Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới. Thực tiễn thực hiện tại Tổng công ty Cổ phần Bảo hiểm Sài Gòn – Hà Nội (BSH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.33 KB, 66 trang )

LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Kinh tế - Luật Trường Đại học Thương Mại, bộ
môn Luật Căn bản, dưới sự hướng dẫn của Cô giáo Th.S. Đỗ Hồng Quyên, tôi đã thực
hiện đề tài: “Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới. Thực
tiễn thực hiện tại Tổng công ty Cổ phần Bảo hiểm Sài Gòn – Hà Nội (BSH)”
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cám ơn các Thầy, Cô đã
tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình tôi học tập, nghiên cứu tại Trường Đại
học Thương Mại.
Xin chân thành cám ơn Cô giáo hướng dẫn Th.S. Đỗ Hồng Quyên đã tận tình,
chu đáo hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp này. Cùng sự
giúp đỡ của Quý công ty, những cô, chú cán bộ công nhân viên Tổng công ty Cổ phần
Bảo hiểm Sài Gòn – Hà Nội (BSH) đã giúp tôi nghiên cứu, tạo điều kiện tốt để thực
tập cũng như hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Do quá chỉ thực tập trong một thời gian ngắn nên báo cáo không tránh khỏi thiếu
sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các cô chú, anh chị trong công ty
và các Thầy Cô giáo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGUYỄN PHẠM NHƯ UYÊN

1

1


MỤC LỤC

2

2



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Luật Kinh doanh bảo hiểm
Luật Doanh nghiệp
Luật Thương mại
Bộ luật Dân sự
Bộ luật Tố tụng Dân sự
Bộ luật Lao động
Kinh doanh bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm
Giá trị gia tăng
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm thất nghiệp
Tái bảo hiểm
Phi nhân thọ
Xe cơ giới
Trách nhiệm dân sự

3

LKDBH
LDN
LTM
BLDS
BLTTDS
BLLĐ
KDBH
HĐBH
DNBH

GTGT
BHXH
BHYT
BHTN
TBH
PNT
XCG
TNDS

3


PHẦN MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, các phương tiện sử
dụng trong ngành giao thông vận tải cũng được cải tiến và ngày một phát triển hơn.
Với những phương tiện giao thông vận tải thô sơ từ thời xa xưa, đến nay chúng ta đã
có những phương tiện giao thông vận tải hết sức hiện đại với tốc độ di chuyển lên tới
hàng trăm dạm một giờ như máy bay, tàu hỏa, ô tô hay tàu thủy… Sự phát triển của
ngành giao thông vận tải nói chung và xe cơ giới nói riêng đã đóng góp một phần
không nhỏ vào sự phát triển chung của xã hội loài người, đặc biệt khi xu hướng phát
triển trên thế giới hiện nay là xu hướng toàn cầu hóa. Tuy nhiên, với sự cố gắng của
bản thân con người cùng với sự phát triến của khoa học kỹ thuật, chúng ta vẫn chưa
loại bỏ được hết tai nạn giao thông, thậm chí tai nạn giao thông ngày càng tăng và mức
độ tổn thất ngày càng lớn, đôi khi có tính thảm họa. Ngoài ra các rủi ro khác như trộm
cắp, sự cố kỹ thuật, thiên tai,… cũng là điều không thể tránh khỏi của ngành giao
thông vận tải nói chung và xe cơ giới nói riêng. Để bù đắp lại những tổn thất về người
và của do những rủi ro bất ngờ gây ra cho chủ phương tiện giao thông vận tải được
xem là một biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay.

Khi rủi ro bất ngờ xảy ra với phương tiện vận tải nói chung và xe cơ giới nói
chung, chủ phương tiện phải chịu những thiệt hại vật chất do phương tiện của chính
mình bị hư hỏng hay mất mát. Chủ phương tiện còn phải chịu trách nhiệm những tổn
thất do phương tiện của mình gây ra cho bên thứ ba. Do vậy, bảo hiểm phương tiện
giao thông vận tỉa thường bao gồm hai phần: Bảo hiểm vật chất cho chính phương tiện
và bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba. Chính vì tầm quan trọng trên mà
tôi chọn đề tài: “Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới.
Thực tiễn thực hiện tại Tổng công ty Cổ phần Bảo hiểm Sài Gòn – Hà Nội (BSH)”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2

Tổng quan các công trình nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề được lựa chọn trong nghiên cứu, không thể không đề cập
đến một sống công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Trên diễn đàn Dân Kinh Tế có đăng một bài viết “Phân tích thực trạng bảo hiểm
vật chất xe cơ giới trên thị trường bảo hiểm Việt Nam” chỉ đưa ra số liệu đánh giá về
“mức thu nhập” của ngành bảo hiểm phi nhân thọ n ói chung và của lĩnh vực bảo
hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng.

4

4


Hay trên trang thông tin điện tử của Cục Cảnh sát giao thông – Bộ Công An cũng
có bài viết về “Thực trạng tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
tại Việt Nam ” cũng chỉ là những nhận xét, đánh giá chung về tình hình, mức độ chấp
hành bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc đối với xe cơ giới.
“Nghịch lý trong bảo hiểm xe cơ giới” là tiêu đề bài viết của trang VnExpress mà
trong đó cũng chỉ đề cập đến thực trạng ở Việt Nam, người dân quan tâm đến việc mua

bảo hiểm cho xe hơn là mua bảo hiểm cho chính mình và người khác.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu đã có nhiều tìm tòi, đánh giá, khái
quát được bức tranh tương đối thực tế về của bảo hiểm vật chất xe cơ giới hiện nay tại
nước ta qua những số liệu khảo sát thực tế. Tuy nhiên, những công trình nêu trên mới
phần nào phác hoạ chung chung về ý thức tham gia bảo hiểm xe cơ giới của người dân
mà chưa đưa ra được những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, cũng như các phương
án xử lý khi có phát thiệt hại cần bồi thường, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến
trục lợi bảo hiểm. Do đó, các công trình nghiên cứu trên chỉ mang tính tham khảo.

3 Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu sẽ tập trung làm rõ những vấn đề cụ thể sau:
Thứ nhất, chỉ ra thực trạng các quy phạm pháp luật về giao kết và thực hiện hợp
đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Việt Nam; từ đó đánh giá tác động, ảnh hưởng
của những quy định đó trong thực tiễn áp dụng tại BSH.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích thực trạng, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề
giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới.

4
1

Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sẽ chủ yếu hướng đến đối tượng là pháp luật về giao kết và thực hiện
hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới, đặc biệt là áp dụng thực tiễn tại các doanh
nghiệp có hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ

2

3


Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là hệ thống hóa những quy định của pháp luật về giao kết và
thực hiện hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới nhằm phân tích thực trạng pháp luật
và thực trạng áp dụng các quy định pháp luật đó ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở
những phân tích đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện những quy định của pháp luật
về vấn đề này trong tương lai.
Phạm vi nghiên cứu.

5

5


Về nội dung, khóa luận tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về
giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Về không gian, nghiên cứu sẽ dựa trên phạm vi các quy định của Luật Kinh
doanh bảo hiểm; Thông tư số 22/2016/TT-BTC quy định về quy tắc, biểu phí và mức
trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; Thông tư
126/2008/TT-BTC quy định về Quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo
hiểm bắt buộc trách nhiệm của chủ xe cơ giới; Bộ Luật Dân sự; Bộ Luật Hình sự,…

5

Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu
như: thu thập thông tin; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp phân tích, tổng
hợp các kiến thức từ pháp luật và phân tích thực tiễn để phát hiện và đánh giá việc
thực hiện các thủ tục về giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Các phương pháp nghiên cứu trong khóa luận được thực hiện trên nền tảng phương

pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng trên cơ sở các quan
niệm về đường lối chính trị, văn hóa, kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó rút
ra kết luận và đưa ra một số kiến nghị, đề xuất liên quan tới quy định của pháp luật về
thủ tục giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Tổng công ty
Cổ phần Bảo hiểm Sài Gòn – Hà Nội (BSH)

6 Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu và mục lục của đề tài, nghiên cứu sẽ tập trung làm rõ những
nội dung sau:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng bảo
hiểm vật chất xe cơ giới.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện hợp đồng
bảo hiểm xe cơ giới và thực tiễn thực hiện tại Tổng công ty Cổ phần Bảo hiểm Sài
Gòn – Hà Nội (BSH).
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới.

6

6


CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VẤN ĐỀ GIAO KẾT VÀ THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI

1

Những lý luận cơ bản về vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm vật chất

1


xe cơ giới
Khái quát về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Khái niệm bảo hiểm

1

Trên thực tế có nhiều khái niệm về bảo hiểm, tùy thuộc vào quan niệm của mỗi
quốc gia, từng lĩnh vực mà có những khái niệm khác nhau.

- Theo Hiệp hội các nhà bảo hiểm Anh: Bảo hiểm là sự thỏa thuận qua đó một bên

-

(người bảo hiểm) cam kết sẽ thanh toán cho bên kia (người được bảo hiểm hay người
tham gia bảo hiểm) một khoản tiền nếu có sự cố xảy ra gây tổn thất tài chính cho
người được bảo hiểm. Trách nhiệm thanh toán những tổn thất này được chuyển giao từ
người tham gia bảo hiểm sang người bảo hiểm. Để chấp nhận trách nhiệm thanh toán
này, người bảo hiểm đòi người được bảo hiểm một khoản tiền gồi là phí bảo hiểm.
Theo Ủy Ban thuật ngữ bảo hiểm của Hiệp hội bảo hiểm và rủi ro Hoa Kỳ: Bảo hiểm

-

là việc chuyển giao những rủi ro do các tổn thất bất ngờ và ngẫu nhiên gây ra từ người
được bảo hiểm sang cho người bảo hiểm khi họ cam kết bồi thường cho những tổn thất
này; cung cấp các quyền lợi bằng tiền khi tổn thất xảy ra hoặc cung cấp các dịch vụ
liên quan đến rủi ro cho người được bảo hiểm.
Tại Châu Á: Bảo hiểm là biện pháp chia nhỏ tổn thất của một người hay một số ít

-


người cho nhiều người có cùng khả năng chịu rủi ro nào đó thông qua việc tổ chức ra
một quỹ tài chính tập trung huy động từ các cá nhân, tổ chức tham gia bảo hiểm dưới
dạng phí bảo hiểm, để bồi thường hoặc bồi đắp những tổn thất do rủi ro gây ra.
Tại Việt Nam: Bảo hiểm là một hệ thống các biện pháp kinh tế nhằm tổ chức các quỹ
bảo hiểm thu hút được các đơn vị và cá nhân tham gia bảo hiểm để bù đắp những tổn
thất, thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ xảy ra góp phần đảm bảo cho quá trình tái
sản xuất có thể diễn ra thường xuyên liên tục, đồng thời góp phần ổn định đời sống của
mọi thành viên trong xã hội.
Hoặc cũng có thể được hiểu: Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người
bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thỏa
thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã mua bảo hiểm cho đối tượng bảo
hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.

7

7


Thực ra bảo hiểm là sự phân tán rủi ro, chia nhỏ tổn thất của một hoặc một số
người cho nhiều người cùng gánh chịu. Vì vậy, người mua bào hiểm có lợi vì phải chi
trả một số ít phí bảo hiểm, nhưng nếu tổn thất do rủi ro được bảo hiểm xảy ra sẽ được
người bảo hiểm bồi thường với số tiền bảo hiểm.

2

Các nguyên tắc bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm hoạt động bảo hiểm dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
Bảo hiểm một rủi ro có thể xảy ra, không bảo hiểm một sự chắc chắn xảy ra (Fortuity
not certainly): Bảo hiểm các rủi ro có thể xảy ra chứ không phải chắc chắn sẽ xảy ra vì

nếu rủi ro chắc chắn xảy ra sẽ không ai dám bảo hiểm, cũng như chì bồi thường những
thiệt hại, mất mát do rủi ro gây ra chứ không phải bồi thường cho những thiệt hại chắc
chắn xảy ra.

- Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (Utmost good faith): Người bảo hiểm và người mua
bảo hiểm phải tuyệt đối trung thực, không lừa dối nhau.
Người bảo hiểm phải công khai cho biết các điều kiện, nguyên tắc, thể lệ, thời
hạn, phí bảo hiểm… cho người mua bảo hiểm biết, không nhận bảo hiểm và thu phí
bảo hiểm khi biết dối tượng bảo hiểm đã đến nơi an toàn. Người mua bảo hiểm phải
thông báo đầy đủ chi tiết về đối tượng bảo hiểm, không che giấu và phải khai báo bổ
sung khi đối tượng bảo hiểm có sự thay đổi về rủi ro; không được mua bảo hiểm khi
biết đối tượng bảo hiểm đã bị tổn thất.

- Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm (Insurable Interest): Lợi ích bảo hiểm là quyền lợi liên

3

-

quan, gắn liền với hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không của đối tượng bảo hiểm.
Người có lợi ích bảo hiểm là người bị thiệt hại về tài chính khi đối tượng bảo hiểm gặp
rủi ro. Có lợi ích bảo hiểm mới được ký hợp đồng bảo hiểm và khi xảy ra tổn thất,
người mua bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm rồi mới được bồi thường.
Nguyên tắc bồi thường (Indemnity): Người bảo hiểm có nghĩa vụ bồi thường đúng, đủ

-

để người mua bảo hiểm có được trị giá đúng của đối tượng bảo hiểm như đã có trước
khi tổn thất xảy ra.
Nguyên tắc thế quyền (Subrogation): Người bảo hiểm sau khi bồi thường, có quyền

thay mặt cho người mua bảo hiểm để khiếu nại, đòi người thứ ba bồi thường lại cho
mình tổn thất mà người đó đã gây ra. Người mua bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp
các chứng từ cần thiết cho người bảo hiểm như các biên bản, thư từ… để người bảo
hiểm có cơ sở để khiếu nại, đòi bên thứ ba.
Khái niệm hợp đồng bảo hiểm
Theo Điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 của Việt Nam: “Hợp đồng
bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó
bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo

8

8


hiểm cho ngưỏi thụ hưởng hoặc bồi thưỏng cho ngưỏi được bảo hiểm khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm”.
Theo Điều 224, Bộ Luật hàng hải Việt Nam 2005 khái niệm về hợp đồng bảo
hiểm hàng hải như sau: “Hợp đồng bảo hiểm hàng hải là hợp đồng bảo hiểm các rủi
ro hàng hải, theo đó người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người được bảo hiểm
những tổn thất hàng hải thuộc trách nhiệm bảo hiểm theo cách thức và điều kiện đã
thoả thuận trong hợp đồng”.
Còn theo Điều 567 Bộ luật Dân sự 2005, hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận
giữa các bên, theo đó, bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm
phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

4

Hình thức hợp đồng bảo hiểm
Cả Bộ luật Dân sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật Hàng hải đều quy định,
hợp đồng bảo hiểm phải lập bằng văn bản. Bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là

giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax và các hình thức khác
do pháp luật quy định.

5

6

-

Tính chất của hợp đồng bảo hiểm
Tất cả các hợp đồng bảo hiểm đều là hợp đồng bồi thường. Tính chất này của hợp

-

đồng bảo hiểm được mọi người biết đến nhiều nhất, ai cũng ý thức được là khi ký kết
hợp đồng bảo hiểm thì sẽ được bồi thường tổn thất do rủi ro được bảo hiểm gây ra.
Hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp đồng tín nhiệm. Thực vậy, hợp đồng bảo hiểm

-

được quan niệm là một hợp đồng của lòng trung thực (Contract of Good Faith) vì hai
bên ký kết đã cùng thỏa thuận và thi hành các điều khoản của hợp đồng. Người được
bảo hiểm phải khai báo đầy đủ, trung thực, không che giấu, không có ý xấu làm thiệt
hại cho người bảo hiểm và trái lại, người bảo hiểm có nhiệm vụ đảm bảo giải quyết bổi
thường thiệt hại nhanh và đúng mức, nếu không hợp đồng có thể bị huy bỏ.
Hợp đồng bảo hiểm có thể chuyển nhượng được. Bên mua bảo hiểm có thể chuyển

nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo
hiểm có thể chuyển nhượng từ người đứng tên trong hợp đồng cho một người khác
được hưởng quyền lợi của hợp dồng bảo hiểm. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo

hiểm chỉ có hiệu lực trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho
doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản
chấp thuận về việc chuyển nhượng đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực
hiện theo tập quán quốc tế.
Các loại hợp đồng bảo hiểm
a Hợp đồng bảo hiềm con người:
Đối tượng của hợp đổng bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng và sức khỏe,
tai nạn con người.

9

9


Bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho những người sau đây:

-

Bản thân bên mua bảo hiểm
Vợ, chồng, con, cha, mẹ cùa bên mua bảo hiểm
Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng
Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm hoặc phương thức xác định số tiền bảo hiểm được bên mua bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm thoa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.

b Hợp đồng bảo hiếm tài sản:
Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản là tài sản, bao gồm: vật có thực, tiền,
giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản.
Số tiền bảo hiểm là số tiền bên mua bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm cho số tiền đó.
Hợp đồng bảo hiểm tài sản có hai loại:

- Hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị
- Hợp đồng bảo hiểm tài sản dưới giá trị
c Hợp đổng bảo hiểm trách nhiệm dân sự:
Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân sự của
người được bảo hiểm đối vói người thứ ba theo quy định của pháp luật.
Số tiền bảo hiểm: là số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người được
bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
d Hợp đồng bảo hiểm hàng hải:
Hợp đồng bảo hiểm hàng hải được quy định tại Điều 225 Bộ Luật Hàng Hải Việt
Nam 2005 như sau: Đối tượng bảo hiểm hàng hải có thể là bất cứ quyền lợi vật chất
nào liên quan đến các hoạt động hàng hải mà có thể quy ra tiền, bao gồm: tàu biển,
hàng hoa, tiền cước vận chuyển, tiền công vận chuyển hành khách, tiền thuê tàu, tiền
thuê – mua tàu, tiền lãi ước tính cùa hàng hoa, các khoản hoa hổng, chi phí tổn thất
chung, trách nhiệm dân sự và các khoản tiền được đảm bảo bằng tàu, hàng hoá hoặc
tiền cước vận chuyển.
Hợp đồng bảo hiểm hàng hải có hai loại:

- Hợp đồng bảo hiểm chuyến (Voyage Policy) là hợp đồng bảo hiểm một chuyến hàng từ
-

2
1

một địa điểm này đến một địa điểm khác đã ghi trên hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm bao hay mở (Open Policy) là hợp đồng bảo hiểm nhiều chuyến
hàng trong đó người bảo hiểm nhận bảo hiểm một khối lượng hàng vận chuyển trong
nhiều chuyến kế tiếp nhau (thời hạn thường là một năm), và khi ký hợp đồng bảo hiểm
chưa rõ khối lượng là bao nhiêu.
Những vấn đề cơ bản về xe cơ giới
Khái niệm xe cơ giới

Theo khoản 18 điều 3 Luật Giao thông đường bộ 2008: “Phương tiện giao thông
cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ

10

10


mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe
gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự.”
Như vậy có thể hiểu một cách cụ thể xe cơ giới là xe chạy trên đường bộ, bằng
động cơ của chính nó và có ít nhất một chỗ ngồi. Xe cơ giới được cấu tạo từ nhiều chi
tiết, bộ phận máy móc thiết bị khác nhau như động cơ, hệ thống nhiên liệu, hệ thống
điện, hệ thống truyền lực, hệ thống lái, hệ thống phanh và hộp số, bộ phận thân vỏ.

2

Một số quy định của pháp luật về điều kiện của người diều khiển xe cơ giới
Để đảm bảo an toàn giao thông, đảm bảo an ninh trật tự cũng như an toàn tính
mạng cho những người tham gia giao thông, Bộ luật Giao thông đường bộ có quy định
về những điều kiện bắt buộc đối với những người tham điều khiển xe cơ giới như sau:

• Độ tuổi hợp pháp của người lái xe (theo Khoản 1 Điều 60 Bộ luật GTĐB)
-

Người đủ 16 tuổi trở lên được lái xe gắn máy có dung tích xi-lanh dưới 50 cm3;

-

Người đủ 18 tuổi trở lên được lái xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xilanh từ 50 cm3 trở lên và các loại xe có kết cấu tương tự; xe ô tô tải, máy kéo có trọng

tải dưới 3.500 kg; xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi;

-

Người đủ 21 tuổi trở lên được lái xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải từ 3.500 kg trở lên;
lái xe hạng B2 kéo rơ moóc (FB2);

-

Người đủ 24 tuổi trở lên được lái xe ô tô chở người từ 10 đến 30 chỗ ngồi; lái xe hạng
C kéo rơ moóc, sơ mi rơ moóc (FC);

-

Người đủ 27 tuổi trở lên được lái xe ô tô chở người trên 30 chỗ ngồi; lái xe hạng D
kéo rơ moóc (FD);

- Tuổi tối đa của người lái xe ô tô chở người trên 30 chỗ ngồi là 50 tuổi đối với nữ và 55
tuổi đối với nam
• Điều kiện sức khỏe của người lái xe (theo Khoản 1 Điều 60 Bộ luật GTĐB) người lái
xe phải có sức khỏe phù hợp với loại xe, công dụng của xe. Bộ trưởng Bộ Y tế chủ trì,
phối hợp với Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về tiêu chuẩn sức khỏe của
người lái xe, việc khám sức khỏe định kỳ đối với người lái xe ô tô và quy định về cơ
sở y tế khám sức khoẻ của người lái xe.
• Người lái xe khi điều khiển phương tiện phải mang theo các giấy tờ sau:
- Đăng ký xe
- Giấy phép lái xe đối với người điều khiển xe cơ giới theo quy định của pháp luật

11


11


- Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới
-

theo quy định của pháp luật.
Giấy chứng nhận trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Căn cứ vào kiểu loại, công suất, động cơ, tải trọng và công dụng của xe cơ giới,
giấy phép lái xe được phân thành 02 loại: không thời hạn và có thời hạn. Người lái xe
tham gia giao thông phải có giấy phép lái xe phù hợp với loại xe được phép điều khiển
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.

• Các loại giấy phép lái xe không thời hạn
-

Hạng A1 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi-lanh từ 50 cm3 đến dưới
175 cm3;

-

Hạng A2 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi-lanh từ 175 cm3 trở lên
và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A1;

-

Hạng A3 cấp cho người lái xe mô tô ba bánh, các loại xe quy định cho giấy phép lái xe
hạng A1 và các xe tương tự.




Các loại giấy phép lái xe có thời hạn

-

Hạng A4 cấp cho người lái máy kéo có trọng tải đến 1.000 kg;

-

Hạng B1 cấp cho người không hành nghề lái xe điều khiển xe ô tô chở người đến 9
chỗ ngồi; xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500 kg;

-

Hạng B2 cấp cho người hành nghề lái xe điều khiển xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi;
xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500 kg;

-

Hạng C cấp cho người lái xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải từ 3.500 kg trở lên và các
loại xe quy định cho các giấy phép lái xe hạng B1, B2;

-

Hạng D cấp cho người lái xe ô tô chở người từ 10 đến 30 chỗ ngồi và các loại xe quy
định cho các giấy phép lái xe hạng B1, B2, C;

-

Hạng E cấp cho người lái xe ô tô chở người trên 30 chỗ ngồi và các loại xe quy định

cho các giấy phép lái xe hạng B1, B2, C, D;

- Giấy phép lái xe hạng FB2, FD, FE cấp cho người lái xe đã có giấy phép lái xe hạng
B2, D, E để lái các loại xe quy định cho các giấy phép lái xe hạng này khi kéo rơ moóc

12

12


hoặc xe ô tô chở khách nối toa; hạng FC cấp cho người lái xe đã có giấy phép lái xe
hạng C để lái các loại xe quy định cho hạng C khi kéo rơ moóc, đầu kéo kéo sơ mi rơ
moóc.
Một số vấn đề cơ bản về bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Khái niệm bảo hiểm vật chất xe cơ giới

3
1

Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản và nó được xếp là loại
bảo hiểm tự nguyện. Chủ xe tham gia vào loại hình bảo hiểm này nhằm mục đích được
nhận bồi thường cho những thiệt hại vật chất đối với xe của mình do rủi ro thuộc phạm
vi bảo hiểm gây nên.
Để có thể trở thành đối tượng được bảo hiểm, xe cơ giới phải được đảm bảo về
các mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành, đó là: được cơ quan có thẩm quyền cấp
giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi
trường, giấy phép lưu hành xe.

2


Phân loại bảo hiểm vật chất xe cơ giới
• Phân loại theo đối tượng bảo hiểm: bảo hiểm cho xe oto và bảo hiểm cho xe mô tô (xe
máy) 02 bánh và 03 bánh.
• Phân loại theo bộ phận trên xe:
- Bảo hiểm vật chất toàn bộ xe: là bảo hiểm thiệt hại vật chất cho tất cả bộ phận cấu

3

4

thành cấu tạo nên xe cơ giới và các thiết bị trang bị thêm so với chiếc xe nguyên bản
sau khi xuất xưởng.
Bảo hiểm vật chất thân, vỏ xe: là bảo hiểm thiệt hại vật chất của các bộ phận cấu tạo
nên tổng thành thân, vỏ của xe cơ giới.
Đối tượng bảo hiểm
Khác với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách
trên xe và đối với người thứ ba khác được áp dụng bắt buộc bằng pháp luật đối với các
chủ xe. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản và nó được thực hiện
dưới hình thức bảo hiểm tự nguyện.
Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại vật
chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Vì vậy, đối tượng
bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu
hành trên lãnh thổ quốc gia.
Đối với xe môtô, xe máy thường các chủ xe tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất
thân xe. Đối với xe ôtô, các chủ xe có thể tham gia toan gia toàn bộ hoặc cũng có thể
tham gia từng bộ phận của xe. Xe ôtô thường có các tổng thành: thân vỏ, động cơ, hộp
số…
Phạm vi bảo hiểm

13


13


-

-

Trong hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới, các rủi ro được bảo hiểm thông
thường gồm:
Tai nạn do đâm va, lật đổ
Cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá
Mất cắp toàn bộ xe
Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên
Ngoài việc bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo
hiểm trong những trường hợp trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe
tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm:
Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro nằm

trong phạm vi bảo hiểm
- Chi phỉ bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nới sửa chữa gần nhất
- Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm
• Trường hợp loại trừ:
Trong mọi trường hợp tổng số tiền bảo hiểm của công ty bảo hiểm là không vượt
quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên đơn hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Đồng thời công
ty bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại gây ra bởi:
- Hành động cố ý gây tai nạn, gây thiệt hại của chủ xe, lái xe hay những người được

-


giao sử dụng và bảo quản xe
Đua xe cơ giới không đảm bảo tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật vào hoạt động trên đường

-

bộ theo quy định của pháp luật hoặc không có giáy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ
thuật và môi trường phương tiện cơ giới đường bộ hợp lệ.
Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng

-

thêm do sửa chữa. Hao mòn tự nhiên được tính dưới hình thức khấu hao và thường
được tính theo tháng.
Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (trừ khi có

-

thỏa thuận khác)
Mất cắp bộ phận của xe.
Mất cắp hàng hóa được vận chuyển trên xe
Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định của Luật

an toàn giao thông đường bộ.
- Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng Luật an toàn giao thông đường bộ như:
+ Xe không có giấy phép lưu hành;
+ Lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ;
+ Lái xe bị ảnh hưởng của rượu bia, ma túy hoặc các chất kích thích tương tự khác trong

+
+

+
+

khi điều khiển xe;
Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép;
Xe chở quá trọng tải hoặc số hành khách quy định;
Xe đi vào đường cấm;
Xe đi đêm không đèn;

14

14


+ Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa;
- Những thiệt hại gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, thiệt hại gắn liền với việc sử

-

dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại; những thiệt hại mang yếu tố tinh thần; thiệt hại
không do tai nạn trực tiếp gây ra (mất cắp các bộ phận của xe; hư hỏng về điện hoặc
bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp,…)
Thiệt hại do chiến tranh và các nguyên nhân tương tự chiến tranh như: nội chiến, đình
công, bạo động dân sự, khủng bố,…
Trong thời gian bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe khác
thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới, Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ
không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí
cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ có yêu cầu.
Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới


5



Góp phần ổn định tài chính cho chủ phương tiện cơ giới khi xảy ra rủi ro tai nạn
giao thông
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã và đang có những chuyển
biến to lớn cả về chất và về lượng, Nhà nước không ngừng khuyến khích mọi thành
phần kinh tế sản xuất kinh doanh nhằm tận dụng nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư
vào đầu tư kinh doanh để sinh lời. Đối với một doanh nghiệp thì nguồn vốn quyết định
sức mạnh, vị thế. Chính vì vậy mà trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp dự trữ
một khoản tiền tương đối lớn để đề phòng khi rủi ro xảy ra bất ngờ thì quả là lãng phí.
Đặc biệt đối với doanh nghiệp đầu xe nhiều thì quỹ dự trữ chiếm tỷ lệ lớn và rất khó
xác định. Khó khăn này sẽ được giải quyết thông qua hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới,
công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm và quỹ này hoạt động trên nguyên tắc “số đông
bù số ít’’. Lúc này thay vì phải lập một quỹ riêng cho doanh nghiệp, chủ phương tiện
có thể yên tâm hoạt động nhờ một quỹ lớn hơn rất nhiều do các thành viên khác cùng
đóng góp.
Khi tham gia bảo hiểm, không ai muốn rủi ro xảy ra để được bảo hiểm. Tuy
nhiên, rủi ro không loại trừ bất kỳ ai và có thể xảy ra bất cứ khi nào. Hậu quả là có thể
gây thiệt hại cả về người và của cho chủ phương tiện và người thứ ba. Khi xảy ra tai
nạn, công ty bảo hiểm sẽ bồi thường trong hạn mức mà hai bên đã thỏa thuận. Số tiền
bồi thường của công ty cho chủ phương tiện giúp họ ổn định tình hình tài chính, nhanh
chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Có thể nói, bảo hiểm
vật chất xe cơ giới đã góp phần tạo ra một tâm lý yên tâm, thoải mái cho các chủ xe,
lái xe khi điều khiển các phương tiện tham gia giao thông.

15

15



• Ngăn ngừa và đề phòng hạn chế tổn thất do tai nạn giao thông gây ra
Số phí thu được từ người tham gia bảo hiểm sẽ hình thành nên một quỹ rất lớn,
quỹ này ngoài việc sử dụng bồi thường cho chủ xe cơ giới khi rủi ro xảy ra, còn sử
dụng để đề phòng hạn chế tổn thất như hỗ trợ đầu tư xây dựng đường lánh nạn, đường
phụ, làm thêm các biển báo chỉ đường, v.v… góp một phần không nhỏ làm giảm thiểu
nguy cơ gây tai nạn.
Bên cạnh việc thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, các doanh
nghiệp bảo hiểm còn có các chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích các chủ xe
nâng cao ý thức đề phòng hạn chế rủi ro và tổn thất thông qua việc thực hiện tuyên
truyền luật an toàn giao thông, phổ biến, nâng cao ý thức của mọi tầng lớp dân cư.

• Tăng thu cho ngân sách nhà nước và tạo thêm việc làm cho người lao động
Đời sống của con người ngày càng được nâng cao, số lượng xe cơ giới cũng ngày
một tăng. Hơn nữa khi điều kiện sống đầy đủ, trình độ nhận thức cao hơn thì nhu cầu
bảo vệ cho bản thân, gia đình, tài sản lại càng được nâng lên, doanh nghiệp bảo hiểm
sẽ ngày càng được mở rộng về quy mô, thu hút một lực lượng lao động không nhỏ
tham gia, góp phần tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho lao động. Mặt khác,
hoạt động bảo hiểm xe cơ giới là loại hình bảo hiểm thương mại, vì vậy công ty bảo
hiểm còn có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua các hình thức
nộp thuế, tức tăng thu cho ngân sách. Ngược lại, chính phủ có thể sử dụng ngân sách
phối hợp với doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng,
mở rộng quy mô hoạt động, tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống người dân.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ GIAO KẾT
VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM SÀI GÒN – HÀ
NỘI (BSH)


2.1.

Pháp luật điều chỉnh hành vi giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm
2.1.1. Pháp luật điều chỉnh hành vi giao kết hợp đồng bảo hiểm
2.1.1.1. Chủ thế giao kết hợp đồng bảo hiểm

Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010: “Hợp
đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm,
theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả
tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm”. Như vậy, trong một hợp đồng bảo hiểm xuất hiện 02 chủ thể:
bên mua bảo hiểm và bên bán bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm)

16

16


Bên mua bảo hiểm là tổ chức cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với
doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời
là người được bảo hiểm và người thụ hưởng bảo hiểm (khoản 6 Điều 3 Luật Kinh
doanh bảo hiểm). Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm thì người được bảo hiểm và người
thụ hưởng được được quy định như sau:
-

Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng
được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là
người thụ hưởng (Khoản 7 điều 3) Khi rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra đối với
người này sẽ làm phát sinh trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm của doanh nghiệp bảo
hiểm. Nếu người được bảo hiểm không phải là bên mua bảo hiểm thì bên mua bảo

hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với người được bảo hiểm.

-

Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền
bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người. (Khỏan 8 điều 3) Người thụ hưởng được
bên mua bảo hiểm chỉ định nhận toàn bộ hoặc một phần quyền lợi bảo hiểm theo hợp
đồng bảo hiểm. Người thụ hưởng được ghi tên trong Giấy yêu cầu bảo hiểm, Giấy
chứng nhận bảo hiểm và các thỏa thuận sửa đổi bổ sung khác (nếu có) của hợp đồng
bảo hiểm. Cũng xin nói thêm, pháp luật hiện hành không quy định cụ thể về điều kiện
của chủ thể được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Đồng nghĩa với việc, dù người này có đủ
năng lực hành vi dân sự hay không thì doanh nghiệp vẫn phải chi trả theo thỏa thuận.
Bên bán bảo hiểm (tức doanh nghiệp bảo hiểm) là doanh nghiệp được thành lập,
tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định
khác của pháp luât có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm (khoản 5 Điều
3 Luật Kinh doanh bảo hiểm).
2.1.1.2. Những quy định chi tiết về hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp
bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm
phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. (điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm)
Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Bằng chứng giao kết hợp đồng
bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax và các hình
thức khác do pháp luật quy định (điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm)

17

17



Theo đó, hợp đồng bảo hiểm bắt buộc phải được giao kết bằng văn bản: giấy
chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax… Tuy nhiên, giấy biên nhận
tiền ở đây không được coi là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm, vì nội dung của
giấy biên nhận là việc bên B đã nhận tiền của bên A vào khoảng thời gian nào, địa
điểm nào và chữ ký hai bên, không mang nội dung bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm phải có những nội dung theo luật định, cụ thể theo quy định
tại Điều 13 Luật kinh doanh bảo hiểm năm:
"1. Hợp đồng bảo hiểm phải có những nội dung sau đây:
a) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo
hiểm hoặc người thụ hưởng;
b) Đối tượng bảo hiểm;
c) Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản;
d) Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm;
đ) Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm;
e) Thời hạn bảo hiểm;
g) Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm;
h) Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường;
i) Các quy định giải quyết tranh chấp;
k) Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng.
2. Ngoài những nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, hợp đồng bảo hiểm có
thể có các nội dung khác do các bên thoả thuận."
Như vậy, khi bạn giao kết hợp đồng bảo hiểm thì cần có đầy đủ những nội dung
trên. Nếu không đầy đủ những nội dung này, hợp đồng bảo hiểm có thể vô hiệu và
quyền lợi của người mua bảo hiểm cũng sẽ không được đảm bảo.

18

18



Thường thì hợp đồng bảo hiểm là mẫu soạn sẵn của doanh nghiệp bảo hiểm để
điền những nội dung và được người tham gia bảo hiểm chấp nhận ghi vào giấy yêu cầu
bảo hiểm. Theo Bộ Luật Dân sự những hợp đồng soạn sẵn nếu có điều kiện từ ngữ nào
không được đề cập đến hoặc có cách hiểu không rõ ràng thì được giải thích sao cho có
lợi cho người tham gia bảo hiểm.
Thực tiễn pháp luật và hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở các nước trên thế giới
cho thấy, giao dịch bảo hiểm thường được thực hiện thông qua các hợp đồng được lập
bằng văn bản. Có nhiều lí do khiến cho hình thức hợp đồng bảo hiểm bằng văn bản
được đặt ra:
Thứ nhất, do yêu cầu an toàn trong kinh doanh bảo hiểm và tính phức tạp của
hoạt động bảo hiểm trong khâu xác định rủi ro và định phí. Đảm bảo của người bảo
hiểm đối với người được bảo hiểm không đơn thuần như việc bán một món hàng thể
hiện bằng hiện vật cụ thể mà chỉ là những cam kết.
Thứ hai, thời gian thực hiện hợp đồng kéo dài có khi nhiều năm thậm chí trên 20
năm như trường hợp bảo hiểm nhân thọ.
Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm có khả năng chuyển nhượng. Đây là một quy định
căn cứ vào thực tiễn đặc biệt là trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu. Người nhập
hàng chính là người được bảo hiểm có thể bán hàng bằng hình thức chuyển nhượng
chúng từ ngày khi hàng hóa đang được vận chuyển trên biển, nếu không có quy định
Hợp đồng bảo hiểm có thể chuyển nhượng sẽ dẫn đến tình trạng hàng hóa không được
bảo hiểm khi người nhập hàng bán hàng cho người khác.
Thứ tư, hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng bồi thường; sau khi tổn thất xảy ra, lợi
ích tài chính của người được bảo hiểm và công ty bảo hiểm là khác về nội dung mà họ
đã thỏa thuận nếu các thỏa thuận đó không được ghi lại bằng văn bản.
Như vậy, pháp luật quy định hình thức của hợp đồng bảo hiểm là văn bản nhằm
nâng cao độ chính xác thực về những nội dung đã cam kết. Khi có tranh chấp, hợp
đồng được giao kết bằng hình thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn cho các
bên dễ dàng thực hiện quyền của mình.
Một hợp đồng bảo hiểm bao gồm ít nhất 3 loại văn bản: Đề nghị Bảo hiểm, Quy
tắc bảo hiểm và Giấy chứng nhận bảo hiểm … Nếu thiếu một trong những loại văn

bản này, hợp đồng sẽ mất đi tính đồng bộ và không còn giá trị pháp lý.
Giấy chứng nhận bảo hiểm là một loại chứng chỉ pháp lý do bên bảo hiểm cấp
cho người được bảo hiểm, xác nhận hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết. Thông thường
giấy chứng nhận bảo hiểm được cấp để sử dụng cho các trường hợp như hợp đồng bảo

19

19


hiểm có nhiều người tham gia bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm được giao kết theo chế độ
bảo hiểm bắt buộc. Giấy chứng nhận bảo hiểm có thể là chứng chỉ pháp lý xác nhận người
sở hữu giấy chứng nhận bảo hiểm tham gia một hoặc nhiều chế độ bảo hiểm.

• Giấy chứng nhận bảo hiểm là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm, và chúng có mối
-

liên hệ chặt chẽ với nhau
Giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm:
Theo Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi, bổ sung năm 2010) thì bằng
chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo
hiểm (Insurance Certificate) là văn bản xác nhận bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm
phát hành, liệt kê những quyền lợi bảo hiểm chính của hợp đồng bảo hiểm. Theo đó,
khi doanh nghiệp bảo hiểm giao kết một hợp đồng bảo hiểm với người mua bảo hiểm,
họ có trách nhiệm giao giấy chứng nhận bảo hiểm cho người mua bảo hiểm nhằm xác
nhận rằng hợp đồng bảo hiểm này đã được giao kết.

- Giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng thể hiện sự tồn tại của thoả thuận bảo hiểm
theo điều kiện nào đó. Thông thường doanh nghiệp bảo hiểm chỉ cấp giấy chứng nhận
khi người mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm, trừ khi có thỏa thuận khác. Điều này

cho thấy giấy chứng nhận bảo hiểm hình thành sau khi hai bên đã thỏa thuận và giao
kết hợp đồng bảo hiểm. Trong một số trường hợp giấy chứng nhận bảo hiểm là một
phần không thể thiếu của hợp đồng bảo hiểm, bởi vì khi có tranh chấp, đây sẽ là căn
cứ chứng minh việc hai bên đã có giao kết hợp đồng bảo hiểm.
• Hợp đồng bảo hiểm quyết định nội dung của giấy chứng nhận bảo hiểm:
- Giấy chứng nhận bảo hiểm là một phần và là bằng chứng giao kết hợp đồng nên trong
đó phải ghi nhận và thể hiện được một số nội dung cơ bản của hợp đồng bảo hiểm như
thời hạn, điều kiện phát sinh bảo hiểm, giá trị bảo hiểm… Hợp đồng bảo hiểm ghi
nhận đầy đủ và chi tiết nội dung của thỏa thuận bảo hiểm giữa các bên, trong khi đó,
giấy chứng nhận là bằng chứng giao kết hợp đồng, vì vậy, những nội dung được ghi
nhận trong hợp đồng bảo hiểm sẽ được rút gọn và tối giản trong giấy chứng nhận bảo
hiểm. Thông thường nội dung của giấy chứng nhận bảo hiểm chỉ bao gồm những điều
khoản nói lên đối tượng được bảo hiểm, các chi tiết cần thiết cho việc tính toán bảo
hiểm và điều kiện bảo hiểm. Qua đó, có thể nhận thấy, những nội dung chi tiết trong
hợp đồng bảo hiểm đã được tối giản trong giấy chứng nhận bảo hiểm. Bởi vì, giấy
chứng nhận bảo hiểm đơn giản chỉ là chứng từ được doanh nghiệp bảo hiểm cấp để
xác nhận hàng hóa đã được mua bảo hiểm.
Giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng ký kết hợp đồng bảo hiểm giữa chủ xe
cơ giới và công ty bảo hiểm. Đây là nội dung tóm tắt thể hiện cam kết của công ty bảo
hiểm với Người được bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm thường có 02 liên (01 cho

20

20


khách hàng, 01 lưu tại công ty bảo hiểm). Công ty bảo hiểm chỉ cấp giấy chứng nhận
bảo hiểm khi chủ xe đã đóng phí bảo hiểm (trừ khi có thoả thuận khác).
2.1.2. Pháp luật điều chỉnh hành vi thực hiện hợp đồng bảo hiểm
2.1.2.1. Về quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong việc thực hiện hợp

đồng bảo hiểm
Bên mua bảo hiểm là tổ chức cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với
doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời
là người được bảo hiểm (khoản 7 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm) và người thụ
hưởng bảo hiểm (quy định tại khoản 8 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Với những
quy định đó thì bên mua bảo hiểm có các quyền và nghĩa vụ sau:


Quyền

-

Lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam để mua bảo hiểm;

-

Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; cấp
giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm;

-

Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo các quy định của Luật Kinh
doanh bảo hiểm;

-

Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm;


-

Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm hoặc
theo quy định của pháp luật;

-

Các quyền khác theo quy định của pháp luật.



Nghĩa vụ

-

Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thỏa thuận trong hợp
đồng bảo hiểm;

-

Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu
cầu của doanh nghiệp bảo hiểm;

21

21


-


Thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách
nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo
yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm;

-

Thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thỏa
thuận trong hợp đồng bảo hiểm;

-

Áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật Kinh doanh
bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan;

-

Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động
theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luât có
liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm. Với quy định này, doanh nghiệp bảo
hiểm có các quyền và nghĩa vụ sau:



Quyền

-

Thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm;


-

Yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc
giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm;

-

Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo quy định của Luật Kinh
doanh bảo hiểm;

-

Từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi thường cho người
được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hoặc
trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm;

-

Yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy
định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;

-

Yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi
thường cho người được bảo hiểm do người thứ ba gây ra đối với tài sản và trách nhiệm
dân sự;

-

Các quyền khác theo quy định của pháp luật.


22

22




Nghĩa vụ

-

Giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa
vụ của bên mua bảo hiểm;

-

Cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi
giao kết hợp đồng bảo hiểm;

-

Trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm;

-

Giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường;

-


Phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường
về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm;

-

Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
2.1.2.2. Về nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm và vấn đề xác định thời điểm phát
sinh trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải trả cho doanh nghiệp bảo
hiểm để hình thành nên quỹ bảo hiểm. Nếu quỹ bảo hiểm chưa thiết lập, doanh nghiệp
bảo hiểm không thể bồi thường cho bên mua bảo hiểm. Do vậy, nếu bên mua bảo hiểm
chưa đóng phí bảo hiểm thì trách nhiệm bồi thường hay trách nhiệm bảo hiểm của
doanh nghiệp bảo hiểm cũng chưa thể phát sinh.
Thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm là vấn đề quan trọng của hợp đồng
bảo hiểm, nó ràng buộc trách nhiệm phải bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm nếu
rủi ro tổn thất được bảo hiểm xảy ra, đồng thời ràng buộc trách nhiệm phải đóng đủ
phí của người tham gia bảo hiểm tính từ thời điểm đó. Trong thực tế, doanh nghiệp bảo
hiểm cung cấp cho khách hàng giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm đã ghi
được những yếu tố cơ bản của hợp đồng bảo hiểm và được coi là bằng chứng đã ký kết
hợp đồng bảo hiểm. Việc vừa chấp nhận bảo hiểm xong đã thu phí bảo hiểm là doanh
nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi thường cho khách hàng. Vì vậy cần phải quy
định rõ hợp đồng bảo hiểm nhất thiết phải lập thành văn bản và quy định rõ thời điểm
phát sinh trách nhiệm bảo hiểm để gắn chặt nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm, bảo
vệ quyền lợi khách hàng ngay từ thời điểm phát sinh trên.

23

23



Điều 15 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Trách nhiệm bảo hiểm phát sinh
khi hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết hoặc khi có bằng chứng doanh nghiệp bảo
hiểm đã chấp nhận bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm”. Quy định trên đã thể hiện rõ, để
được nhận tiền bồi thường, bên mua bảo hiểm đã phải đóng phí cho doanh nghiệp bảo
hiểm (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận về gia hạn đóng phí). Tức là bên mua bảo
hiểm phải thực hiện nghĩa vụ đóng phí trước mới được quyền nhận tiền bồi thường.
Quy định trên của Luật Kinh doanh bảo hiểm là hoàn toàn phù hợp với bản chất của
quan hệ bảo hiểm, đó là quỹ chi trả bảo hiểm được tạo lập từ phí bảo hiểm. Nếu bên
mua bảo hiểm chưa đóng phí, có nghĩa rằng, sự đóng góp của họ vào quỹ bảo hiểm
chưa có, do vậy không có cơ sở để được nhận tiền bồi thường bảo hiểm từ quỹ này.
Hơn nữa, nếu xét từ góc độ pháp lý, nếu người mua bảo hiểm yêu cầu doanh nghiệp
bảo hiểm cung ứng dịch vụ cho mình nhưng lại chưa trả tiền cho việc cung ứng dịch
vụ đó thì chưa thể hiện ý chí tiếp nhận dịch vụ. Nếu Luật Kinh doanh bảo hiểm chỉ
quy định về thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm như vậy thì không có gì đáng
bàn. Tuy nhiên, khi nghiên cứu Điều 14 và vế trước của Điều 15, chúng ta thấy sự mập
mờ của quy định trên thể hiện rất rõ và đây là nguyên nhân chính dẫn đến những tranh
chấp về nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm trên thực tế.
Điều 14 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: “Bằng chứng giao kết hợp đồng
bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm...”, và Điều 15 Luật kinh doanh
bảo hiểm quy định: “Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm phát sinh khi hợp đồng
bảo hiểm đã được giao kết hoặc có bằng chứng doanh nghiệp bảo hiểm đã chấp nhận
bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đã đóng phí...”. Hai điều luật trên cho thấy, pháp luật
chưa có sự phân định rõ giữa thời điểm giao kết hợp đồng và thời điểm phát sinh hiệu
lực pháp lý của hợp đồng. Cụ thể, theo quy định trên, thời điểm giao kết hợp đồng là
thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm đồng ý bảo hiểm (thể hiện qua việc cấp giấy chứng
nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm). Nhưng đồng ý bảo hiểm khác hoàn toàn với việc phát
sinh trách nhiệm bảo hiểm. Cụ thể, đồng ý bảo hiểm trong bảo hiểm thể hiện doanh
nghiệp bảo hiểm có đủ điều kiện để cấp bảo hiểm, tuy nhiên nếu doanh nghiệp bảo

hiểm đồng ý bảo hiểm nhưng bên mua bảo hiểm chưa đóng phí thì không thể phát sinh
trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm được. Sở dĩ, có lập luận như trên bởi vì, hợp
đồng bảo hiểm chỉ được coi là có hiệu lực pháp lý khi nó thể hiện ý chí tham gia vào
hợp đồng của cả hai bên. Nếu bên mua bảo hiểm chưa đóng phí thì điều đó có nghĩa là
bên mua bảo hiểm chưa thể hiện ý chí tham gia hợp đồng. Hơn nữa, bản chất kinh tế
của phí bảo hiểm là khoản tiền mà người mua bảo hiểm đóng góp vào quỹ bảo hiểm để
doanh nghiệp bảo hiểm chi trả bảo hiểm, do vậy, nếu người mua bảo hiểm chưa đóng

24

24


phí, thì không có cơ sở kinh tế để doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường. Còn xét ở góc
độ pháp lý, khi người mua bảo hiểm chưa thực hiện nghĩa vụ thì cũng không thể được
hưởng quyền. Như vậy, có thể khẳng định, thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm
là thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đóng
phí bảo hiểm.
2.1.2.3. Trách nhiệm cung cấp thông tin trong việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm
a. Trách nhiệm cung cấp thông tin của doanh nghiệp bảo hiểm đối với khách
hàng trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng
Đây là trách nhiệm quan trọng của doanh nghiệp bảo hiểm, thể hiện tính chính
xác trung thực đầy đủ lời cam kết của mình. Tại khoản 1 và khoản 3 Điều 19 Luật
Kinh doanh bảo hiểm quy định:
“Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp
đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện,
điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm
về tính chính xác, trung thực của thông tin đó.”
“…Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm
giao kết hợp đồng bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực

hiện hợp đồng bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh
cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật.”
Khi giao kết bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra lời cam kết về điều kiện và
phương thức bồi thường nên mọi thông tin đưa ra để cam kết phải là trung thực, rõ
ràng. Đó là cơ sở để người tham gia bảo hiểm lựa chọn có chấp nhận mua bảo
hiểm hay không, người tham gia bảo hiểm lựa chọn trước khi đưa ra quyết định tham
gia hợp đồng bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm về điều khoản
loại trừ trách nhiệm trước khi ký kết hợp đồng. Giải thích cho bên mua các điều khoản
của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm. Trong trường hợp hợp đồng
bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản đó sẽ được giải thích có lợi cho
người được bảo hiểm hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Được quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp
được pháp luật quy định như: Bên mua bảo hiểm cung cấp thông tin sai sự thật nhằm

25

25


×