Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo BLHS 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.25 KB, 51 trang )

TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Lời Mở Đầu
1 Tính Cấp Thiết Của Đề Tài
Tình hình tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ngày càng gia
tăng về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Đây là loại tội phạm mà
người phạm tội có thể gây ra thiệt hại cho rất nhiều người, có những vụ mà chỉ
có một bị cáo nhưng có đến gần 30 người bị hại, chưa kể những người liên quan
khác. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không phải là hành vi mới. Tuy
nhiên, để định tội danh đúng cho người phạm tội trong trường hợp này cần thiết
phải xác định thật chính xác thời điểm phát sinh ý thức chiếm đoạt của người
phạm tội, tránh trường hợp định nhầm tội. Do vậy, để xác định được người
phạm tội vi phạm quy định nào trong chương các tội xâm phạm sở hữu, cần phải
căn cứ vào hành vi khách quan của người phạm tội, thời điểm người phạm tội
nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản cũng như thời điểm họ thực hiện hành vi
chiếm đoạt. Việc xác định sai thời điểm cũng như nhận định không đúng, không
khách quan về thời điểm phát sinh ý thức này của người phạm tội sẽ dẫn đến
việc định tội danh không đúng, không truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Chính vì vậy, cần phải nghiên cứu sâu và làm rõ vấn đề lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Do đó người viết chọn đề tài nghiên cứu “ Tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo hình sự Việt Nam” trong tiểu luận của mình
2.Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của tiểu luận là dựa trên cơ sở kế thừa các công trình
khoa học của các tác giả đi trước, đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh lý luận và thực
tiễn của vấn đề và cập nhật số liệu thực tiễn, qua đó tìm ra giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản và giảm việc hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế liên
quan đến tài sản.
1



3. Phương Pháp Nghiên Cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự
như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so sánh, đối
chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn... để phân tích và luận
chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong tiểu luận này
4. Phạm Vi Nghiên Cứu
Đề Tài tập trung phân tích đánh giá các yếu tố cấu thành tội phạm của tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật
hình sự( BLHS) năm 2015 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo
điều 175 BLHS.Thông qua số liệu thực tiễn xét xử trên địa bàn toàn quốc từ
năm 2000 - 2010 ; chỉ ra các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó,
cũng như đưa ra nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, đề xuất những giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Chương 2: Quy định pháp luật về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản
Chương 3 Thực tiễn áp dụng và những giải pháp
nâng cao hiệu quả các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 về
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

2


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LẠM DỤNG
TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1 Khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền trong phạm
vi trách nhiệm, quyền hạn của mình phải ra Quyết định khởi tố vụ án. Khi đã có
đầy đủ căn cứ để xác định một người có hành vi phạm tội thì ra Quyết định khởi
tố bị can và phải ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp
dụng .Kết thúc hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra làm bản Kết luận điều tra
chuyển sang Viện kiểm sát. Từ bản Kết luận điều tra này, theo đúng trình tự, thủ
tục pháp luật quy định, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố bị can ra trước Tòa
án bằng cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự cần được áp
dụng. Đối với Tòa án, việc kiểm tra, xem xét định tội danh được thực hiện ngay
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Sau khi nhận được hồ sơ của Viện kiểm sát,
trong quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ kiểm
tra việc truy tố có căn cứ hay không và tùy trường hợp có quyền quyết định: đưa
vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án.
Khi ra bản án, vấn đề xác định tội danh có ý nghĩa rất lớn. Vì không ai bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật .Tại Bộ luật TTHS quy định: Trong bản án phải trình bày việc
phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác
định không có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo phạm
tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự… Trong giai đoạn
xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm việc xem xét định tội danh đã
đúng hay chưa cũng rất được quan tâm. Như vậy, định tội danh là một quá trình
phức tạp được tiến hành qua tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Ở mỗi giai
đoạn quá trình định tội danh mang tính chất và những đặc điểm khác nhau.
3


Vì vậy khái niệm Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại
Điều 175 Bộ luật hình sự là tội danh được nhập từ tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 135 và tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 158 Bộ luật hình sự năm
1985. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 Bộ
luật Hình sự năm 1999 đã sửa đổi, bổ sung năm 2009, nay được quy định tại
Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình
sự năm 2015 có nhiều điểm mới so với Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Điều 175 BLHS quy định: “Người nào có một trong những hành vi sau
đây: Chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới
năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về
tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a)Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ
trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b)Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất
hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”.
1.2 Đặc điểm chung của các tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Theo đánh giá của các nhà tội phạm học, trong những năm gần đây, tội
phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã tăng nhanh với thủ đoạn ngày
càng tinh vi, số bị hại trong các vụ án nhiều hơn và tài sản bị chiếm đoạt là con
số đặc biệt lớn. Điều đáng chú ý là loại tội phạm này lại tập trung nhiều vào đối
tượng có chức, có quyền trong xã hội, khiến cho công tác điều tra gặp nhiều khó
khăn. Tình trạng lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản thời gian gần đây
4


diễn ra khá phổ biến và rất đa dạng. Do đó, cần thiết phải có những hiểu biết
chung nhất về loại tội phạm này để đưa ra các biện pháp răn đe, giáo dục và
phòng ngừa.

Một số điểm mới cơ bản về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
được quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015, cụ thể:
Theo Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định 03 loại hành vi là
hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đó là: sau khi
vay, mượn, thuê, tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng, chủ thể đã thực hiện một trong 03 hành vi sau:
- Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đó;
- Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
- Sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng
trả lại tài sản.
Hiện nay, theo Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định thêm 01
loại hành vi là hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản, đó là hành vi “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng
nhưng cố tình không trả”, đồng thời bỏ hành vi “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản”
ra khỏi khái niệm “hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Đây chính
là một bước hoàn thiện rõ rệt của Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình
sự năm 1999.
“Chiếm

đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc

sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình1”. Như vậy, có thể hiểu:
Chiếm đoạt là hành vi cố ý (trực tiếp) làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng
thực tế thực hiện quyền sử dụng, quyền định đoạt, quyền chiếm hữu đối với tài
sản và tạo ra cho người phạm tội khả năng thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt trái pháp luật tài sản đó.Dựa trên cơ sở đó, xem xét đến hành vi của
người nhận được tài sản thông qua các hình thức hợp đồng ngay thẳng (vay,
1

Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tập 2, trang 12.


5


mượn, thuê… tài sản) sau đó khi đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều
kiện, khả năng nhưng cố tình không trả, chúng ta thấy: Hành vi “cố tình không
trả” là hành vi vi phạm nghĩa vụ trả lại tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực
tiếp, hành vi này làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền sở hữu
của mình trên thực tế và tạo cho chủ thể khả năng chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản đó như tài sản của mình. Như vậy, hành vi đó là hành vi chiếm đoạt,
và mang bản chất của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Xem xét đến hành vi “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản”, chúng ta thấy Điều
175 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã không quy định hành vi này là hành vi khách
quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là đúng đắn, bởi lẽ: Trên
thực tế, những người nhận được tài sản thông qua các hình thức hợp đồng ngay
thẳng (vay, mượn, thuê… tài sản) sau đó “bỏ trốn” (trốn khỏi nơi cư trú, nơi làm
việc) sẽ thuộc một trong hai trường hợp:
Thứ nhất, người đó vì một lý do nào đó đã không còn khả năng trả lại tài
sản.Trong trường hợp lý do đó là lý do khách quan (như: Kinh doanh thua
lỗ…), hành vi “không trả lại tài sản” của người đó không có lỗi cố ý trực tiếp
nên không phải là hành vi chiếm đoạt, việc người đó bỏ trốn chỉ là “bất đắc dĩ”
do “vỡ nợ” chứ không phải là một thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản. Còn trong
trường hợp lý do dẫn đến việc người đó không có khả năng trả lại tài sản là do
lỗi chủ quan: Người đó đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp (ví dụ:
Đánh bạc, buôn lậu…), thì hành vi này là hành vi chiếm đoạt, vì hành vi sử
dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là sự định đoạt trái pháp luật của chủ
thể đối với tài sản không phải của mình (người đó đương nhiên nhận thức rõ
được tính trái pháp luật này và do đó, hành vi này được thực hiện với lỗi cố ý
trực tiếp), và làm cho chủ tài sản mất hẳn tài sản; nhưng trường hợp này đã
được quy định là một hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản.
6


Thứ hai, người đó có khả năng trả lại tài sản nhưng bỏ trốn cùng với số
tài sản nhận được.Trường hợp này trùng với trường hợp “đến thời hạn trả lại
tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”, chính hành vi
bỏ trốn cùng số tài sản nhận được đã thể hiện thái độ “cố tình không trả” của
chủ thể.Như vậy,Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã hình sự hóa “hành vi
khi đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình
không trả” thành một hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản, đồng thời phi hình sự hóa “hành vi bỏ trốn” trong tội này, là một bước
tiến rõ rệt trong việc hoàn thiện các quy định của luật hình sự về tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự
năm 2015 còn bỏ chữ “để” trong cụm từ “dùng thủ đoạn gian dối “để” chiếm
đoạt tài sản đó” tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999, thành “dùng
thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó”, đây cũng là một bước tiến của Bộ luật
Hình sự năm 2015, nhằm tránh việc dấu hiệu chiếm đoạt trong tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản bị nhầm lẫn thành “mục đích chiếm đoạt” thay vì là
“hành vi chiếm đoạt được” như đúng bản chất pháp lý của tội này.
Thứ ba, thay đổi về các dấu hiệu định khung hình phạt.Điểm e khoản 2,
điểm b khoản 3, điểm b khoản 4 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 sử dụng
các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” làm tình tiết định khung hình phạt của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nhưng cũng như ở các tội khác, Điều 175 Bộ
luật Hình sự năm 2015 không quy định các tình tiết này làm tình tiết định khung
hình phạt, đây cũng chính là một điểm mới mang tính tiến bộ của Bộ luật Hình
sự năm 2015, bởi lẽ:
Đây là những “hậu quả gián tiếp” do hành vi phạm tội gây ra, mà việc
định tội, định hình phạt đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

cần phải căn cứ vào hậu quả trực tiếp của hành vi nguy hiểm cho xã hội, chứ
7


không phải là hậu quả gián tiếp (hậu quả mang tính chất suy diễn và nằm ngoài
khả năng dự đoán của người phạm tội).
Hơn nữa những “hậu quả nghiêm trọng” hay “rất nghiêm trọng”, “đặc biệt
nghiêm trọng” như trên mang tính không cụ thể, nếu quy định vào trong luật
như Bộ luật Hình sự năm 1999, thì sẽ dẫn đến việc phải có văn bản hướng dẫn
dưới luật thì mới thi hành được luật, mà luật hình sự thì phải cụ thể và rõ ràng,
dễ hiểu để mọi người đều có thể hiểu và thi hành, tránh phát sinh nhiều văn bản
hướng dẫn dưới luật; như vậy, quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 cụ thể
hơn và mang tính tiên liệu thực tiễn cao hơn Bộ luật Hình sự năm 1999.Bên
cạnh đó, điểm b khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định thêm
tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” làm tình tiết định khung hình
phạt, quy định này là hợp lý và cần thiết để răn đe, trừng trị đối với những
người mà tính “bất tín” đã trở thành bản tính.
Các mức hình phạt quy định tại khoản 3, 4, 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự
năm 2015 đều theo hướng có lợi hơn cho người phạm tội so với khoản 3, 4, 5
Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Khoản 3 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt từ
07 năm đến 15 năm tù, không có khoảng giao thoa với khoản 2. Còn khoản 3
Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt từ 05 năm đến 12
năm tù, có khoảng giao thoa với khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015
và nhẹ hơn khoản 3 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Khoản 4 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt từ
12 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân. Khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự
năm 2015 quy định mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù, không áp dụng tù
chung thân, có lợi hơn cho người phạm tội so với khoản 4 Điều 140 Bộ luật
Hình sự năm 1999, nhưng lại không có khoảng giao thoa với khoản 3 Điều 175

Bộ luật Hình sự năm 2015. Việc không có khoảng giao thoa này cần phải xem
8


xét lại, vì rõ ràng hành vi “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị
499.999.000 đồng và có thêm tình tiết tăng nặng khác” nguy hiểm hơn hành vi
“lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị 500.000.000 đồng và không có
thêm tình tiết tăng nặng” (thậm chí là có thể có thêm 01 tình tiết giảm nhẹ),
nhưng mức hình phạt cho hành vi thứ nhất không thể quá 12 năm, còn mức hình
phạt

cho

hành

vi

thứ

hai

thì

lại

không

thể

dưới


12

năm.

Khoản 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 về cơ bản là giống với
khoản 5 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999, chỉ khác ở chỗ: Khoản 5 Điều 140
Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hình phạt “bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm” có thể được áp
dụng đồng thời với hình phạt “bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, tức là
người phạm tội có thể vừa bị mất tài sản lại vừa bị “mất nghề”, nhưng theo
khoản 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, thì chỉ được áp dụng một trong
hai hình phạt bổ sung này, như vậy là nhân đạo hơn với người phạm tội.Có thể
nói, đối với tội lạm dụng tín nhiệm tài sản, Bộ luật Hình sự năm 2015 có nhiều
điểm mới mang tính khoa học, hợp lý, cụ thể, rõ ràng, nhân đạo và hoàn thiện
hơn hơn so với Bộ luật Hình sự năm 1999.

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
2.1 Căn cứ pháp lý tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
9


Để xác định một hành vi nguy hiểm diễn ra trên thực tế đã phạm vào tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, thì cơ quan, người có thẩm quyền phải
trả lời hành vi ấy có thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm quy định tại
Điều 175 BLHS hay không. Những dấu hiệu được mô tả trong cấu thành đó
gồm mặt khách thể, khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Vì vậy
nhằm tạo cơ sở cho việc nghiên cứu quá trình định tội đối với loại tội phạm này,

việc cần thiết là phải nghiên cứu làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội phạm trên
2.1.1Dấu hiệu khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Tội phạm nào cũng xâm phạm đến một hoặc một số khách thể nhất định,
đó là các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản, khách thể mà tội phạm này hướng đến là quan hệ sở
hữu về tài sản. Cũng như các tội xâm phạm sở hữu khác được quy định trong
BLHS, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu
tài sản, nghĩa là tác động đến các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền
định đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu được pháp luật bảo vệ.
Tài sản là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy
định tại Điều 175 BLHS là tài sản được quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự
năm 2015 gồm: “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản; tài sản là bao gồm
động sản và bất động sản”. Tuy nhiên, đối tượng là tài sản của tội phạm này
phải thỏa mãn các yếu tố nhất định sau:
Tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị và giá trị sử
dụng, là thước đo giá trị sức lao động của con người được kết tinh, đồng thời
phải thỏa mãn được các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người. Những
tài sản không có giá trị và giá trị sử dụng không thể trở thành đối tượng tác động
của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tài sản là đối tượng của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải là tài sản có chủ sở hữu, quyền sở hữu
10


tài sản của chủ sở hữu là hợp pháp và được pháp luật công nhận, có thể chuyển
dịch thông qua các giao dịch thể hiện bằng các hợp đồng dân sự cụ thể. Những
tài sản không có chủ sở hữu hoặc bị từ bỏ quyền sở hữu (vật bị đánh rơi, bỏ
quên, thất lạc,…) không phải là đối tượng tác động của tội phạm này.
Tài sản là đối tượng của tội phạm này còn là những giấy tờ có giá mà thông
qua đó, người phạm tội có thể nhận tiền hoặc phần tài sản nhất định (cổ phiếu,

tín phiếu, trái phiếu,…). Đối với những giấy tờ có giá mà giá trị của nó phải
thông qua tổ chức, cá nhân xác nhận mới thể hiện được giá trị thì không phải là
đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Đối với các loại tài sản có tính chất, công dụng đặc biệt (ma túy, vũ khí,
phương tiện, chất cháy, chất gây nổ, chất độc hại, chất phóng xạ,…) hoặc tài sản
là các loại giấy tờ có giá ghi danh (việc chuyển dịch, xác lập quyền sở hữu phải
thông qua các giao dịch pháp lý hợp pháp) hoặc các loại tài sản khác thuộc danh
mục hàng hóa, tài sản bị cấm giao dịch, hạn chế giao dịch như: đồ chơi bị cấm,
phế liệu gây ô nhiễm môi trường,…thì tùy trường hợp, việc chiếm đoạt tài sản
sẽ bị xử lý theo các tội danh khác tương ứng. Như vậy, tài sản là đối tượng của
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn những yếu tố nhất định
phản ánh đặc điểm vốn có của tài sản, về tính chất, giá trỉ sử dụng, có thể đưa
vào giao dich trong thực tiễn.
Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng tương tự
như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến
quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong
cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhà làm luật không quy
định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy,
nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành
11


vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội
còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
2.1.2 Dấu hiệu mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản

Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, những biểu
hiện bên ngoài của tội phạm, gồm hành vi khách quan, hậu quả và mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Hành vi khách quan: là những xử sự có sự kiểm soát của ý thức và điều
khiển của ý chí con người, là nguyên nhân gây thiệt hại cho các khách thể được
Luật hình sự bảo vệ. Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện các đặc điểm
sau: có tính nguy hiểm cho xã hội, là hoạt động có ý thức của chủ thể, nó trái
pháp luật hình sự và về hình thức thể hiện, hành vi khách quan của tội phạm
được thể hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động. Đối với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hành vi khách quan phải gây thiệt hại về vật
chất cho chủ sở hữu, nguy hiểm cho xã hội, khi thực hiện hành vi, chủ thể đã
được tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng và được thể hiện dưới dạng hành động nhận
tài sản của người khác bằng các hình thức của hợp đồng, sau khi có được tài sản
người phạm tội đã có hành vi chiếm đoạt tài sản đó. Ví dụ M ký hợp đồng mua
của Công ty xuất nhập khẩu Y 200 chiếc ti vi Sam-sung với tổng giá trị 400
triệu đồng; M đã nhận đủ 200 chiếc ti vi, nhưng không chịu thanh toán hết tiền
cho Công ty.
Người phạm tội muốn tạo lập cho mình quyền chiếm giữ, sử dụng, định
đoạt đối với tài sản của người khác, họ sử dụng các cách thức làm hao hụt giá trị
và giá trị sử dụng của tài sản, khiến nó không thể trở về trạng thái ban đầu được
hoặc vì muốn biến tài sản của người khác (một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản)
12


thành tài sản của mình nên đã có các hành vi, thủ đoạn gian dối như lật lọng,
chây ì, thông tin giả dối về việc bị người thứ ba chiếm đoạt tài sản đó hoặc bỏ
trốn, cố ý không trả lại tài sản cho chủ sở hữu,…khi đến hạn phải trả lại tài sản
theo hợp đồng. Vì vậy việc gây thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm trên,
nên tội phạm chỉ được coi là hoàn thành khi đã gây ra những thiệt hại về vật
chất cho chủ tài sản. Hành vi bỏ trốn trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt

tài sản trong thực tiễn rất khó để xác định. Trong thực tiễn, một người sau khi
vay, mượn, thuê tài sản bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn, nhưng để
chứng minh họ có bỏ trốn, nhằm chiếm đoạt tài sản hay không là vấn đề còn
nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, nên đã phát sinh nhiều quan điểm
khác nhau, có quan điểm cho rằng, chỉ cần xác định được tình tiết một người
nào đó sau khi nhận được tài sản bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn;
không trả tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp là đủ cơ sở kết
luận người đó phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, không phụ thuộc
vào lý do bỏ trốn của họ là nhằm mục đích gì. Trong khi đó, thực tế đã chứng
minh, không phải tất cả mọi trường hợp bỏ trốn đều có ý thức chiếm đoạt tài
sản. Nếu người phạm tội không có hành vi gian dối, không bỏ trốn để chiếm
đoạt tài sản nhưng lại dùng tài sản đó (tài sản nhận từ chủ sở hữu hoặc người
quản lý tài sản một cách hợp pháp) vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không
có khả năng trả lại tài sản thì cũng bị coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản. Hiểu như thế nào là dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là một vấn đề
không đơn giản, nếu theo khái niệm thông thường thì “bất hợp pháp” là không
đúng với pháp luật không phân biệt đó là pháp luật gì và nếu hiểu bất hợp pháp
theo nghĩa rộng như vậy thì hấu hết các trường hợp mất khả năng thanh toán nợ
cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đều là hành vi lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thì việc sử dụng tài sản vào mục
đích bất hợp pháp là trường hợp dùng tài sản vào việc thực hiện tội phạm thì
13


mới coi là bất hợp pháp với ý nghĩa là dấu hiệu cấu thành tội phạm như: dùng
tiền vay được để hối lộ, để buôn lậu, để mua bán hàng cấm, để mua bán ma tuý,
vũ khĩ quân dụng, chất độc, chất cháy... Ngoài ra, trong một số trường hợp do
làm ăn thua lỗ đã mất khả năng thanh toán, nhưng vẫn tiếp tục vay mượn tiền
hoặc tài sản rồi dùng tiền hoặc tài sản đó trả nợ cũ, hoặc dùng tài sản vay được
ăn tiêu, mua sắm vật dụng trong gia đình, mua đất xây nhà... Nếu không dùng

tài sản vào mục phạm tội mà dùng vào mục đích bất hợp pháp khác thì phải xem
xét đánh giá từng trường hợp cụ thể, để xác định hành vi đó đã cấu thành tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chưa. Cần phân biệt, dùng tài sản vào mục
đích bất hợp pháp với việc sử dụng tài sản không đúng mục đích đã thoả thuận
khi vay, mượn. Ví dụ: Khi vay tiền, nói là để phát triển chăn nuôi ( nuôi gà công
nghiệp), nhưng sau khi vay được tiền lại không nuôi gà nữa mà dùng tiền vay
được vào việc nuôi tôm sú, nhưng vì không có kỹ thuật nên bị thua lỗ dẫn đến
không có khả năng thanh toán thì hành vi của người phạm tội không cấu thành
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà là phạm tội sử dụng trái phép tài
sản quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sự.
Hậu quả của tội phạm: Là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho
những quan hệ xã hội là khách thể được Luật hình sự bảo vệ. Hậu quả của tội
lạm dụng tín nhiệm gây ra được xác định thông qua đặc điểm về chất và lượng
của chính đối tượng tác động. Tại Điều 175 BLHS đã chỉ ra rất rõ rằng, hành vi
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ 4 triệu đồng trở lên mới bị xử lý về tội
phạm này. Trong trường hợp giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 4 triệu đồng thì
người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc vào một trong các
trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa xóa án tích
mà còn vi phạm . Do đặc điểm của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản là người phạm tội chiếm đoạt tài sản đang do mình quản lý, do đó nói chung
14


không có trường hợp phạm tội chưa đạt, vì nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt
được tài sản thì cũng có nghĩa là chưa có hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong
trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối, nhưng thủ đoạn đó không
lừa được chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản nên không chiếm đoạt được tài
sản đang do mình quản lý thì mới coi trường hợp phạm tội này là ở giai đoạn
phạm tội chưa đạt ( đã dùng thủ đoạn gian dối nhưng vì những lý do khách quan

nên người phạm tội không thực hiện được thủ đoạn đó).
Mối quan hệ nhân quả và hậu quả.
Nguyên tắc quan trọng nhất của Luật hình sự, một người phải chịu trách
nhiệm hình sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi hậu quả đó là kết quả của
hành vi trái pháp luật mà thực hiện họ gây ra. Do đó, khi một người thực hiện
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS và chỉ buộc họ
phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi của mình khi giữa hành vi và hậu quả
có mối quan hệ nhân quả. Hậu quả là kết quả tất yếu do hành vi trái pháp luật
hình sự gây ra;
Một hành vi có thể dẫn đến nhiều hậu quả và một hậu quả có thể xuất phát
từ nhiều hành vi khác nhau. Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Theo khoản 1
của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 4.000.000 đồng trở lên
mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 4.000.000 đồng thì
phải kèm theo điều kiện đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều
168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại
hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
2.1.3Dấu hiệu mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
15


Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lỗi của người phạm tội
luôn là lỗi cố ý trực tiếp, họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước hậu quả và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Ban đầu, khi giao
kết hợp đồng, người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện hợp đồng đó đúng theo
thỏa thuận, chỉ sau khi có được tài sản, ý thức chiếm đoạt tài sản mới hình
thành,vì vậy, ý thức chiếm đoạt của họ được xác định tại thời điểm họ chiếm

đoạt tài sản chứ không xác định tại thời điểm họ nhận tài sản. Đây là một trong
những căn cứ quan trọng để xác định người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội phạm nào
Ngoài ra, đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mục đích
chiếm đoạt tài sản được coi là dấu hiệu bắt buộc, nó phải gắn liền với các hành
vi dùng thủ đoạn gian dối, bỏ trốn hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất
hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản sau khi có được tài sản thông
qua hợp đồng hợp pháp. Nếu không có mục đích chiếm đoạt tài sản hoặc mục
đích chiếm đoạt có trước thời điểm nhận tài sản thông qua hợp đồng, thì người
thực hiện hành vi phạm tội , phạm vào tội khác.
2.1.4Dấu hiệu về chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Chủ thể của tội phạm nói chung là người có năng lực trách nhiệm hình sự
và đạt độ tuổi theo quy định. Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt
Nam chỉ có thể là cá nhân, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
mình, thì người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự khi thực
hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác.
Đối với người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội này khi hành vi thỏa mãn cấu thành tội phạm quy định tại khoản 3 và
khoản 4 Điều 175 BLHS. Tuy nhiên, cần chú ý rằng, chủ thể của tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải là người tham gia vào hợp đồng thuê, vay,
16


mượn tài sản và sau đó không thực hiện đúng cam kết như đã thỏa thuận trong
hợp đồng ban đầu nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản đó. Việc giao kết hợp đồng
được thực hiện một cách hợp pháp theo đúng trình tự, thủ tục và các điều kiện
nhất định về giao kết hợp đồng dân sự mà pháp luật quy định. Tóm lại, bốn yếu
tố của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, không tách rời nhau, là cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho việc định tội

danh đối với tội phạm này được chính xác, vì vậy quá trình tiến hành định tội
danh đối với tội phạm trên, cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự không
được bớt hoặc thêm bắt kỳ dấu hiệu nào. Mọi sự thêm, bớt hoặc xác định không
đúng dấu hiệu nào đó để định tội một sai trái đều là hành vi vi phạm pháp luật.
Lỗi, động cơ và mục đích phạm tội
Lỗi: Người thực hiện hành vi bị truy tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản là lỗi cố ý, chứ không phải do vô ý. Tùy từng trường hợp phạm tội cụ
thể cơ quan tố tụng sẽ xem xét các tình tiết, đánh giá các hành vi nhằm xác định
người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp để tuyên buộc người
phạm tội chịu các mức hình phạt cụ thể.
Động cơ và mục đích phạm tội: Động cơ và mục đích của người phạm
tội khi thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm là nhằm chiếm đoạt tài sản của
người khác. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có
sau khi có được tài sản bằng các hình thức hợp lý, hợp pháp nhưng ký hợp
đồng, cam kết nhằm thỏa thuận giao tài sản. Nếu mục đích chiếm đoạt tài sản có
trước và việc tiếp cận nhằm chiếm đoạt thì có thể xác định hành vi đó là thủ
đoạn gian dối của tội lừa đảo chứ không phải là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản.2
Ví dụ: A thực hiện thủ tục vay vốn hợp pháp tại ngân hàng để thực hiện
kinh doanh vận tải, khi vay được tiền A không kinh doanh vận tải theo cam kết
2

Bình luận khoa học bộ luật hình sự phần các tội phạm – Đinh Văn Quế

17


mà lấy tiền vay để hối lộ. A bị cơ quan tố tụng xem xét theo hành vi lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chứ không phải tội lừa đảo.Ngược lại nếu cùng
trường hợp trên nhưng A giả mạo giấy tờ, tài liệu, hợp đồng nhằm tiếp cận ngân

hàng để vay vốn thì tùy từng trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể A có thể bị
xem xét truy cứu theo tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngân hàng chứ không phải
tội lạm dụng tín nhiệm.
2.2 Hình phạt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
BLHS năm 2015 quy định có bốn khung hình phạt áp dụng với người
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và được sắp xếp theo mức độ tăng dần về
mức độ nghiêm khắc gồm 4 khung:
Khung 1 (khung hình phạt cơ bản): Quy định hình phạt tù từ sáu tháng đến
ba năm
Khung 2 (khung hình phạt tăng nặng thứ nhất): Quy định hình phạt tù từ
hai năm đến bảy năm.
Khung 3 (khung hình phạt tăng nặng thứ hai): Quy định hình phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm.
Khung 4 (khung hình phạt tăng nặng thứ ba): Quy định hình phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm, hoặc tù chung thân.
Theo quy định tại khoản 1 điều 175 BLHS, người nào thực hiện một
trong những hành vi được mô tả tại khoản này chiếm đoạt tài sản của người
khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000
đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị
kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170,
171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản
có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Với mức cao nhất
18


của khung hình phạt tối đa là 03 năm, đây là loại tội ít nghiêm trọng theo phân
loại tội phạm trong BLHS 2015.
Khoản 2 quy định về các trường hợp tăng nặng mà nếu phạm tội thuộc một

trong các trường hợp đó, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Tái phạm nguy hiểm.
Đây là những trường hợp căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của hành vi liên
quan đến giá trị tài sản bị chiếm đoạt, đến hậu quả từ hành vi chiếm đoạt và tính
chất nghiêm trọng của hành vi chiếm đoạt trên thực tế để làm tình tiết định
khung tăng nặng hình phạt đối với người có hành vi công nhiên chiếm đoạt tài
sản. Với mức cao nhất của khung hình phạt là 07 năm, đây thuộc loại tội
nghiêm trọng.
Trường hợp chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng hoặc lợi dụng thiên tai, dịch bệnh thì bị phạt tù từ 07 năm đến
12 năm.
Trường hợp chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên thì bị phạt
tù từ 12 năm đến 20 năm, thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài
sản.
19


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội có tính chất xâm
phạm đến sở hữu. Nó trực tiếp gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu, do
vậy trong chế tài của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, các nhà lập pháp đã quy

định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung để Tòa án tùy từng trường hợp mà lựa
chọ áp dụng. Việc áp dụng chế tài này là tước đi một khoản tiền nhất định của
người phạm tội để sung vào công quỹ Nhà nước. Chỉ thu tài sản thuộc sở hữu
của người phạm tội, không thu các loại tài sản là đồ trang sức, vật kỷ niệm của
người phạm tội và khi tịch thu tài sản của người phạm tội vẫn phải để lại cho
người phạm tội và gia đình họ điều kiện sinh sống
2.3. Các Trường hợp phạm tội cụ thể
2.3.1 Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1, điều 175 Bộ
luật hình sự
“ Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản
của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới
4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt
hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,
169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc
tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản
đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình
không trả;
Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất
hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”
20


Quy định về hành vi khách quan của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản” tại khoản 1 Điều 175 BLHS 2015 được giải thích cụ thể như sau:
So sánh với quy định tại Điều 140 BLHS 1999 thì Điều 175 BLHS 2015

bổ sung thêm một trường hợp chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới 4.000.000 đồng là: “tài sản là phương
tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh
thần đối với người bị hại”. Đây là một quy định mang tính xác định phân loại
tài sản, theo phương cách kiếm sống là phương tiện kiếm sống chính của người
bị hại. Tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại. Di vật, kỷ
vật có được xem là tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị
hại
- Về hành vi khách quan của tội phạm:
Khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định 03 hành vi
khách quan của tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là sau khi vay, mượn,
thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các
hình thức hợp đồng:
- Dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó;
- Đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, có khả năng nhưng cố tình
không trả;
- Sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả
lại tài sản.
Mặt khác, hành vi “Sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến
không có khả năng trả lại tài sản” cũng là một quy định cụ thể, được hiểu là
dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp ,theo khái niệm thông thường thì “bất
hợp pháp” là không đúng pháp luật, không phân biệt đó là pháp luật gì.
Hậu quả mà tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra là thiệt hại về tài sản
mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Theo khoản 1 Điều 175 BLHS năm
21


năm 2015 thì giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ bốn triệu đồng trở lên mới cấu
thành tội phạm. Nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới bốn triệu đồng thì phải kèm
theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về

hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài .Còn theo
khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 thì bỏ điều kiện “gây hậu quả nghiêm
trọng” và thêm một số các điều khác như: "Đã bị kết án về một trong các tội
quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội; Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị
hại và gia đình họ; Tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về
mặt tinh thần đối với người bị hại”.
2.3.2 Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2, điều 175 Bộ
luật hình sự
a.Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức
Đây là trường hợp phạm tội có đồng phạm và có sự cấu kết chặt chẽ
giữa những người cùng thực hiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nghĩa là giữa
những người đồng phạm vừa có sự liên kết chặt chẽ với nhau vừa có sự phân
hóa vai trò, phân công nhiệm vụ tương đối rõ ràng cụ thể. Nhóm tội phạm
được hình thành với phương hướng hoạt động có tính lâu dài, bền vững.
Trong nhóm tồn tại quan hệ chỉ huy – phục tùng. Trong đó có người tổ chức,
người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tùy trường hợp có thể có
người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi giục hoặc người
giúp sức nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới
thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Người thực hành trong tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản là người trực tiếp thực hiện thủ đoạn gian dối để chiếm
đoạt tài sản
22


Tuy nhiên, không phải trường hợp lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên mà tuỳ từng
trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người

xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người
thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ
chức được quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức cũng có những đắc điểm riêng như:
Người thực hành trong vụ lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người
trực tiếp thực hiện hành vi, những thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản từ chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản.
b. Có tính chất chuyên nghiệp
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản “có tính chất chuyên nghiệp”: Tức là người
phạm tội lấy việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm nguồn thu nhập chính và là
phương tiện sinh sống của chính mình, người phạm tội phải thực hiện hành vi
lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhiều lần. Nếu phạm tội nhiều lần nhưng họ không
lấy việc phạm tội là phương tiện sinh sống chủ yếu thì không coi là có tính chất
chuyên nghiệp mà là trường hợp phạm tội nhiều lần.
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là một trong những tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 52 BLHS hiện hành. Tình tiết
trên đã được hướng dẫn và quy định rõ ràng chi tiết tại Nghị quyết 01/2006/NQHĐTP, cụ thể phải có đầy đủ những điều kiện sau thì mới áp dụng tình tiết "
phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”:
Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã
bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu
chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích;
Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của
việc phạm tội làm nguồn sống chính. Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần
23


trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy
từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết
là "phạm tội nhiều lần”, "tái phạm” (hoặc "tái phạm nguy hiểm”) và "phạm tội
có tính chất chuyên nghiệp”

Đối với tội phạm mà trong điều luật có quy định tình tiết "phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp”là tình tiết định khung hình phạt thì không được áp dụng tình
tiết đó là tình tiết tăng nặng. Trường hợp điều luật không có quy định tình tiết
này là tình tiết định khung hình phạt thì phải áp dụng là tình tiết tăng nặng
c)Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan,
tổ chức để phạm tội, người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi
lợi dụng chức vụ, quyền han hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức cũng
phải thoả mãn những yếu tố sau:
Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực
hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công
vụ. Nếu những người này, lợi dụng chức vụ để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản thì mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội.
Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực
hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông
thường là người có chức vụ, nhưng cũng có thể là người không có chức vụ
nhưng được giao hoặc được thạm gia thực hiện một công vụ.
Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là người phạm tội thông qua cơ
quan, tổ chức mà mình là thành viên để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Thông thường, người phạm tội trường hợp này là thông qua các hợp đồng kinh

24


tế để nhận được tài sản rồi sau đó lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức khác để
thực hiện những thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Ví dụ : Theo nội dung bản án, từ tháng 3/2012 đến ngày 31/12/2012,
Nguyễn Công Thanh đã lợi dụng sơ hở trong khâu kiểm quỹ đã chiếm đoạt 1,6

tỷ đồng và 270 lượng vàng SJC.Võ Sỹ Lân và Trần Kim Thành dù biết được
hành vi sai phạm của Thanh, nhưng lại không trình báo mà vẫn ký biên bản
kiểm quỹ đủ, đồng thời không có biện pháp ngăn chặn mà đồng ý để Thanh
khắc phục.Tuy nhiên, Thanh không khắc phục mà còn tiếp tục chiếm đoạt thêm
gần 4,5 tỷ đồng. Tổng số tiền mà Thanh đã chiếm đoạt trên 18 tỷ đồng. Ngày
25/8/2017, TAND tỉnh Tây Ninh đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm bị cáo Nguyễn
Công Thanh (nguyên Thủ quỹ Phòng giao dịch Long Hoa Ngân hàng Á Châu
chi nhánh Tây Ninh) về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Cùng ra tòa
với bị cáo Thanh còn có các bị cáo Võ Sỹ Lân (nguyên giám đốc Phòng giao
dịch Long Hoa) và bị cáo Trần Kim Thành (nguyên Trưởng bộ phận ngân quỹ,
Kiểm soát viên giao).Sau khi nghị án, HĐXX đã tuyên phạt, bị cáo Nguyễn
Công Thanh 20 năm tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; bị cáo Võ
Sỹ Lân (nguyên giám đốc Phòng giao dịch Long Hoa) 9 năm tù tội “Lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 2 năm tù về tội "Che giấu tội phạm". Tổng hợp
hình phạt 11 năm tù; bị cáo Trần Kim Thành (nguyên Trưởng bộ phận ngân quỹ,
Kiểm soát viên giao) 6 năm tù “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 1
năm tù về tội "Che giấu tội phạm". Tổng hợp hình phạt 7 năm tù.
Ngoài án tù, Tòa cũng buộc bị cáo Nguyễn Công Thanh bồi thường toàn bộ
số tiền chiếm đoạt là trên 18 tỷ đồng
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản là người phạm tội có những mánh khoé, cách thức thâm hiểm làm
cho người bị hại và những người khác khó lường trước để đề phòng. Thông
25


×