Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Pháp luật về người đại diện trong doanh nghiệp Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần Môi trường và Công trình đô thị Thanh Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.37 KB, 52 trang )

TÓM LƯỢC
Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay đang trên con đường phát triển và hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Kết quả là các hoạt động kinh tế diễn ra môt cách
thường xuyên, liên tục và không kém phần sôi động. Trong vòng xoáy của sự phát
triển đó, công cụ hiệu quả nhất để các nhà kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận trên thị
trường đó là thành lập các tổ chức kinh tế dưới dạng các loại hình doanh nghiệp. Điều
này đòi hỏi pháp luật về doanh nghiệp nói riêng cũng như pháp luật kinh tế nói chung
phải được hoàn thiện, góp phần tạo ra hành lang pháp lý vững chắc, an toàn và bình
đẳng cho các nhà đầu tư. Trong đó, vấn đề pháp lý về người đại diện trong doanh
nghiệp thực sự là một vấn đề pháp lý quan trọng bởi lẽ chủ thể là người thay mặt
doanh nghiệp trong các giao dịch với chủ thể khác cũng như các quan hệ quản trị nội
bộ của doanh nghiệp. Pháp luật doanh nghiệp hiện hành mặc dù đã có những sửa đổi
bổ sung nhất định, khắc phục được phần nào hạn chế bất cập của Luật cũ nhưng vẫn
còn tồn tại vấn đề nhất định như xác định các hình thức đại diện trong giao dịch của
doanh nghiệp; phạm vi thẩm quyền của người đại diện; trách nhiệm của doanh nghiệp
đối với các giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện; vấn đề chấp nhận hay
không các thông lệ, tập quán thương mại quốc tế về quan hệ đại diện trong các giao
dịch thương mại của doanh nghiệp…. Cần có những giải pháp pháp lý phù hợp, kịp
thời để giải quyết và hạn chế phần nào các tranh chấp liên quan.
Từ thực tế đó khóa luận tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt
Nam về nội dung, hình thức, phạm vi, thẩm quyền, vai trò của người đại diện trong
doanh nghiệp. Dựa trên những phân tích, những bất cập đã được chỉ ra khóa luận kiến
nghị một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về người đại diện.

1


LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu việc thực thi pháp luật trong doanh nghiệp giúp ích rất lớn cho quá
trình chuẩn bị hành trang ra trường của sinh viên chuyên ngành. Được sự giúp đỡ của
Khoa Kinh tế - Luật, Trường Đại học Thương Mại và sự hỗ trợ của Công ty Cổ phần


Môi trường và Công trình đô thị Thanh Hoa em đã được đi thực tế tại doanh nghiệp
đồng thời có cơ hội nghiên cứu tìm hiểu pháp luật về người đại diện trong doanh
nghiệp. Quá trình này giúp em vận dụng những kiến thức đã được học, được tích lũy
khi ngồi trên ghế nhà trường, nhằm có cái nhìn thực tế hơn về pháp luật trong đời sống
hiện nay và là cơ sở quan trọng giúp em thực hiện khóa luận này.
Để hoàn thành khóa luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thạc sỹ Đỗ
Phương Thảo, người đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết Khóa luận tốt
nghiệp. Em chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Kinh tế - Luật, Trường Đại
học Thương Mại đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm em học tập. Em
chân thành cảm ơn Ban giám đốc Công ty Cổ phần Môi trường và Công trình đô thị
Thanh Hoa đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi để em thực tập tại quý công ty.
Do những hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên Khóa luận tốt nghiệp của em
không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía công ty
và các thầy, cô giáo.
Cuối cùng em kính chúc quý Thầy, Cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự
nghiệp cao quý của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


MỤC LỤC
TÓM LƯỢC.................................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN..............................................................................................................ii
MỤC LỤC................................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..........................................................................v
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài..........................................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.........................................................1
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.....................................................................3

4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu..............................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................4
6. Kết cấu khóa luận......................................................................................................5
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN TRONG
DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN TRONG DOANH
NGHIỆP........................................................................................................................ 6
1.1. Những vấn đề lý luận về người đại diên trong doanh nghiệp..................................6
1.1.1. Khái niệm người đại diện trong doanh nghiệp.....................................................6
1.1.2. Các hình thức đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp.................................7
1.1.3. Vai trò người đại diện trong doanh nghiệp..........................................................9
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh người đại diện trong doanh
nghiệp.......................................................................................................................... 11
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật..................................................................................11
1.2.2. Nội dung pháp luật về người đại diện trong doanh nghiệp................................12
1.3. Những nguyên tắc của pháp luật điều chỉnh vấn đề pháp luật về người đại diện
trong doanh nghiệp......................................................................................................19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU CHỈNH NGƯỜI
ĐẠI DIỆN TRONG DOANH NGHIỆP...................................................................20
2.1. Thực trạng pháp luật về người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp.................20
2.1.1. Điều kiện, tiêu chuẩn và số lượng người đại diện theo pháp luật trong doanh
nghiệp.......................................................................................................................... 20
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong Doanh nghiệp......22
2.1.3. Chấm dứt đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.........................................24
2.1.4. Thay đổi người đại diện theo pháp luật.............................................................26
2.2. Thực trạng pháp luật về người đại diện theo uỷ quyền của doanh nghiệp...................26
2.2.1. Điều kiện, tiêu chuẩn người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp.............26
3


2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp...........28

2.2.3. Chấm dứt đại điện đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp............................30
2.3. Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các giao dịch do người đại diện xác lập,
thực hiện...................................................................................................................... 30
2.4. Thực trạng thực hiện quy định về người đại diện trong doanh nghiệp tại Công ty
cổ phần Môi trường và Công trình đô thị Thanh Hoa..................................................32
2.4.1. Khái quát về Công ty cổ phần Môi trường và Công trình đô thị Thanh Hoa............33
2.4.2. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật về đại diện tại Công ty cổ phần Môi
trường và Công trình đô thị Thanh Hoa......................................................................33
2.5. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu.............................................................35
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
NGƯỜI ĐẠI DIỆN TRONG DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MÔI
TRƯỜNG VÀ CÔNG TRÌNH ĐÔ THỊ THANH HOA..........................................38
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về người đại diện trong doanh nghiệp................38
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về người đại diện trong
doanh nghiệp................................................................................................................ 39
3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu........................................................42
KẾT LUẬN................................................................................................................44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt/ký hiệu
BLDS
NĐ-CP
LDN
HĐTV
HĐQT
TNHH

ĐHĐCĐ
WTO
CTCP
BGĐ
XHCN
UBND


Cụm từ đầy đủ
Bộ luật Dân sự
Nghị định-Chính phủ
Luật doanh nghiệp
Hội đồng thành viên
Hội đồng quản trị
Trách nhiệm hữu hạn
Đại hội đồng cổ đông
Tổ chức thương mại thế giới
Công ty cổ phần
Ban giám đốc
Xã hội chủ nghĩa
Uỷ ban nhân dân
Giám đốc

QĐ/ UBND

Quyết định/ ủy ban nhân dân

CP

Chính phủ


5


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài.
Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay đang trên con đường phát triển và hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Quá trình này đặt ra những đòi hỏi nhất định với hệ
thống pháp luật nói chung cũng như pháp luật về doanh nghiệp nói riêng. Để đáp ứng
yêu cầu điều chỉnh và quản lý kinh tế, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp đã không
ngừng hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý để các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham
gia thành lập các loại hình doanh nghiệp. Tiêu biểu là sự ra đời của Luật doanh nghiệp
năm 2014 thay thế Luật doanh nghiệp năm 2005 đã góp phần hoàn thiện khung pháp
lý các mô hình tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần và đồng thời, tiếp cận và tuân
thủ các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp đang được áp dụng trên thế giới đã phần nào
đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế. Tuy nhiên, hơn hai năm đi vào thực
hiện các quy định pháp luật Việt Nam về đại diện của doanh nghiệp, còn bộc lộ nhiều
hạn chế, thiếu xót, còn tồn tại những chế định chưa được quy định rõ ràng, thiếu nhất
quán như xác định các hình thức đại diện trong giao dịch của doanh nghiệp; phạm vi
thẩm quyền của người đại diện, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các giao dịch do
người đại diện xác lập, thực hiện; vấn đề chấp nhận hay không các thông lệ, tập quán
thương mại quốc tế về quan hệ đại diện trong các giao dịch thương mại của doanh
nghiệp...Từ những tồn tại của pháp luật dẫn đến hệ quả là việc áp dụng pháp luật
không đúng, không thống nhất, đồng thời gây khó khăn cho chính các cơ quan nhà
nước và ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh.
Đặc biệt trong quá trình thực tập tại Công ty cổ phần Môi trường và Công trình
đô thị Thanh Hoa tác giả đã nhận thấy đây thực sự là một vấn đề pháp lý quan trọng,
cần được tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi trong thời gian tới.Vì vậy, việc tiếp tục tìm hiểu,
nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật về người đại diện là một vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn trong thời điểm hiện tại.

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về người đại
diện trong doanh nghiệp - Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần Môi trường và
Công trình đô thị Thanh Hoa” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp cho mình với mong
muốn làm rõ quy định pháp luật về người đại diện trong doanh nghiệp và đề xuất một
số ý kiến hoàn thiện quy định về chế tài này.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.
Trên thực tế, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này theo các cấp độ và
dưới nhiều góc độ khác nhau, cụ thể:


Một số luận văn, luận án đã tiếp cận những vấn đề pháp lý về người đại diện ở
những góc độ chuyên biệt như: Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2006: “Pháp luật về
hợp đồng đại diện thương mại và thực tiễn áp dụng”của tác giả Nguyễn Thị Thúy Nga;
Luận văn thạc sĩ Kinh tế năm 2007: “Kiểm soát và quản lý hiệu quả chi phí đại diện
trong công ty cổ phần” của tác giả Hà Thị Thu Hằng; Luận văn thạc sĩ Luật học năm
2011: “Kiểm soát giao dịch tư lợi của người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp
2005” của tác giả Lý Đăng Thư.
Đáng chú ý là Luận án tiến sĩ Luật học năm 2012: “Đại diện cho thương nhân
theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay” của tác giả Hồ Ngọc Hiển và Luận văn
thạc sĩ Luật học năm 2014: “Người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định
của pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê Việt Phương. Tuy nhiên, các nghiên cứu này
đề cập đến những quy định của pháp luật thương mại về người đại diện cho thương
nhân hoặc phân tích trong một phạm vi hẹp về người đại diện theo pháp luật của công
ty. Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào tiếp cận một cách cụ thể các quy định
của pháp luật doanh nghiệp nhằm bổ sung, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về chế định người đại diện của doanh nghiệp, bao gồm người đại diện theo pháp
luật và người đại diện theo uỷ quyền. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về
vấn đề này mang tính thời sự sâu sắc.
Trên thế giới, học thuyết về đại diện đã được nghiên cứu từ rất sớm. Trong các
tác phẩm như The Wealth of Nations của Adam Smith; The Modern Corporation and

Private Property của Adolf A. Berle và Gardiner C. Means; Agency Law and Contract
Formation của Eric Rasmusen; Corporate Governane: Kiểm soát quản trị của Bob
Tricker…các nhà nghiên cứu đã dự đoán rằng, xu hướng phát triển của các công ty
hiện đại cần có sự phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý, kiểm soát công ty.
Còn đối với tình hình nghiên cứu trong nước, ở phạm vi và góc độ khác nhau, đã
có những công trình nghiên cứu, bài viết đề cập chế định người đại diện của doanh
nghiệp, điển hình như: “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty
Việt Nam” của PGS.TS Bùi Xuân Hải đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4 năm
2007; “Người quản lý công ty theo Luật doanh nghiệp 1999- Nhìn từ góc độ luật so
sánh” của PGS.TS Bùi Xuân Hải đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp lý số 4 năm 2005,
các nghiên cứu này phân tích những vấn đề cơ bản của học thuyết về đại diện và sử
dụng những luận điểm của học thuyết này để bình luận một số vấn đề trong thực tiễn
quản trị doanh nghiệp và pháp luật công ty Việt Nam.
Một số bài viết khác tiếp cận vấn đề đại diện dưới góc độ pháp luật dân sự như
“Chế định đại điện trong pháp luật Việt Nam và vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng”
của TS Nguyễn Vũ Hoàng đăng trên Tạp chí Luật học số 2 năm 2013 hay “Chế định


đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – Nhìn từ góc độ Luật so sánh” của TS
Ngô Huy Cương đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 4 năm 2009; đây là
những bài viết ngắn, phân tích một số khiếm khuyết của Bộ luật Dân sự 2005 về chế
định đại diện.
Những công trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quý giá và là một trong những
căn cứ giúp người viết có thêm nhiều thông tin quan trọng để phục vụ cho việc nghiên
cứu luận văn của mình. Tất cả các công trình nghiên cứu, các bài báo khoa học, sách
chuyên khảo, các luận án, luận văn đó đều có những thành công nhất định về một số
khía cạnh pháp lý về người đại diện, tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu cũng
như bài viết nào đi sâu nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về người đại diện tại
một doanh nghiệp cụ thể, đặc biệt là tại công ty Cổ phần Môi trường và Công trình đô
thị Thanh Hoa. Ngoài ra, luận văn còn có sự cập nhật của văn bản pháp luật mới, tiêu

biểu như Bộ luật Dân sự 2005 đã được sửa đổi năm 2015, Luật doanh nghiệp 2005 đã
được sửa đổi năm 2014, luận văn có sự so sánh các vấn đề liên quan đến người đại
diện giữa Luật doanh nghiệp 2005 và Luật doanh nghiệp 2014, BLDS 2005 và BLDS
2015.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
Mặc dù đề tài về người đại diện của doanh nghiệp không còn mới mẻ, nhưng sau
một thời gian thực tập tại công ty Cổ phần Môi trường và Công trình đô thị Thanh
Hoa, tác giả nhận thấy vấn đề nhận thức cũng như thực hiện các quy định pháp luật
hiện hành về người đại diện tại doanh nghiệp còn khá nhiều bất cập. Bên cạnh đó các
văn bản pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật liên quan đến doanh nghiệp,
người đại diện nói riêng không ngừng được đổi mới, đòi hỏi các doanh nghiệp phải
liên tục cập nhật pháp luật. Vì vậy, mong rằng kết quả của đề tài có thể được dùng làm
phương tiện tham khảo, nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật về
người đại diện tại Công ty Cổ phần Môi trường và Công trình đô thị Thanh Hoa.
Khóa luận làm rõ một số vấn đề lý luận về người đại diện của doanh nghiệp, chỉ
ra một số điểm chưa hợp lý trong quy định pháp luật điều chỉnh về người đại diện của
doanh nghiệp, phân tích một số tình huống thực tế về áp dụng thực hiện. Từ những
phân tích, bất cập đã chỉ ra, khóa luận kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện quy định
pháp luật về người đại diện.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp
luật Việt Nam về nội dung, hình thức, phạm vi, thẩm quyền, vai trò của người đại diện
trong doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện tại Công ty Cổ
phần Môi trường và Công trình đô thị Thanh Hoa.


Mục tiêu nghiên cứu: Tiếp cận vấn đề nghiên cứu về người đại diện trong doanh
nghiệp cả góc độ lý luận và thực tiễn. Từ những nghiên cứu, phân tích làm rõ được các
bất cập trong quy định pháp luật về người đại diện trong doanh nghiệp, những khó
khăn khi áp dụng quy định pháp luật. Dựa trên những bất cập đề xuất giải pháp hoàn

thiện quy định pháp luật, giảm những khó khăn khi áp dụng. Những mục tiêu cụ thể
của khóa luận như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản và nội dung pháp luật về người đại
diện trong doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về người đại diện trong
doanh nghiệp từ đó nêu lên ưu điểm và hạn chế.
- Đưa ra định hướng, giải pháp để hoàn thiện những quy định pháp luật về người
đại diện trong doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam
điều chỉnh các vấn đề về người đại diện trong doanh nghiệp, thông qua tình hình thực
tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Cổ phần Môi trường và Công trình đô
thị Thanh Hoa.
- Thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2006 –
2014, Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực thi hành. Giai đoạn 2013 – 2014, Quốc hội
tiến hành sửa đổi Luật doanh nghiệp và đã được thông qua, đánh dấu một bước ngoặt
lớn cho hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và ngành Luật doanh nghiệp nói riêng,
trong đó có chế định về người đại diện trong doanh nghiệp.
- Lĩnh vực: Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam,
cụ thể là Luật doanh nghiệp 2014 điều chỉnh về nội dung, hình thức, phạm vi, thẩm
quyền, vai trò của người đại diện trong doanh nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Tác giả đã sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp duy vật biện chứng để làm rõ các khái niệm liên quan đến người
đại diện của doanh nghiệp trong chương 1: Những vấn đề lý luận về người đại diện
trong doanh nghiệp và pháp luật về người đại diện trong doanh nghiệp.
- Phương pháp phân tích để làm rõ các quy định của pháp luật về một số vấn đề
cơ bản của chế định người đại diện của doanh nghiệp trong chương 1: Những vấn đề
lý luận về người đại diện trong doanh nghiệp và pháp luật về người đại diện trong
doanh nghiệp. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn và phương pháp tổng hợp nhằm

nêu lên thực trạng áp dụng các quy định của một số một số vấn đề cơ bản trong chế


định người đại diện của doanh nghiệp. Phương pháp này được dùng trong chương 2:
Thực trạng pháp luật về người đại diện trong doanh nghiệp.
- Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm nhằm xem xét lại những thực
trạng về người đại diện trong doanh nghiệp hiện tại để rút ra giải pháp trong chương 3:
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về người đại diện trong doanh nghiệp tại
Công ty cổ phần Môi trường và Công trình đô thị Thanh Hoa.
6. Kết cấu khóa luận.
Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, danh mục các chữ viết tắt, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung của dề tài gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về người đại diện trong doanh nghiệp và pháp
luật về người đại diện trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về người đại diện trong doanh nghiệp.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về người đại diện trong
doanh nghiệp tại Công ty cổ phần Môi trường và Công trình đô thị Thanh Hoa.


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN
TRONG DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN
TRONG DOANH NGHIỆP.
1.1. Những vấn đề lý luận về người đại diên trong doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm người đại diện trong doanh nghiệp.
Một điểm khác biệt, tiến bộ nữa cũng cần phải nhấn mạnh rằng, với thuật ngữ
“người đại diện” thì pháp luật Việt Nam đã làm rõ liệu một cá nhân, pháp nhân có thể
làm đại diện được không. Bộ luật Dân sự 2015 mới đã chính thức cho phép một pháp
nhân có thể ủy quyền cho một pháp nhân khác xác lập và/ hoặc thực hiện giao dịch
cho mình. Thực vậy, khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015 quy định đại diện là việc
cá nhân, pháp nhân (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp

nhân khác (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Nhưng nghiên cứu pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới thì thuật ngữ
“người” được hiểu khá rộng. Theo từ điển Luật học của New Zealand Butterworths
(xuất bản lần thứ 5) thì quan niệm người bao gồm cả tự nhiên nhân và pháp nhân
(Butterworths New Zealand Law Dictionary, 5th Edition). Bộ luật Washington (sửa
đổi) quan niệm rất rộng: “Thuật ngữ “người” có thể được đề cập bao gồm cả Hoa Kỳ,
hoặc bất kỳ nhà nước và vùng lãnh thổ nào, hoặc bất kỳ công ty công cộng nào, cũng
như một cá nhân” (The Revised Code of Washington). Vì thế pháp luật nhiều nước cho
phép pháp nhân có thể làm đại diện. Rõ ràng pháp luật thực định Việt Nam đã dự liệu
một cách đầy đủ về vấn đề này và cập nhập cho phù hợp với pháp luật quốc tế.
Người đại diện của doanh nghiệp là người nhân danh và vì lợi ích của doanh
nghiệp xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi đại diện. Với khái niệm này,
người đại diện của doanh nghiệp có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Về chủ thể: Chủ thể đại diện phải là cá nhân và bên được đại diện là doanh
nghiệp.
Chủ thể đại diện phải là cá nhân. Người đại diện của doanh nghiệp phải là người có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự là khả năng của chủ thể bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Năng lực hành vi dân
sự của cá nhân phụ thuộc vào lứa tuổi và được xác định theo pháp luật của từng quốc
gia. Theo pháp luật thực định Việt Nam, cá nhân được xem là có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ khi đã đủ 18 tuổi trở lên và không bị toà án tuyên bố là người mất năng lực
hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Chủ thể được đại diện là
doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục


đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp bao gồm: công ty Trách nhiệm
Hữu hạn, Hộ kinh doanh, công ty Cổ phần, Công ty Hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân.
- Về nghĩa vụ: Người đại diện của doanh nghiệp nhân danh và vì lợi ích của
doanh nghiệp khi thực hiện việc đại diện.

Người đại diện của doanh nghiệp là người có thẩm quyền nhân danh doanh
nghiệp tham gia, xác lập và thực hiện các giao dịch vì lợi ích của doanh nghiệp. Trong
mối quan hệ giữa người chủ sở hữu, cổ đông và người đại diện thì người đại diện được
coi như là người thụ ủy và phải có nghĩa vụ của người thụ ủy. Đây được xem là mối
quan hệ ủy thác tài sản, khi tài sản được đặt dưới sự kiểm soát của người được ủy thác
vì lợi ích của một người thụ hưởng hoặc cho một mục đích đã định. Người được ủy
thác có quyền và bổn phận và chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng theo các điều khoản
ủy thác và nhiệm vụ đặc biệt mà luật pháp áp đặt. Hay nói cách khác, người đại diện
của doanh nghiệp là người có trách nhiệm với tài sản của chủ sở hữu.
- Về phạm vi: Người đại diện của doanh nghiệp chỉ được nhân danh doanh
nghiệp xác lập, thực hiện giao dịch trong phạm vi đại diện.
Giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện chỉ có hiệu lực pháp lý đối với
người được đại diện khi và chỉ khi giao dịch đó phù hợp với phạm vi đại diện. Đặc
điểm này có ý nghĩa quan trọng và tác động đến hầu hết mọi vấn đề liên quan đến
quan hệ đại diện. Quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp, của người đại
diện và của người thứ ba có phát sinh hay không, được thực hiện như thế nào phụ
thuộc vào việc người đại diện có thực hiện đúng phạm vi đại diện của mình hay
không. Do đó, đòi hỏi người đại diện phải minh bạch trong việc cung cấp thông tin về
phạm vi đại diện trước khi xác lập các giao dịch.
1.1.2. Các hình thức đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp.
Đại diện của pháp nhân được thể hiện dưới hai hình thức: đại diện theo pháp luật
và đại diện theo ủy quyền.
1.1.2.1. Đại diện theo pháp luật
Khoản 1 điều 13 Luật doanh nghiệp 2014 quy định: “Người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư
cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa
án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.
Hoạt động của một doanh nghiệp được thông qua người đại diện theo pháp luật.
Người đại diện theo pháp luật sẽ nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập,

thực hiện các giao dịch thể hiện mối quan hệ với các chủ thể trong doanh nghiệp (như
với các thành viên, cổ đông góp vốn) hoặc với các chủ thể khác bên ngoài doanh


nghiệp (đối tác, khách hàng, cơ quan quản lý nhà nước...). Trong suốt quá trình hoạt
động, từ khi thành lập đến khi giải thể hoặc tuyên bố phá sản hay sáp nhập, chia, tách,
doanh nghiệp phải đảm bảo luôn có người đại diện theo pháp luật. Đối với hình thức
đại diện theo pháp luật, đây là là hình thức đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Một số đặc điểm cơ bản về người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải là cá nhân và có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thay
mặt doanh nghiệp để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhằm mang
lại lợi ích cho doanh nghiệp, do đó họ phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Thứ hai: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải thường trú tại Việt
Nam. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người thay mặt công ty trong
việc tổ chức nội bộ doanh nghiệp và giao dịch với bên ngoài. Do đó, người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp phải thường xuyên có mặt tại doanh nghiệp. Để thực
hiện tốt nghĩa vụ của mình, pháp luật bắt buộc người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp phải thường trú ở Việt Nam; trường hợp vắng mặt trên ba mươi ngày ở Việt
Nam thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại Điều lệ doanh
nghiệp để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp.
Thứ ba: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hành động nhân danh
doanh nghiệp. Trong quản lý doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật hành động
nhân danh doanh nghiệp - đại diện đương nhiên - và thay mặt các chủ sở hữu doanh
nghiệp - đại diện ủy quyền để thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp.
Thứ tư: Thù lao đại diện người đại diện theo pháp luật của công ty không hưởng
thù lao đại diện.
1.1.2.2. Đại diện theo ủy quyền.

Ủy quyền là phương tiện pháp lý cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân
và các chủ thể khác của quan hệ dân sự, bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham
gia vào các giao dịch dân sự một cách thuận lợi nhất, bảo đảm thỏa mãn nhanh chóng
các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan tâm. Đối với hình thức đại diện theo ủy
quyền thì đây là hình thức đại diện được xác lập giữa người đại diện và người được đại
diện. Hình thức đại diện theo ủy quyền, theo quy định của BLDS 2015. “Đại diện là
việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích
của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự.” Đại diện theo ủy quyền là trường hợp quan hệ đại diện
được xác lập theo ý chí của hai bên. Do vậy, cả người đại diện và người được đại diện


đều phải có năng lực hành vi dân sự. Hai bên biểu hiện tự do ý chí thông qua một hợp
đồng ủy quyền hoặc một giấy ủy quyền. Một số đặc điểm cơ bản về người đại diện
theo ủy quyền của doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất: Người đại diện theo ủy quyền của công ty là người được người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp ủy quyền để thực hiện một hoặc một số quyền và
nghĩa vụ nhất định. Người đại diện theo ủy quyền của công ty không có quyền đương
nhiên nhân danh công ty để thực hiện quyền và nghĩa vụ mà chỉ được nhân danh công
ty trong phạm vi ủy quyền và có nghĩa vụ nói rõ việc ủy quyền đó trong các giao dịch.
Thứ hai: Người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiêp không đương nhiên
được ủy quyền lại cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ đại diện cho doanh
nghiệp mà mình đã được ủy quyền, trừ trường hợp được người ủy quyền đồng ý.
Thứ ba: Người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp được hưởng thù lao đại
diện.
1.1.3. Vai trò người đại diện trong doanh nghiệp.
Vai trò của người đại diện theo pháp luật
Người đại diện theo pháp luật là một cơ chế pháp lý đặc biệt quan trọng đối với
doanh nghiệp. Thông qua người đại diện để xác định được tư cách hợp pháp của người
thay mặt cho công ty thực hiện các giao dịch kinh tế, dân sự, giải quyết các vấn đề

phát sinh. Trong quản trị doanh nghiệp người đại diện theo pháp luật có vai trò quan
trọng. Cụ thể:
Thứ nhất: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là một trong các điều
kiện pháp lý để doanh nghiệp hoạt động bình thường.
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định ngay từ khi thành lập và đăng ký doanh
nghiệp thì phải đăng ký chức danh người đại diện theo pháp luật (trừ công ty hợp danh
thì tất cả thành viên hợp danh đều là người đại diện theo pháp luật). Trừ những việc do
chủ sở hữu công ty hoặc HĐQT, HĐTV quyết định, các quyền và nghĩa vụ còn lại của
doanh nghiệp sẽ do người đại diện theo pháp luật trực tiếp hoặc ủy quyền cho người
khác thực hiện.
Thứ hai: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thay mặt doanh nghiệp
duy trì mối quan hệ với các chủ sở hữu doanh nghiệp, Nhà nước, người lao động…
Doanh nghiệp trong quá trình hoạt động doanh nghiệp không tồn tại đơn lẻ mà có
sự liên kết và quan hệ mật thiết với các chủ thể khác như: quan hệ với chủ sở hữu
(kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp, phân phối lợi nhuận, quyết định phương án
kinh doanh,…); quan hệ với Nhà nước (đăng ký kinh doanh, đóng thuế, nộp phạt…);
quan hệ với khách hàng, với các đối tác, với người lao động,..Những người được
người đại diện theo pháp luật ủy quyền phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong phạm


vi ủy quyền, chịu trách nhiệm trước người đại diện theo pháp luật và trước doanh
nghiệp về việc thực hiện các công việc được ủy quyền.
Thứ ba: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhân danh doanh nghiệp
để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có các quyền và nghĩa vụ trước pháp luật, có quyền tham gia quan
hệ pháp luật. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể tự mình thực hiện được quyền và
nghĩa vụ của mình, do vậy người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có vai trò
thay mặt doanh nghiệp, nhân danh doanh nghiệp để thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của doanh nghiệp.
Thứ tư: Chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động của doanh nghiệp.

Khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hành động trái với thẩm
quyền gây tổn thất cho doanh nghiệp thì người đại diện phải chịu trách nhiệm cá nhân
trước doanh nghiệp và trước pháp luật trong phạm vi thẩm quyền được pháp luật, điều
lệ doanh nghiệp và bản hợp đồng lao động (nếu có) mà người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp đã ký kết với chủ sở hữu doanh nghiệp quy định. Tuy nhiên nếu mức
độ vi phạm pháp luật của doanh nghiệp đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, thì lúc
này người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và những người liên quan có thể
đối mặt với trách nhiệm hình sự cá nhân.
Vai trò của người đại diện theo uỷ quyền.
Uỷ quyền tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của quan hệ
dân sự, bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham gia các giao dịch dân sự một cách
thuận lợi nhất. Trong doanh nghiệp, không người chủ doanh nghiệp nào có thể tự mình
làm hết mọi việc. Mà phải uỷ thác một số việc cho người đại diện. Điều này không chỉ
đúng với tập đoàn lớn, mà còn cho bất kỳ doanh nghiệp nào có nhân viên. Trong các
tập đoàn, các cổ đông không thể tự nhân danh mình mà hành động, mà họ uỷ quyền
cho HĐQT, theo đó lần lượt HĐQT uỷ quyền cho Ban giám đốc. Trong hoạt động của
các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô lớn, tổ chức phức tạp, thông
thường tại cùng một thời điểm, doanh nghiệp đó vẫn có thể thực hiện cùng lúc nhiều
giao dịch với nhiều chủ thể. Để thực hiện được điều này thì người đại diện theo pháp
luật thường ủy quyền cho “các chức danh quản lý khác” như Phó GĐ/ Phó TGĐ, các
Trưởng phòng, Giám đốc chi nhánh, Trưởng văn phòng đại diện trực thuộc doanh
nghiệp của mình để tổ chức, thực hiện những hoạt động sản xuất kinh doanh. Người
đại diện theo uỷ quyền sẽ giúp giảm bớt gánh nặng giúp san sẻ công việc cho chủ
doanh nghiệp.


Trong phạm vi uỷ quyền, người đại diện theo ủy quyền còn có thẩm quyền nhân
danh doanh nghiệp xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Các ủy quyền này có thể
mang tính chất thường xuyên, liên tục hoặc trong từng công việc cụ thể.
Dưới góc độ của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, thì vai trò của người đại diện

theo uỷ quyền mới chỉ giới hạn trong việc nhân danh thành viên công ty TNHH, cổ
đông là tổ chức của CTCP thực hiện quyền của thành viên, cổ đông trong công ty. Mà
cụ thể là nhân danh thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của thành viên HĐTV và nhân danh cổ đông CTCP tham dự cuộc
họp ĐHĐCĐ.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh người đại diện trong
doanh nghiệp.
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật.
- Về chính trị: Sau khi giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến, nền chính trị của
nước ta đã ổn định hơn, nước ta luôn chủ động để hòa nhập chung vào nền kinh tế thế
giới hiện đại. Cùng với đó nền kinh tế của Việt Nam đang trên con đường phát triển và
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh và quản lý
kinh tế, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp đã không ngừng hoàn thiện, tạo khuôn
khổ pháp lý để các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia thành lập các loại hình
doanh nghiệp. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp phải thông qua
hành vi cụ thể của con người-người đại diện. Bởi doanh nghiệp là một thực thể pháp lý
độc lập, nhưng bản thân nó không thể hành động. Người đại diện của doanh nghiệp là
người được chủ sở hữu của doanh nghiệp cử ra thay mặt doanh nghiệp để tiếp xúc,
giao dịch với bên ngoài vì lợi ích của doanh nghiệp. Kể từ khi thống nhất đất nước đến
nay do sự phát triển mạnh mẽ, mở rộng của các doanh nghiệp đòi hỏi nhà nước phải
ban hành các văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh người đại diện trong doanh nghiệp.
- Kinh tế: Nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển
của từng quốc gia, từng dân tộc. Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc
chuyển sang mô hình kinh tế thị trường của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng
đắn, bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước, đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật
nước ngoài, mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi
giúp các doanh nghiệp phát triển mở rộng. Sự phát triển hưng thịnh của một quốc gia
phụ thuộc vào các doanh nghiệp trong nước. Để kiểm soát nền kinh tế nhà nước phải
sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết đồng thời phải luôn thay đổi, hoàn
thiện sao cho phù hợp với các quy định chung. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật là một quá trình lâu dài vì thị trường luôn luôn biến động nên hệ thống pháp
luật cũng phải có sự thay đổi theo để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp. Do vậy nên kể


từ khi có những quy định pháp luật đầu tiên điều chỉnh “Pháp luật về người đại diện
trong doanh nghiệp” được thông qua lần 1 là sự ra đời của Luật doanh nghiệp 1999
thông qua ngày 12/06/1999. Lần 2 là Luật doanh nghiệp 2005 được quốc hội thông
qua ngày 29/11/2005 và gần đây nhất là sự ra đời của Luật doanh nghiệp 2014 được
Quốc hội thông qua ngày 26/11/2014 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015. Bên
cạnh đó còn có sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự đầu tiên là Bộ luật Dân sự được
Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 và hiện nay đang được áp dụng thi hành là Bộ
luật Dân sự 2015 được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2015 có hiệu lực từ ngày
01/01/2017.
- Xã hội: Kinh tế của Việt Nam hiện nay đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới. Để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh và quản lý kinh tế, hệ thống pháp luật về
doanh nghiệp đã không ngừng hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý để các nhà đầu tư
trong và ngoài nước tham gia thành lập các loại hình doanh nghiệp. Việc ban hành các
quy định về người đại diện của doanh nghiệp sẽ bảo đảm quyền, lợi ích của doanh
nghiệp, đối tác,...duy trì và phát triển quan hệ tốt đẹp giữa cá nhân, tổ chức trong xã
hội.
1.2.2. Nội dung pháp luật về người đại diện trong doanh nghiệp.
1.2.2.1. Pháp luật về người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp.
1.2.2.1.1. Điều kiện, tiêu chuẩn và số lượng người đại diện theo pháp luật trong
Doanh nghiệp.
Số lượng người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp:
**Đối với Công ty TNHH, Công ty Cổ phần: Theo khoản 2 Điều 13 Luật doanh
nghiệp 2014 có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Số lượng cụ thể,
chức danh quản lý, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật được quy định
cụ thể tại Điều lệ doanh nghiệp.
**Đối với công ty hợp danh: Pháp luật không quy định rõ có bao nhiêu người đại

diện theo pháp luật của công ty hợp danh cụ thể là bao nhiêu người. Tuy nhiên các
thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật cho công ty hợp danh và tổ chức
hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Các thành viên hợp danh có quyền đại
diện theo pháp luật của công ty hợp danh phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo Điều
14 Luật doanh nghiệp 2014.
**Đối với doanh nghiệp tư nhân: chỉ có một người đại diện theo pháp luật vì chỉ
có chủ doanh nghiệp tư nhận là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Tiêu chuẩn điều kiện của người đại diện theo pháp luật:
+ Thứ nhất, có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc các đối tượng bị cấm
thành lập và quản lý doanh nghiệp quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật doanh nghiệp


2014. Ngoài ra, các đối tượng thuộc diện cấm thành lập, quản lý doanh nghiệp còn
được ghi nhận trong các đạo luật khác như Điều 19; Điều 20 của Luật Cán bộ công
chức quy định những việc cán bộ công chức không được làm, Điều 19 Luật Viên chức;
Điều 37 của Luật phòng chống tham nhũng quy định những việc cán bộ, công chức,
viên chức không được làm; Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí...
+ Thứ hai, doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo
pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện
theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho
người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất
cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu
trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền.
+ Thứ ba, yêu cầu về trình độ chuyên môn hoặc chứng chỉ hành nghề.
Các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành đã có những điều chỉnh cụ thể về
tiêu chuẩn làm thành viên HĐTV, HĐQT, Giám đốc, Tổng giám đốc phải có một trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất định hay phải có chứng chỉ, bằng cấp.
1.2.2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong doanh
nghiệp.
Có thể thấy được Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch công ty, thành viên HĐQT,

GĐ/TGĐ… thường giữ vai trò là người đại diện của doanh nghiệp. Ở những cương vị
nhất định, có thẩm quyền nhân danh doanh nghiệp xác lập thực hiện mọi giao dịch.
Không phải lúc nào giữa người quản lý và các cổ đông, thành viên công ty đã đã cùng
chung lợi ích và mục đích, những người quản lý đều có khả năng thực hiện các giao
dịch tư lợi, tìm kiếm các lợi ích cá nhân . Do đó, những quy định rõ ràng và chặt chẽ
về trách nhiệm và nghĩa vụ của người quản lý có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ
cổ đông, nó là biện pháp quan trọng để xử lý mối quan hệ đại diện giữa cổ đông và
người quản lý công ty.
Được quy định tại khoản 2 điều 14 Luật doanh nghiệp 2014. Người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp có trách nhiệm sau đây:
- Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt
nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
- Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ
hội kinh doanh của doanh nghiệp, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản
của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
- Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về việc người đại diện
đó và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp chi phối tại
các doanh nghiệp khác.


- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân đối
với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều
14 Luật doanh nghiệp 2014.
1.2.2.1.3. Thủ tục đăng ký và thay người đại diện theo pháp luật.
Người đại diện theo pháp luật của công ty có thể là thành viên, cổ đông góp vốn
trong công ty hoặc là người được doanh nghiệp đi thuê theo hợp đồng lao động. Trong
quá trình hoạt động kinh doanh, khi doanh nghiệp có nhu cầu thay đổi người đại diện
theo pháp luật. Doanh nghiệp cần thực hiện theo trình tự, thủ tục như sau:
Hồ sơ thay đổi người đại diện theo pháp luật:
Chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc thẻ căn cước công dân của người

đại diện theo pháp luật mới (lưu ý thời hạn của các giấy tờ này); Bản gốc giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh (nộp khi được cấp bản mới giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp). Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; Biên bản
về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; Quyết định về việc
thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;Thông báo thay đổi thông tin
đăng ký thuế; Giấy giới thiệu hoặc ủy quyền cho công ty luật thực hiện thủ tục tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Số lượng hồ sơ: 02 bộ: 01 bộ nộp cơ quan đăng ký kinh doanh và 01 bộ lưu tại
công ty.
Thời gian thực hiện thủ tục: 03-05 ngày làm việc.
Một số lưu ý khi thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp: Khi
thay đổi người đại diện theo pháp luật doanh nghiệp cần lưu ý việc đăng ký thông tin
chủ tài khoản tại ngân hàng; Thông báo với bạn hàng, đối tác, cơ quan bảo hiểm, các
cơ quan liên quan khác; Đối với công ty có giấy phép sau thành lập như giấy phép
kinh doanh lữ hành, giấy phép kinh doanh dịch vụ vận tải, giấy phép vệ sinh an toàn
thực phẩm, phòng cháy chữa cháy, an ninh trật tự phải thực hiện thủ tục thay đổi các
giấy phép này vì trên giấy phép có thông tin về người đại diện theo pháp luật cũ (đó
khi thực hiện thay đổi người đại diện theo pháp luật doanh nghiệp cần lưu ý thực hiện
thủ tục liên quan nếu doanh nghiệp còn có các giấy phép con).
1.2.2.1.4. Chấm dứt đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
** Trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động
Doanh nghiệp là một pháp nhân kinh tế, theo quy định của Luật doanh nghiệp
năm 2014 và Luật Phá sản năm 2014, doanh nghiệp có thể chấm dứt hoạt động do các
sự kiện như: bị giải thể; bị tòa án tuyên bố phá sản; sáp nhập, hợp nhất vào doanh
nghiệp khác hoặc chia doanh nghiệp.
** Trường hợp doanh nghiệp không chấm dứt hoạt động


- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ
và đã hết nhiệm kỳ hoặc ký hợp đồng lao động mà hết thời hạn hợp đồng nhưng không

gia hạn hoặc chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn theo quy định của Bộ luật
Lao động.
- Khi Điều lệ doanh nghiệp quy định người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp là Tổng giám đốc, Giám đốc hoặc Chủ tịch và người này đã xin từ chức Tổng
giám đốc, giám đốc hoặc Chủ tịch, hoặc bị Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị,
chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc Đại hội đồng cổ đông miễn nhiệm chức Tổng giám đốc,
giám đốc hoặc Chủ tịch.
- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vắng mặt tại Việt Nam quá 30
ngày mà không ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền và nhiệm vụ của người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thì Hội đồng thành viên, chủ sở hữu doanh
nghiệp, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên doanh nghiệp hợp danh cử người khác
làm đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
- Đối với công ty TNHH có hai thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bị tạm giữ, tạm giam, trốn khỏi nơi cư
trú, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Tòa án tước quyền hành
nghề.
- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vi phạm điều cấm tại khoản 2,
điều 18 Luật doanh nghiệp năm 2014.
1.2.2.2. Pháp luật về người đại diện theo ủy quyền trong doanh nghiệp
1.2.2.2.1. Điều kiện, tiêu chuẩn và số lượng người đại diện trong doanh nghiệp
Đối với quy định cũ – Bộ luật Dân sự 2005: Chủ thể của hợp đồng ủy quyền là cá
nhân.
Trong thực tế có rất nhiều giao dịch có thể làm phát sinh quan hệ ủy quyền giữa
các pháp nhân, từ đó đặt ra nhu cầu chính đáng về hành lang pháp lý cho mối quan hệ
đại diện này. Bộ luật Dân sự 2015 mới đã chính thức cho phép một pháp nhân có thể
ủy quyền cho một pháp nhân khác xác lập và/hoặc thực hiện giao dịch cho mình. Thực
vậy, khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015 quy định đại diện là việc cá nhân, pháp
nhân (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (người
được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Điều kiện, tiêu chuẩn người đại diện theo ủy quyền trong doanh nghiệp

Đối với cá nhân
“Năng lực hành vi dân sự đầy đủ”theo định nghĩa tại điều 19 Bộ luật Dân sự
2015 là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự. Nội dung của năng lực hành vi dân sự không chỉ bao gồm năng lực thực


hiện các giao dịch dân sự hoặc các hành vi pháp lý mà còn cả bao gồm năng lực chịu
trách nhiệm do thực hiện hành vi trái pháp luật như bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, thực hiện công việc không có uỷ quyền.
Đối với pháp nhân.
Pháp nhân là tổ chức có đủ các điều kiện được qui định tại Điều 74 BLDS 2015.
Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ của quan hệ pháp luật dân sự, có năng lực chủ thể
mang tính chuyên biệt, được tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch phù hợp với
mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân. Mục đích và phạm vi hoạt động của
pháp nhân được thể hiện trong điều lệ, hoặc quyết định thành lập pháp nhân (Điều 77
BLDS 2015).
- Các tiêu chuẩn và điều kiện khác do Điều lệ công ty quy định.
1.2.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền trong doanh
nghiệp
Trong quản trị doanh nghiệp nếu một mình người đại diện theo pháp luật làm tất
cả những quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thì người đó khó có khả năng hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Do đó pháp luật đặt ra cơ chế ủy quyền. Người đại diện
theo pháp luật có thể ủy quyền thường xuyên cho cấp dưới. Người đại diện theo pháp
luật cũng có thể ủy quyền cho người khác theo vụ việc trong một thời hạn nhất định.
Nhưng dù có ủy quyền thì trước pháp luật, trước doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh
nghiệp, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm cá nhân về nghĩa vụ
đại diện theo pháp luật.
Theo đó, người được ủy quyền là người đại diện cho người ủy quyền theo thỏa
thuận giữa các bên. Do vậy, ngoài các điểm đặc thù của chế định đại diện thì người
được ủy quyền còn chịu sự ràng buộc theo các quy định của pháp luật về hợp đồng ủy

quyền, và theo quy định điều lệ của công ty.
Nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền
- Người được ủy quyền nhân danh và vì lợi ích của người ủy quyền khi thực
hiện việc đại diện:
Mặc dù người đại diện có thể có những quyền năng rất lớn (theo thỏa thuận hoặc
pháp luật cho phép) nhưng tất cả mọi công việc, hoạt động, hành vi của người đại diện
luôn phải được thực hiện vì lợi ích của người được đại diện. Người đại diện hoạt động
không nhân danh chính bản thân mình và không được vì lợi ích của mình.
- Thực hiện công việc theo ủy quyền và báo cho bên ủy quyền về việc thực hiện
công việc đó.
- Báo cho người thứ ba trong quan hệ thực hiện ủy quyền về thời hạn, phạm vi
ủy quyền và việc sửa đổi, bổ sung phạm vi ủy quyền.


- Bảo quản, giữ gìn tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện việc ủy
quyền.
- Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc ủy quyền.
- Giao lại cho bên ủy quyền tài sản đã nhận và những lợi ích thu được trong
khi thực hiện việc ủy quyền theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
- Bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều này.
Quyền của người đại diện theo ủy quyền:
- Yêu cầu bên ủy quyền cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết để
thực hiện công việc ủy quyền.
- Được thanh toán chi phí hợp lý mà mình đã bỏ ra để thực hiện công việc ủy
quyền; hưởng thù lao, nếu có thỏa thuận.
1.2.2.2.3. Chấm dứt đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp.
** Chấm dứt đại diện theo ủy quyền do thỏa thuận.
Việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền có thể xảy ra khi các bên thỏa thuận với
nhau chấm dứt đại diện, khi công việc được ủy quyền thực hiện chưa được thực hiện.
** Chấm dứt đại diện theo ủy quyền do thời hạn ủy quyền đã hết.

Khi thỏa thuận về việc đại diện theo ủy quyền, có nhiều trường hợp các bên phải
thỏa thuận về thời hạn ủy quyền. Khi thời hạn thỏa thuận kết thúc, quan hệ đại diện
theo ủy quyền cũng chấm dứt.
** Chấm dứt đại diện theo ủy quyền do công việc được ủy quyền đã hoàn thành.
Một trong những căn cứ chấm dứt đại diện theo ủy quyền là do công việc được
ủy quyền đã hoàn thành. Căn cứ xác định công việc đã hoàn thành và thời gian hoàn
thành phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại công việc.
** Chấm dứt đại diện theo ủy quyền do người được đại diện hoặc người đại diện
đơn phương chấm dứt việc thực hiện ủy quyền.
1.2.2.3. Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các giao dịch do người đại diện
xác lập, thực hiện.
Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các giao dịch do người đại diện xác lập,
thực hiện luôn là vấn đề cơ bản của chế định đại diện, có ý nghĩa trong việc bảo đảm
an toàn về mặt pháp lý mà quan hệ đại diện chứa đựng nhiều khả năng phá vỡ.
Thực tế, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các giao dịch do người đại diện
xác lập, thực hiện thường phát sinh trong hai trường hợp:
** Trường hợp thứ nhất, người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch trong phạm
vi thẩm quyền đại diện:
Theo quy định, doanh nghiệp phải chịu sự ràng buộc về mặt pháp lý đối với hành
vi của người đại diện trong phạm vi đại diện. Khi người đại diện nhân danh doanh


nghiệp giao dịch với một bên thứ ba, giao dịch dân sự đó không phải được xác lập
giữa người đại diện với bên thứ ba mà là giữa doanh nghiệp với bên thứ ba.
** Trường hợp thứ hai, khi người đại diện của doanh nghiệp xác lập, thực hiện
giao dịch vượt quá thẩm quyền hoặc không có thẩm quyền đại diện, hậu quả pháp lý
của tình huống đó được pháp luật xử lý như sau:
Trường hợp vượt quá phạm vi đại diện
Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm
vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần

giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải
thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá
phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt
quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện
hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ
giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc
phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy
định tại điểm a khoản 1 Điều này.
Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được
đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.
Trường hợp do người không có thẩm quyền đại diện
Trường hợp giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực
hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện thì người không
có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ
trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà
vẫn giao dịch.
Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền đơn phương
chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu cầu bồi thường
thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện
mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.
Trường hợp người không có quyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách
nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.


1.3. Những nguyên tắc của pháp luật điều chỉnh vấn đề pháp luật về người
đại diện trong doanh nghiệp.
Những nguyên tắc của pháp luật điều chỉnh vấn đề pháp luật về người đại diện

trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp cũng từ đó doanh nghiệp
có thể thực hiện đúng yêu cầu của nhà nước và không vi phạm những điều mà pháp
luật không cho phép.
Thứ nhất, pháp luật về đại diện phải xây dựng rõ ràng minh bạch cụ thể và linh
hoạt tư cách pháp lý của người đại diện. Công khai, minh bạch thông tin, đây được
xem là nguyên tắc quan trọng trong pháp luật về người đại diện, các đối tác khách
hàng của công ty sẽ gặp khó khăn trong việc xác định người đại diện theo pháp luật
của công ty. Người làm việc, ký kết hợp đồng với mình có phải là người đại diện theo
pháp luật không. Việc ký kết không đúng thẩm quyền sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu và
có thể xảy ra các tranh chấp gây ảnh hưởng không chỉ cho chính khách hàng và công
ty mà còn ảnh hưởng đến sự ổn định của môi trường kinh doanh. Do đó việc công khai
minh bạch, rõ ràng trên website riêng của doanh nghiệp hoặc các hình thức khác nhằm
giúp bên thứ ba tiếp nhận thông tin, không chỉ đảm bảo lợi ích cho khách hàng mà còn
giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc thực thi pháp luật.
Thứ hai, quy định về người đại diện phải đảm bảo thực hiện đúng quyền hiến
định và quyền tự quyết quyền tự do kinh doanh. Theo đó người đại diện có quyền tự
quyết tự do trong lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của mình, tuy nhiên sự tự do của
người đại diện trong doanh nghiệp phải nằm trong khôn khổ nhất định, nó “không
được trái pháp luật, đạo đức xã hội”, không được trái với điều cấm của pháp luật và
những chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận rộng rãi.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU CHỈNH NGƯỜI
ĐẠI DIỆN TRONG DOANH NGHIỆP
2.1. Thực trạng pháp luật về người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp.
2.1.1. Điều kiện, tiêu chuẩn và số lượng người đại diện theo pháp luật trong
doanh nghiệp.
- Về số lượng người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp
Quy định này nhằm hướng tới việc tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp, cho
phép doanh nghiệp toàn quyền quyết định số lượng người đại diện theo pháp luật cho

mình trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh
nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy
định của pháp luật.
Có thể nói, đây là một trong những nội dung thay đổi cơ bản so với Luật doanh
nghiệp năm 2005 (công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần chỉ có duy nhất
một người đại diện theo pháp luật). Đứng dưới khía cạnh đảm bảo quyền tự do kinh
doanh, đây là một quy định mang tính đột phá trong việc cho doanh nghiệp toàn quyền
quyết định số lượng người đại diện theo pháp luật, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có
thể hội nhập nhanh hơn, tận dụng được mọi cơ hội kinh doanh thông qua các đại diện
theo pháp luật. Đồng thời, quy định này sẽ góp phần tháo gỡ vướng mắc cho doanh
nghiệp trong trường hợp người đại diện duy nhất của doanh nghiệp bất hợp tác, không
thực hiện các yêu cầu của thành viên/cổ đông trong quá trình quản lý điều hành doanh
nghiệp trong nội bộ cũng như giao dịch với bên ngoài công ty. Bằng cách có nhiều hơn
một người đại diện, sự lạm quyền, bất hợp tác như đã nói trên sẽ bị vô hiệu hóa.
Đồng thời, với việc Luật doanh nghiệp 2014 cho phép công ty TNHH, CTCP có
thể có nhiều người đại diện theo pháp luật, để giúp cho doanh nghiệp hội nhập nhanh
hơn, tận dụng được mọi cơ hội kinh doanh, Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày
14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp đã quy định trường hợp doanh
nghiệp có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật, chữ ký của những người đại
diện theo pháp luật trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp có giá trị pháp lý như nhau. Quy
định này sẽ nâng cao sự chủ động, tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp khi
thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô lớn với
nhiều người đại diện theo pháp luật.
Quy định mới này góp phần đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho doanh nghiệp,
theo đó điều lệ công ty sẽ quy định cụ thể về số lượng, chức danh quản lý, quyền và
nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
- Về tiêu chuẩn điều kiện của người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp



×