngừa tình hình tội cướp tài sản cần kết hợp khai thác, ứng dụng các thành tựu khoa
học kỹ thuật tiến bộ. Vì vậy, hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản không
thể thiếu những nghiên cứu khoa học và Nhà nước cần có những chủ trương cụ thể
cho nghiên cứu khoa học về phòng ngừa tình hình tội này từ đó ứng dụng có hiệu
quả các kết quả nghiên cứu đó. Tính khoa học giúp tiết kiệm sức lực, tiền bạc và
hạn chế được các rủi ro, và đảm bảo khả năng thành công trong hoạt động phòng
ngừa tình hình tội cướp tài sản.
Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể phòng ngừa tình hình tội
cướp tài sản.
Có rất nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp
tài sản (Đảng, nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, quần chúng nhân dân, các

14


``

cơ quan chuyên trách và cơ quan không chuyên trách...) Các chủ thể có khả năng
và thẩm quyền khác nhau trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản, do
đó sự phối hợp hoạt động là rất cần thiết và phải tiến hành trong một cơ chế chặt
chẽ, nhịp nhàng có sự điều hành thống nhất từ trung ương đến địa phương. Các chủ
thể hoạt động phòng ngừa cần có sự thống nhất về hình thức, nội dung, phương
pháp và phạm vi hoạt động để đạt được những kết quả cao nhất. Thực tiễn cho thấy

những thiếu sót, hạn chế từ các hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản là
do sự phối hợp thể hiện ở việc cung cấp thông tin, tài liệu, xây dựng chương trình
kế hoạch, thực hiện các biện pháp – giải pháp chưa thống nhất, chưa đồng bộ. Để có
sự phối hợp hiệu quả, trước hết phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất từ một cơ
quan đầu mối chuyên trách từ trung ương, đồng thời có một cơ chế phối hợp được
quy định rõ trong các chương trình, kế hoạch phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản.
Tuân thủ sẽ nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản.
Nguyên tắc phân hóa trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp tài
sản.
Cơ sở của nguyên tác này xuất phát từ tính chất đặc thù và điều kiện phòng
ngừa tình hình tội cướp tài sản ở từng địa bàn, từng lĩnh vực hoạt động. “Nội dung
cơ bản của nguyên tắc phân hóa hoạt động phòng ngừa thể hiện ở chỗ hệ thống
phòng ngừa phải được tổ chức tương ứng với các quy luật và đặc điểm của tình hình
tội phạm và người phạm tội, các biện pháp phòng ngừa phải phù hợp với từng lĩnh
vực, phòng ngừa, đối tượng và địa điểm phòng ngừa; việc phòng ngừa cá nhân phải
được tiến hành trên cơ sở hiểu biết đầy đủ về cá nhân” [66, tr.147] Nguyên tắc này
khắc phục tình trạng hoạt động phòng ngừa theo kiểu hình thức, phong trào, định
hướng chung chung nên hiệu quả trong triển khai hoạt động phòng ngừa tình hình
tội cướp tài sản không cao.
1.3. Các chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh
Phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt trẽ
giữa các chủ thể (nhà nước, tổ chức xã hội và công dân) là những lực lượng tham

15


``

gia phòng ngừa tình hình tội phạm này một cách chủ động, thường xuyên và có hệ

thống trong phạm vi hoạt động của mình. Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp
tài sản cần phải thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính vì vậy
chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm này rất đa dạng bao gồm chủ thể lãnh đạo
quá trình phòng ngừa và chủ thể thực hiện quá trình phòng ngừa tình hình tội phạm.
Với cách hiểu này, chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản bao gồm:
1.3.1. Chủ thể lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản
Khoản 1, Điều 4 Hiến pháp 2013 có quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và toàn thể dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng
cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói
chung và tình hình tội cướp tài sản nói riêng là là vấn đề quan trọng hoạt động của
các tổ chức Đảng điều này được thể hiện rõ trong cương lĩnh cũng như trong nghị
quyết của Đảng. Mặt khác phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản vừa mang tính xã
hội, vừa mang tính Nhà nước, vì vậy phải có sự lãnh đạo của Đảng. Với vai trò đó
Đảng ta luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu nguyên nhân phạm tội
và các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản. Sự lãnh đạo của Đảng trong
phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản là sự lãnh đạo chính trị thông qua việc định
hướng phòng chống tình hình tội phạm nói chung. Thông qua sự lãnh đạo của Đảng
các cơ quan tổ chức tham gia phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản không ngừng
được củng cố và hoàn thiện một cách toàn diện về cơ cấu, tổ chức. Bên cạnh đó vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm này
còn thể hiện ở vai trò tiên phong của các Đảng viên, các tổ chức Đảng thông qua
những Đảng viên thực hiện lãnh đạo chính trị đối với hoạt động phòng ngừa của các
cơ quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng
phổ biến, tuyên truyền hiểu biết pháp luật
1.3.2. Chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản

16



``

Chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản bao gồm các tổ chức Đảng,
cơ quan quản lý về mặt quyền lực nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan
tiến hành tố tụng phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản.
Các tổ chức đảng, theo Điều 4 hiến pháp năm 2013, Đảng cộng sản Việt
Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo về chính trị đối với
việc phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội cướp tài sản nói riêng. Các tổ
chức Đảng thông qua những Đảng viên thực hiện lãnh đạo chính trị đối với công tác
phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức
xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền hiểu biết pháp luật.
* Cơ quan Nhà nước
Quốc hội, theo Điều 69 Hiến pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam 2013 quy định: “Quốc hội là quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất của pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao với hoạt động của nhà nước”. Như vậy
Quốc hội là chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm với vai trò ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong đó
có tội cướp tài sản (Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự,...). Ngoài
ra Quốc hội còn có vai trò trong việc kiểm tra giám sát hoạt động của Nhà nước (cơ
quan nhà nước, cán bộ) nhằm phòng ngừa các hành vi phạm tội và tuyên truyền phổ
biến pháp luật nói chung.
Hội đồng nhân dân, Điều 113 Hiến pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam 2013 quy định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương... ”. Vai trò phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản của Hội đồng
nhân dân được cụ thể hóa ở một số nội dung:
Trong phạm vi quyền hạn của mình Hội đồng nhân dân các cấp Ban hành

các văn bản quy phạm về phòng ngừa tình hình tội phạm và kiểm tra việc thực hiện
chúng. Kế hoạch hoá tổng thể việc phòng ngừa tình hình tội phạm kết hợp với các

17


``

kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Kiểm tra, giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân
ở địa phương để phòng ngừa các hành vi tiêu cực, phạm tội.
Cơ quan quản lý nhà Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp có vai trò
phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản như sau:
Xây dựng và thực hiện có hiệu quả cao các kế hoạch phát triển kinh tế, xã
hội, văn hóa, giáo dục nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, từ
đó có tác dụng phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản.
Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội, tập trung xây dựng thể
chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách nhằm phát huy sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia công tác phòng, chống tội
phạm. Không ngừng củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân, trật tự an toàn xã hội; tổ chức và thực hiện các biện pháp phòng, chống tội
phạm cướp tài sản, các vi phạm pháp luật.
Lãnh đạo hoạt động phòng chống tội phạm thông qua Ban chỉ đạo phòng,
chống tội phạm và một số cơ quan khác thực hiện hoạt động phòng chống tội phạm;
xây dựng các chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm. xây dựng chương trình,
kế hoạch và lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản ở địa phương
Các cơ quan hành chính nhà nước chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các
cấp, tùy vào chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan này tiến hành hoạt động
triển khai, thi hành pháp luật phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trong phạm vi
toàn quốc hay trong từng địa phương nhất định.
Các cơ chuyên trách trong phòng ngừa tội phạm cướp tài sản bao gồm cơ

quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án.
Cơ quan công an, theo Điều 4 Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định
“Công an nhân dân là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu trang phòng,
chống tội phạm.” cơ quan công an có vai trò tham mưu cho Đảng, Nhà nước trong
việc hoạch định các chương trình phòng chống tội phạm, trong đó có tội phạm cướp
tài sản. Trong phạm vi thẩm quyền của mình các cơ quan công an thực hiện việc
phân tích thực trạng tình hình tội phạm, các khuynh hướng của tình hình tội phạm

18


``

tham mưu cho các tổ chức Đảng, Hội đồng nhân dân, cơ quan kiểm sát. Cơ quan
Công an là một trong những cơ quan tham gia chính vào việc phối hợp và kế hoạch
hóa tổng thể việc phòng ngừa. Cụ thể, tổ chức các hoạt động phòng ngừa và kế
hoạch phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản ở khu vực mình quản lý; quản lý chặt
chẽ số đối tượng có tiền án, tiền sự về tội cướp tài sản; truy nã các đối tượng phạm
tội cướp tài sản; phối hợp với các cơ quan xây dựng và thực hiện các kế hoạch,
chương trình phòng, chống tội phạm cướp tài sản.
Viện kiểm sát nhân dân, theo điều 2 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân
năm 2014, “VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, chức năng của viện
kiểm sát chủ yếu ở việc kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án phối hợp với các cơ quan khác làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện tình
trạng phạm tội phát hiện nhanh chóng, chính xác tội cướp tài sản để kịp thời xử lý.
Thực hành quyền công tố, đảm bảo truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Điều này có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội cướp tài
sản, có tác dụng giáo dục quần chúng nhân dân. VKS phối hợp với Toà án, Công an

mở các phiên toà lưu động xét xử tội phạm cướp tài sản, nhằm tuyên truyền, giáo
dục pháp luật, đặc biệt là tuyên truyền các thủ đoạn hoạt động của các đối tượng để
nhân dân cảnh giác. Thống kê các tội phạm cướp tài sản từ đó đưa ra những kiến
nghị về các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm này.
Tòa án nhân dân, Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy
định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quền tư pháp...bằng hoạt động của mình, tòa án góp phần giáo dục
công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng
những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, các vi phạm pháp luật khác”. TAND các cấp có vai trò phòng ngừa tình hình
tội phạm nói chung và tội phạm cướp tài sản nói riêng thông qua hoạt động xét xử
các tội phạm đó để làm sáng tỏ bản chất của vụ án từ đó có tác dụng phòng ngừa
tình hình tội phạm. Thông qua hoạt động xét xử toà án kiến nghị đến các cơ quan
nơi tội phạm cướp tài sản xảy ra để họ có những biện pháp hiệu quả ngăn chặn và

19


×