Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp Thực tiễn thực hiện tại công ty TNHH Thương mại và Sản xuất Tân Huy Hoàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.14 KB, 54 trang )

TÓM LƯỢC
Trước yêu cầu phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực
hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Đồng thời, hoạt động mở rộng quan hệ đối
ngoại và chủ động hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị… đã
giúp cho các mối quan hệ về kinh tế, dân sự, thương mại phát triển đa dạng và không
ngừng tăng thêm về số lượng cũng như chất lượng của các hợp đồng. Cùng với đó, là
sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động M&A trên thế giới, và ngày càng xuất hiện nhiều
các thương vụ mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam. Để tạo ra môi trường pháp lý ổn
định, bảo đảm an toàn pháp lý cho các cá nhân và tổ chức khi tham gia quan hệ hợp
đồng thì cần phải bảo đảm bằng một hệ thống pháp luật, trong đó bao gồm các quy
định pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán doanh nghiệp nói riêng.
Nội dung cơ bản của khóa luận được tóm lược như sau: Chương I khóa luận nghiên
cứu một cách chi tiết về khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán doanh nghiệp.Từ
các phân tích về hợp đồng mua bán doanh nghiệp, khóa luận cũng làm rõ được vai trò
của nó đối với nền kinh tế xã hội. Đối với chương II, khóa luận tập trung đánh giá về
thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Qua đó rút ra được
những khó khăn trong việc áp dụng và thi hành các quy định pháp luật về hợp đồng
mua bán doanh nghiệp. Sau khi đánh giá thực trạng về việc áp dụng pháp luật hợp
đồng mua bán hàng hóa, khóa luận cũng đã nghiên cứu một cách chi tiết và đưa ra
được các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi tại
chương III.

1


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài, tác giả đã có một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu
và học tập nghiêm túc để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp của mình. Đầu tiên, tác
giả xin phép được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn – ThS.
Tạ Thị Thùy Trang đã nhiệt tình hướng dẫn để tác giả có thể hoàn thành bài tốt nghiệp


của mình.
Xin cảm ơn Ban giám hiệu Nhà trường, Khoa Kinh tế - Luật, các Thầy giáo, Cô
giáo trường Đại học Thương Mại đã truyền đạt những kiến thức pháp luật quý báu
đồng thời tạo điều kiện giúp tác giả có thể hoàn thành chương trình học Đại học và hỗ
trợ sự nghiệp của mình sau này.
Xin cảm ơn Giám đốc và các nhân viên trong Công ty TNHH thương mại và sản
xuất Tân Huy Hoàng đã tận tình chỉ bảo và cho phép tác giả được thực tập tại đó cũng
như cung cấp những số liệu, thông tin cần thiết để giúp tác giả hoàn thành bài khóa
luận tốt nghiệp này.
Tuy nhiên, do trình độ kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên
bài khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, tác giả kính mong nhận được ý
kiến đóng góp từ các thầy giáo, cô giáo để bài khóa luận được hoàn thiện hơn nữa.
Hà Nội, ngày.......tháng.......năm 2016
Sinh viên
Đỗ Bích Phương

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

4


Ý NGHĨA

BLDS

Bộ luật Dân sự

LTM

Luật Thương mại

LĐT

Luật Đầu tư

LCK

Luật Chứng khoán

LDN

Luật Doanh nghiệp

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

M&A

Hộp đồng sáp nhập và mua lại doanh nghiệp



5


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của để tài

Merge and Acquisition (viết tắt là M&A) có nghĩa là sáp nhập và mua lại (hoặc
mua bán) doanh nghiệp. Đó là hoạt động giành quyền kiểm soát một phần hoặc toàn
bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc sở hữu một phần hoặc toàn
bộ doanh nghiệp. Trên thế giới, hoạt động mua bán sáp nhập doanh nghiệp được hình
thành khá sớm và được coi là một trong những giải pháp tổ chức lại các doanh nghiệp,
đồng thời cũng tạo ra các xu hướng tập trung lại để thống nhất, tập hợp nguồn lực tài
chính, công nghệ, nhân lực, thương hiệu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh.
Ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế ngày nay, hoạt động mua bán, sáp
nhập doanh nghiệp đang dần khẳng định vai trò quan trọng trong tiến trình tái cơ cấu,
xây dựng và phát triển nền kinh tế. Để hoạt động mua bán doanh nghiệp phát huy được
hết vai trò của mình, hệ thống pháp luật điều chỉnh được xem là kim chỉ nam để hoạt
động mua bán doanh nghiệp có cơ hội phát triển đúng hướng và phát huy hết lợi ích
của nó đối với nền kinh tế. Bên cạnh về các quy định cuả pháp luật về chủ thể, đối
tượng hay thủ tục về mua bán doanh nghiệp thì các quy định về hợp đồng mua bán
doanh nghiệp được xem là một trong những nội dung vô cùng quan trọng. Việc điều
chỉnh, quy định của pháp luật về vấn đề trong hợp đồng luôn mang tính chất điều tiết
đảm bảo tối đa sự công bằng về quyền lợi của các bên giao kết. Vì vậy việc nắm vững,
hiểu rõ các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp sẽ giúp các chủ
thể kinh doanh ký kết và thực hiện hợp đồng được thuận lợi, an toàn và hiệu quả, tránh
các tranh chấp, rủi ro đáng tiếc.Chính vì thế việc nghiên cứu các quy phạm pháp luật
về hợp đồng mua bán doanh nghiệp có tác động to lớn đến sự phát triển của hoạt động
kinh tế nói chung và hoạt động M&A nói riêng.

Qua các thống kê thực tế, các thương vụ mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam
tăng lên đáng kể qua mỗi năm. Năm 2015 số lượng các thương vụ tăng vọt và giá trị
các thương vụ làm nên các con số ấn tượng ,các thương vụ đạt khoảng 2,5 tỷ USD
tăng 15% so với năm trước đó. Hoạt động mua bán doanh nghiệp đag trở nên rất sôi
động tại Việt Nam, tuy nhiên trên thực tế chưa có văn bản pháp lý nào định nghĩa cụ
thể về vấn đề này. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam khi thực hiện mua bán doanh
nghiệp dựa trên khung pháp lý dành cho cổ phần hóa, phát hành và niêm yết chứng
khoán , Luật Doanh nghiệp (LDN 2014), Luật Đầu tư (LĐT 2014), Luật Cạnh tranh
(LCT 2004) và Luật Chứng khoán (LCK 2006), các quy định này chưa có sự chuyên
biệt cụ thể về pháp luật dành cho hoạt động mua bán doanh nghiệp nói chung và pháp
6


luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp nói riêng. Chính vì sự mâu thuẫn giữa sự
thiếu hụt các quy định pháp lý với nhu cầu mạnh mẽ trong việc thực hiện các hoạt
động mua bán doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế nước ta, việc phân tích các quy
định pháp luật hiện hành về hoạt động mua bán doanh nghiệp, tìm ra các ưu điểm và
hạn chế của pháp luật và đưa ra các đề xuất kiến nghị để xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về mua bán doanh nghiệp là một vấn đề cấp thiết. Điều này sẽ góp phần đảm bảo
các giao dịch mua bán doanh nghiệp diễn ra đúng trình tự pháp lý, có sự quản lý của
nhà nước, đảm bảo được nền kinh tế và bảo vệ được quyền lợi của các chủ thể kinh
doanh.
Từ những lý luận và thực tế trên cùng quá trình thực tập thực tế tại công ty trách
nhiệm hữu hạn (TNHH) thương mại và sản xuất Tân Huy Hoàng, các vấn đề pháp lý
liên quan đến mua bán doanh nghiệp đặc biệt là hợp đồng mua bán doanh nghiệp đã
thu hút sự quan tâm của tác giả. Mặc dù hợp đồng mua bán doanh nghiệp đã được ký
kết thành công tuy nhiên qua việc nghiên cứu và thực tiễn nhận thấy quá trình giao kết
và thực hiện hợp đồng mua bán doanh nghiệp tại công ty vẫn còn tồn đọng một số hạn
chế. Vì vậy việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp tại công ty
TNHH thương mại và sản xuất Tân Huy Hoàng là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa đối

với công ty mà còn đối với hoạt động mua bán doanh nghiệp của các doanh nghiệp
khác. Đây chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về hợp đồng mua bán
doanh nghiệp - Thực tiễn thực hiện tại công ty TNHH Thương mại và Sản xuất Tân
Huy Hoàng” để làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp là một đề tài tương đối mới mẻ của
Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên những năm gần đây, cùng với sự gia tăng của các giao
dịch mua bán doanh nghiệp thì số lượng các bài viết nghiên cứu đã tăng lên khá nhiều.
Qua quá trình tìm hiểu có thể kể đến một số công trình và bài viết nghiên cứu liên
quan đến pháp luật về mua bán doanh nghiệp và hợp đồng mua bán doanh nghiệp như:
Nghiên cứu: M&A- Sáp nhập và mua lại doanh nghiệp ở Việt Nam- Hướng
dẫn cơ bản dành cho bên bán của hai tác giả Phạm Trí Hùng và Đặng Thế Đức, Nxb
Lao động xã hội, 2011 là một cuốn sách phân tích các thương vụ sáp nhập và mua lại
doanh nghiệp ở Việt Nam theo các nội dung: sự cần thiết sáp nhập và mua lại doanh
nghiệp; thẩm định doanh nghiệp; khuân khổ pháp lý để thực hiện hoạt động mua bán
doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các tác giả cũng giới thiệu tới độc giả các mẫu hợp đồng
mua bán doanh nghiệp, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, biên bản ghi nhớ trong giao
dịch sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. Cuốn sách trên được ghi nhận là nguồn tư liệu
cung cấp thông tin cho bên bán doanh nghiệp, vì vậy, những yêu cầu tư vấn pháp lý
7


cho bên mua doanh nghiệp cũng như các vấn đề pháp lý trong nội dung, nghĩa vụ,
quyền lợi của các bên trong hợp đồng M&A vẫn là một nội dung bỏ ngõ mà nghiên
cứu: M&A- Sáp nhập và mua lại doanh nghiệp ở Việt Nam- Hướng dẫn cơ bản dành
cho bên bán chưa có lời giải đáp.
Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội năm 2010: Pháp luật về mua
bán công ty ở Việt Nam- thực trạng và giải pháp của Thạc sĩ Vũ Phương Đông. Tác
giả đã phân tích các nội dung về quan niệm mua bán công ty, bản chất pháp lý của mua
bán công ty, các quy định về tài sản và định giá tài sản của công ty, hợp đồng mua bán

công ty, phương thức mua bán công ty. Tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật về mua bán công ty như cần phải xây dựng quan niệm về mua bán
doanh nghiệp hoặc phải ban hành nghị định riêng điều chỉnh về mua bán doanh nghiệp
ở Việt Nam. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, tác giả đã giới hạn phạm vi nghiên cứu
của luận văn là “công ty” không nghiên cứu quy định về các loại hình doanh nghiệp
khác như mua bán doanh nghiệp tư nhân, mua bán hợp tác xã…
Bài viết: “Hoạt động M&A theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Phạm Trí Hùng.
Bài viết đưa ra các khái niệm về M&A được quy định ở các nguồn luật khác nhau , từ
mỗi khái niệm này , tác giả phân tích tính chất đặc điểm, ưu và nhược điểm về mỗi
khái niệm đã được quy định qua các góc nhìn khác nhau. Từ đó nêu ra các điểm phù
hợp và các điểm bất cập của pháp luật Việt Nam về hoạt động M&A. Tuy nhiên vấn đề
nổi bật nhất của bài viết nêu ra được chỉ là các góc nhìn, quy định khác nhau của các
bộ luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh … về cả hai hoạt động
mua bán và sáp nhập chứ chưa đi sâu vào chi tiết tìm hiểu về hoạt động mua bán
doanh nghiệp.
Nói chung, các công trình nghiên cứu kể trên đa phần là đi theo phương pháp
nghiên cứu tổng quát về tất cả các nội dung pháp luật của hợp đồng mua bán doanh
nghiệp. Có thể nói chưa có công trình nghiên cứu riêng biệt nào về các quy phạm pháp
luật Việt Nam quy định về hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Vì vậy bài khóa luận này
sẽ đi sâu vào phân tích cụ thể về hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo pháp luật hiện
hành và áp dụng cụ thể vào công ty TNHH thương mại và sản xuất Tân Huy Hoàng.
Từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế và đưa ra các giải pháp cải thiện nhằm nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Trong để tài khóa luận này, tác giả sẽ đi nghiên cứu về năm vấn đề lớn sau:
Thứ nhất là phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung của hợp đồng mua bán
doanh nghiệp.
Thứ hai là phân tích về thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán doanh
nghiệp tại Việt Nam.
8



Thứ ba là đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán doanh
nghiệp tại công ty TNHH thương mại và sản xuất Tân Huy Hoàng.
Thứ tư là đánh giá và chỉ ra một số hạn chế cần khắc phục trong pháp luật quy
định về hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Thứ năm là đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc
ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán doanh nghiệp tại công ty TNHH thương mại và
sản xuất Tân Huy Hoàng nói riêng và với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
4. Đối tượng , mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đế lý luận chung về pháp lý
liên quan đến hợp đồng mua bán doanh nghiệp, thực trạng các quy phạm pháp luật về
hợp đồng mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam. Từ đó phân tích thực tiễn thực hiện các
điều khoản này tại công ty TNHH thương mại và sản xuất Tân Huy Hoàng. Bên cạnh
đó khóa luận cũng tập trung nghiên cứu đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm giải
quyết các vấn đề còn hạn chế nhằm giúp doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động
mua bán một cách dễ dàng hơn, đồng thời góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật trở
nên chặt chẽ, hợp lý hơn.
4.2.
Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua quá trình nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát thực trạng áp dụng
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật hợp đồng mua bán doanh nghiệp để có thể:
tiếp cận nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định hiện hành của pháp luật về hợp
đồng mua bán doanh nghiệp, từ đó nêu lên được thực trạng thi hành các quy định pháp
luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp và đánh giá thực trạng đó , cuối cùng là đưa ra
một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu lực của pháp luật, hoàn thiện các quy định về hợp
đồng trong mua bán doanh nghiệp, tăng cường vai trò của pháp luật trong tiến trình
thúc đẩy phát triển kinh tế.

4.3.
Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: bài khóa luận sẽ tiến hành nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt
Nam hiện hành về việc mua bán doanh nghiệp.
Về không gian: khóa luận tập trung làm rõ các vấn đề pháp lý về hợp đồng mua
bán doanh nghiệp tại Việt Nam, nghiên cứu điển hình tại công ty TNHH thương mại
và sản xuất Tân Huy Hoàng.
5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phép biện chứng duy vật
của triết học Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Để thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng phối hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau như:
9


Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích, lý giải, lập luận
những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo các quy định pháp luật
hiện hành.
Phương pháp thu thập thông tin: Mục đích của việc thu thập thông tin là làm cơ
sở lý luận khoa học hay luận cứ để đi sâu vào phân tích các quy phạm pháp luật về hợp
đồng mua bán doanh nghiệp như: thu thập các quy định, các văn bản quy phạm pháp
luật và các tài liệu tổng quan quy định về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán
doanh nghiệp nói riêng; thu thập sổ sách, số liệu có liên quan đến hợp đồng mua bán
doanh nghiệp của công ty TNHH thương mại và sản xuất Tân Huy Hoàng để làm rõ
thực trạng áp dụng pháp luật hợp đồng mua bán doanh nghiệp tại công ty.
6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp
Bố cục bài khóa luận ngoài phần mở đầu và kết luận thì gồm có 3 chương:
Chương I: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
doanh nghiệp.

Chương II: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh về hợp
đồng mua bán doanh nghiệp - Thực tiễn thực hiện tại công ty TNHH Thương mại và
Sản xuất Tân Huy Hoàng.
Chương III: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp
đồng mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

10


CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP
HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP
1.1.

Một số vấn đề cơ bản liên quan đến hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về mua bán doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm mua bán doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng nhanh hiện nay bên cạnh việc
đầu tư vào phát triển sản phẩm dịch vụ các doanh nghiệp luôn mong muốn tìm các
biện pháp nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh để chiếm lĩnh thị phần, củng cố
quyền lực cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp nhỏ đứng trước năng lực cạnh
tranh như vũ bão của các doanh nghiệp lớn hơn thì có xu hướng bắt tay với nhau nhằm
nâng cao vị thế trong thị trường, tập trung nguồn lực để đủ sức cạnh tranh với các đối
thủ lớn tầm.Còn đối với các doanh nghiệp lớn, khi đã đạt được vị thế cạnh tranh cao
trên thị trường thì bản thân doanh nghiệp luôn luôn phải tìm cách giữ vững và tăng
cường năng lực cạnh tranh, hạn chế hiện tượng các doanh nghiệp nhỏ bắt tay nhau
chiếm lĩnh thị phần. Chính vì vậy, một trong những phương cách mà tất cả các doanh
nghiệp thường hướng tới để đảm bảo hoạt động kinh doanh của mình đó là việc thỏa
thuận nhằm đạt đến khả năng kiểm soát và chi phối hoạt động kinh doanh của nhau,
bằng cách này quy mô và năng lực thị trường của các doanh nghiệp ngay lập tức được
củng cố và mở rộng. Hiện tượng mở rộng quy mô kinh doanh hoặc tăng cường khả

năng chi phối trong việc quản trị điều hành hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp khác được gọi là mua bán doanh nghiệp.
Mua bán doanh nghiệp được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như mua
lại toàn bộ doanh nghiệp, mua lại một phần của doanh nghiệp hoặc mua cổ phần của
doanh nghiệp… Pháp luật Việt Nam đã có nhiều kênh pháp luật quy định điều chỉnh
việc mua bán doanh nghiệp theo những hình thức cụ thể trên. Cụ thể là:
Luật Doanh nghiệp 2014 không định nghĩa về mua bán doanh nghiệp hay mua
bán công ty mà chỉ quy định về mua bán, chuyển nhượng cổ phần. Ngoài ra có quy
định về bán doanh nghiệp tư nhân tại điều 187 bộ luật này: “Chủ doanh nghiệp tư
nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác. Sau khi bán doanh
nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp phát sinh trong thời gian trước ngày chuyển
giao doanh nghiệp, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp
có thỏa thuận khác. Người bán, người mua doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định
của pháp luật về lao động. Người mua doanh nghiệp phải đăng ký thay đổi chủ doanh
nghiệp tư nhân theo quy định của Luật này.”
11


Theo Luật Cạnh tranh 2004: “Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp
mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối
toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại” (Khoản 3, Điều 17). Theo
quy định này, mua bán doanh nghiệp là việc mua tài sản của doanh nghiệp tuy nhiên
việc mua này lại mang đến cho bên mua quyền kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một
ngành nghề của doanh nghiệp bị mua. Tuy nhiên Luật Cạnh tranh (2004) lại chỉ quan
tâm đến khả năng kiểm soát, chi phối của doanh nghiệp sau thương vụ mua bán doanh
nghiệp. Sở dĩ như vậy bởi lẽ bản chất của Luật Cạnh tranh (2004) là luật mang tính
chất kiểm soát các hành vi có khả năng xâm hại trật tự cạnh tranh. Với ý nghĩa như
vậy, hoạt động mua bán doanh nghiệp được tiếp cận trong Luật Cạnh tranh (2004)
dưới khía cạnh khả năng kiểm soát chi phối doanh nghiệp sau mua bán doanh nghiệp

có ảnh hưởng gì đến cạnh tranh hay không? Nếu ảnh hưởng nghiêm trọng đến cạnh
tranh, hành vi đó sẽ bị kiểm soát. Vì vậy định nghĩa về mua bán doanh nghiệp được
quy định trong Luật Cạnh tranh chỉ được xét trên khía cạnh của luật mà không thể coi
đây là định nghĩa chung cho mọi trường hợp mua bán doanh nghiệp.
Năm 2014, cùng với việc ban hành luật Doanh nghiệp, Quốc hội đã thông qua
Luật Đầu tư và trong luật này đã coi hoạt động mua bán doanh nghiệp như một hình
thức đầu tư trực tiếp nhằm mục đích kinh doanh theo quy định tại điều 24 Luật đầu tư
2014. Cụ thể quy định: Nhà đầu tư có quyền góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào
tổ chức kinh tế.
Nghị định số 128/2014/NĐ-CP quy định về bán, giao và chuyển giao doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước có hiệu lực từ ngày 31 tháng 12 năm 2014 đưa ra định
nghĩa bán doanh nghiệp, cụ thể quy định: Bán doanh nghiệp là việc chuyển đổi sở hữu
toàn bộ một doanh nghiệp hoặc đơn vị hạch toán phụ thuộc cho tập thể, cá nhân hoặc
pháp nhân khác có thu tiền. Định nghĩa này cho phép xác định bản chất của quan hệ
mua bán doanh nghiệp và chuyển quyền sở hữu có thu tiền và đối tượng của quan hệ
mua bán là một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp.
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có một quan điểm thống nhất về khái niệm
mua bán doanh nghiệp, tuy nhiên dựa vào tính chất, đặc điểm mà có thể khái quát mua
bán doanh nghiệp được hiểu là một vụ giao dịch mà ở đó một cá nhân, tổ chức được
biết đến như một bên đề nghị (bên mua) giành quyền quản lý hoạt động cũng như tài
sản của công ty bị mua lại. Cho đến nay hoạt động mua bán doanh nghiệp không còn
là một hoạt động kinh tế mới. Mặt khác hoạt động này đang có ý nghĩa và vai trò vô
12


cùng quan trọng giúp thanh lọc, tái cơ cấu các doanh nghiệp yếu , hoạt động kinh
doanh kém hiệu quả đồng thời thúc đẩy đầu tư , thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.1.2.

1.1.2.


Đặc điểm của mua bán doanh nghiệp
Mua bán doanh nghiệp là một loại quan hệ đặc thù, khác hoàn toàn với việc cho
thuê doanh nghiệp, bán tài sản doanh nghiệp hay sáp nhập doanh nghiệp. Đối tượng
của quan hệ mua bán doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt, đó chính là “ doanh
nghiệp”. Chủ thể có quyền bán doanh nghiệp phải là chủ sở hữu doanh nghiệp, chủ thể
có quyền mua doanh nghiệp là các tổ chức cá nhân có nhu cầu mua doanh nghiệp và
có quyền mua doanh nghiệp. Hình thức pháp lý ghi nhận các quan hệ mua bán doanh
nghiệp là hợp đồng mua bán doanh nghiệp ; hợp đồng chuyển nhượng cổ phần , phần
vốn góp chi phối.
So với cho thuê doanh nghiệp, bên thuê doanh nghiệp chỉ có quyền quản lý, điều
hành doanh nghiệp theo thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê doanh nghiệp và các quy
định pháp luật khác có liên quan thì trong mua bán doanh nghiệp, bên mua có quyền
sở hữu và kiểm soát một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp.
Mua bán doanh nghiệp và mua bán tài sản doanh nghiệp cũng có những sự khác
biệt cơ bản về đối tượng và chủ thể mua bán. Đối tượng của quan hệ mua bán tài sản là
tài sản của doanh nghiệp mục tiêu, còn như đã đề cập ở trên, đối tượng của quan hệ
mua bán doanh nghiệp là doanh nghiệp. Còn xét về đối tượng chủ thể, chủ thể của mua
bán tài sản doanh nghiêp chính là doanh nghiệp đó còn chủ thể của quan hệ mua bán
doanh nghiệp là chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Ngoài ra, so với hoạt động sáp nhập doanh nghiệp, mua bán doanh nghiệp cũng
có nhiều điểm khác biệt về đối tượng và hệ quả pháp lý. Cụ thể là : đối tượng của mua
bán doanh nghiệp là quyền sở hữu toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp mục tiêu, còn
đối với hoạt động sáp nhập doanh nghiệp đối tượng là toàn bộ tài sản , quyền , nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp bị sáp nhập sang doanh nghiệp nhận sáp nhập.
Khái niệm, đặc điểm về hợp đồng mua bán doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm
Thực tiễn giao dịch cho thấy mua bán doanh nghiệp là một loại giao dịch khá
phức tạp cho nên các bên thường lựa chọn việc ký kết với nhau một thỏa thuận chuyển
nhượng bằng văn bản gọi là hợp đồng mua bán doanh nghiệp để làm bằng chứng ghi

nhận sự thỏa thuận của hai bên.
Hợp đồng mua bán doanh nghiệp là một trong những điều kiện tiên quyết để hình
thành thương vụ mua bán doanh nghiệp. Hợp đồng mua bán doanh nghiệp được coi là
sự thỏa thuận giữa các bên , theo đó bên bán doanh nghiệp có nghĩa vụ chuyển giao
toàn bộ hoặc một phần quyền sở hữu doanh nghiệp cho bên mua lại doanh nghiệp và
nhận tiền bán doanh nghiệp theo thỏa thuận trong hợp đồng, còn bên mua lại doanh
13


1.1.2.2.

nghiệp có nghĩa vụ nhận toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp và tiếp tục thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đó theo quy định của pháp luật cũng như theo
thỏa thuận được ghi nhận trong hợp đồng , đồng thời trả tiền cho bên bán lại doanh
nghiệp.
Đặc điểm của hợp đồng mua bán doanh nghiệp
Về cơ bản hợp đồng mua bán doanh nghiệp cũng giống như các loại hợp đồng
kinh tế khác, đều mang những đặc trưng cơ bản của hợp đồng dân sự. Hợp đồng mua
bán doanh nghiệp được thể hiện dưới nhiều hình thức như: hợp đồng mua bán toàn bộ
doanh nghiệp, hợp đồng mua bán một phần doanh nghiệp, hợp đồng chuyển nhượng
vốn góp, cổ phần…Mặc dù có nhiều hình thức nhưng hợp đồng mua bán doanh nghiệp
có những đặc trưng cơ bản nhất, đó là:
Thứ nhất: mục đích của việc mua lại doanh nghiệp trong hợp đồng mua bán
doanh nghiệp là nhằm tiến hành các hoạt động kinh doanh với tư cách là doanh nghiệp
mua lại.Hợp đồng mua lại doanh nghiệp cũng là một loại hình đầu tư với mục đích thu
lại lợi nhuận, tuy nhiên loại hình hợp đồng này có đặc điểm hoàn toàn khác với các
loại hình đầu tư khác là bên mua lại giành lấy quyền kiểm soát doanh nghiệp mục tiêu
ở một mức độ nhất định, hoặc toàn bộ chứ không đơn thuần là chỉ sở hữu một phần
vốn góp hay cổ phần của doanh nghiệp như các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Điều này hoàn toàn
khác với việc mua một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Việc mua lại

doanh nghiệp là việc mua lại không chỉ là tài sản mà còn là các quyền nghĩa vụ và các
tài sản vô hình có giá trị khác của doanh nghiệp.
Thứ hai: đối với hợp đồng mua bán doanh nghiệp, quyền sở hữu doanh nghiệp
được chuyển từ tổ chức, cá nhân này sang tổ chức, cá nhân khác. Tính chất quyết định
để phân biệt hoạt động mua bán một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp với các hoạt
động đầu tư góp vốn thông thường khác chính là quyền sở hữu. Khi một nhà đầu tư đạt
được mức sở hữu phần vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp đủ để tham gia quyết định
các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp mới được coi là hoạt động mua bán doanh
nghiệp. Việc chuyển quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp có thể là
dưới hình thức chuyển toàn bộ quyền hoặc chuyển một phần quyền sở hữu.
Thứ ba: giá trị của hợp đồng trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp chính là giá
trị của một doanh nghiệp. Xuất phát từ tính chất riêng biệt của hợp đồng mua bán
doanh nghiệp, giá trị xác định trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp không chỉ dừng
lại ở giá trị tài sản thực của doanh nghiệp mục tiêu mà còn bao gồm các giá trị hữu
hình của doanh nghiệp như thương hiệu, mạng lưới khách hàng, quyền và nghĩa vụ đối
với doanh nghiệp đó. Thậm chí nếu hai bên có thỏa thuận thì giá trị của hợp đồng còn
là những khoản nợ hay các tiêu sản của doanh nghiệp.

14


1.2.
1.2.1.
1.2.1.2.

1.2.1.3.

Cơ sở ban hành và nội dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán doanh
nghiệp.
Cơ sở ban hành pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp

Cơ sở về chính trị
Sau khi giành được thắng lợi trong công cuộc kháng chiến dành độc lập, nền
chính trị của nước ta đã trở nên ổn định. Trong suốt quá trình hơn 30 năm đổi mới,
kinh tế nước ta đã và đang phát triển theo chiều hướng tích cực, các doanh nghiệp
được thành lập ngày càng nhiều và hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau.
Cùng với đó, Việt Nam ngày càng gia tăng các quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực đặc
biệt là lĩnh vực kinh tế với các nước trong và ngoài khu vực. Điều này tạo điều kiện
thuận lợi cho các quan hệ kinh tế và xã hội đẩy mạnh và phát triển. Hoạt động mua
bán doanh nghiệp là một trong những quan hệ thương mại góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Quan hệ mua bán doanh nghiệp được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý
là hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Vì vậy, trước tình hình trên cùng với quá trình hội
nhập kinh tế thế giới mạnh mẽ và nhu cầu phát triển kinh tế trong nước, việc ban hành
các văn bản pháp luật điều chỉnh những quan hệ trong hoạt động mua bán hàng hóa
nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thế tham gia là công việc tất yếu mà Nhà
nước phải thực hiện.
Cơ sở kinh tế
Nhận thức được nhu cầu cần phải thay đổi, từ năm 1986 Việt Nam chính thức
chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Thực
tiễn những năm đổi mới cho thấy rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường
của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó, chúng ta bước đầu khai
thác được tiềm năng trong nước đồng thời thu hút vốn đầu tư và cơ sở khoa học kỹ
thuật từ nước ngoài, mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều quốc gia trên thế giới. Pháp
luật là công cụ để Nhà nước điều tiết hoạt động của các tổ chức kinh tế thuộc mọi
thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Vì vậy
trước tình hình hội nhập của nền kinh tế, hệ thống pháp luật Việt Nam phải thay đổi
sao cho phù hợp với quy định chung của thế giới trong đó việc điều chỉnh hệ thống
pháp luật về mua bán doanh nghiệp cũng không nằm ngoại lệ.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đối với nước ta là một quá trình lâu

dài, khó khăn bởi thị trường kinh tế luôn luôn biến động và có nhiều quan hệ kinh tế
mới phát sinh mà pháp luật chưa thể lường trước hết được để thiết lập quy phạm điều
chỉnh. Vì vậy nên hệ thống pháp luật luôn được cập nhật bổ sung và hoàn chỉnh kịp
15


1.2.1.4.

1.2.2.
1.2.2.1.

1.2.2.2.

thời sao cho phù hợp với tình hình thực tế để hạn chế tối đa các lỗ hổng của luật. Bên
cạnh đó, để chuẩn bị cho việc gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới WTO và đáp ứng
xu hướng phát triển của nền kinh tế , Quốc hội đã thông qua BLDS 2005 thống nhất
điều chỉnh các mối quan hệ về hợp đồng nói chung để thay thế cho Bộ luật Dân sự
1999 . Đồng thời các ngành luật chuyên ngành mới được ra đời như: Luật Đầu tư
(2005) và mới được thay thế, điều chỉnh bằng Luật Đầu tư (2014): Luật Chứng khoán
(2007) …các ngành luật này ra đời góp phần giúp cho thị trường tài chính nói chung
và thị trường mua bán doanh nghiệp nói riêng trở nên minh bạch hơn thu hút được
nhiều nhà đầu tư cả trong nước lẫn ngoài nước.
Cơ sở xã hội
Trong nhà nước pháp quyền, mọi quan hệ xã hội đều cần được điều chỉnh bởi
pháp luật. Quan hệ mua bán doanh nghiệp là một phần của quan hệ xã hội. Thực chất
hoạt động mua bán doanh nghiệp là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm mục đích kinh
doanh , sao cho hai bên đều được hưởng lợi ích tối đa.Việc ban hành các quy định về
mua bán doanh nghiệp thông qua hợp đồng mua bán doanh nghiệp sẽ đảm bảo quyền
và lợi ích của các chủ thể tham gia , từ đó tạo điều kiện xây dựng , duy trì và phát triển
các mối quan hệ tốt đẹp giữa cá nhân , tổ chức trong xã hội.

Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán doanh nghiệp
Khái niệm pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán doanh nghiệp
Trong bất kỳ mối quan hệ hợp đồng nào, việc xác định xem các quy định pháp
luật nào điều chỉnh giao dịch đó là hết sức cần thiết, đặc biệt đối với một quan hệ hợp
đồng phức tạp như hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện bởi quyền lực nhà nước để điều
chỉnh những quan hệ xã hội giữa các cá nhân, tổ chức. Hợp đồng mua bán doanh
nghiệp là một hợp đồng mua bán thể hiện mối quan hệ hợp đồng phát sinh trong hoạt
động mua bán doanh nghiệp giữa bên bán doanh nghiệp và bên mua doanh nghiệp nên
những quan hệ đó được điều chỉnh bởi các quy tắc xử sự chung của nhà nước.
Như vậy, pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán doanh nghiệp là tập hợp những
quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh
các mối quan hệ giữa bên bán và bên mua nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và
nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động mua bán doanh nghiệp.
Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán doanh nghiệp
Hợp đồng mua bán doanh nghiệp là một loại hợp đồng đặc thù không chỉ mang
đặc trưng của hợp đồng dân sự nói chung mà nội dung của nó còn phải phù hợp với
những quy định về mua bán doanh nghiệp. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam chưa có một
nguồn luật chính thống, chuyên biệt nào để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp
16


1.2.2.3.

đồng mua bán doanh nghiệp. Có một số các quy định chi tiết được nằm rải rác ở từng
ngành luật khác nhau, cụ thể như: Các vấn đề chung nhất của hợp đồng mua bán
doanh nghiệp thì chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự. Với những vấn đề liên quan
đến đăng ký doanh nghiệp, chuyển đổi địa vị pháp lý của chủ doanh nghiệp, quyền và
nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp…thì chịu sự điều chỉnh của pháp Luật Doanh nghiệp.

Với những vấn đề riêng trong hợp đồng (lao động, tài chính, chuyển giao đất đai, tài
sản trí tuệ, tài sản có đăng ký quyền sở hữu…) thì chịu sự điều chỉnh của pháp luật
chuyên ngành (pháp luật lao động, pháp luật đất đai, pháp luật tài chính…)
Quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán doanh nghiệp
Hợp đồng mua bán doanh nghiệp là một trong những điều kiện tiên quyết để
hình thành thương vụ mua bán doanh nghiệp. Quan niệm về mua bán doanh nghiệp ở
các nước có thể khác nhau vì vậy hợp đồng mua bán doanh nghiệp có thể tồn tại dưới
những tên gọi khác nhau. Bên cạnh đó còn tùy thuộc vào trường phái pháp luật mà
mỗi nước lựa chọn mà điều chỉnh pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp ở các
mức độ khác nhau. Mặt khác, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và kiến thức kinh tế,
pháp luật của các bên mua bán doanh nghiệp ở mỗi quốc gia có sự khác nhau, điều đó
tác động đến thái độ của Nhà nước đối với việc có cần thiết phải ban hành pháp luật
riêng quy định về hợp đồng mua bán doanh nghiệp hay chỉ cần thiết kế những quy
định chung về hợp đồng. Đề cao nguyên tắc tự do kinh doanh, trong đó có tự do giao
kết hợp đồng, nhìn chung các quốc gia không can thiệp quy định nội dung các bên
phải thỏa thuận trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Ở Việt Nam nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng mua bán doanh nghiệp
gồm các yêu cầu đảm bảo điều kiện có hiệu lực của hợp đồng quy định tại Bộ luật Dân
sự và các nội dung chủ yếu về chủ thể, đối tượng tham gia; hình thức ,thủ tục giao kết
hợp đồng ; điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và các trường hợp hợp đồng vô hiệu;
quyền và nghĩa vụ của các bên;… trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Trên cơ sở Bộ luật Dân sự 2005 , Luật doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014 ,
Luật Cạnh Tranh 2004 là căn cứ pháp lý quan trọng điều chỉnh hợp đồng mua bán
doanh nghiệp, nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua doanh nghiệp ở Việt Nam
có thể chia thành các nhóm quy phạm sau:
Các quy phạm quy định về chủ thể giao kết hợp đồng mua bán doanh nghiệp:
Chủ thể trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp phải là những tổ chức, cá nhân được
quyền mua bán doanh nghiệp. Trong đó các tổ chức, cá nhân này không thuộc các đối
tượng bị cấm quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp. Chủ thể tham gia quan hệ hợp
đồng mua bán doanh nghiệp còn phải đáp ứng các điều kiện chung như: đối với tổ

chức thì tổ chức đó phải có đủ năng lực pháp luật; đối với các cá nhân tham gia vào
17


1.3.

quan hệ hợp đồng mua bán doanh nghiệp thì phải có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự đầy đủ.
Các quy phạm quy định về nội dung và hình thức hợp đồng mua bán doanh
nghiệp: Về căn bản pháp luật Việt Nam không quy định nội dung giao kết hợp đồng
mua bán doanh nghiệp nhưng thực tế trên cơ sở hợp đồng nói chung thì nội dung giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa có thể căn cứ vào các quy định của BLDS 2005. Còn
về hình thức hợp đồng mua bán doanh nghiệp, hợp đồng mua bán doanh nghiệp phải
được xác lập bằng văn bản tuy nhiên những quy định này nằm rải rác ở nhiều văn bản
luật, điều này dẫn đến nhiều khó khăn cho việc tìm hiểu và thực thi pháp luật.
Các quy phạm về trình tự thủ tục giao kết hợp đồng mua bán doanh nghiệp: Bất
cứ loại hợp đồng nào cũng phải được giao kết theo một trình tự thủ tục nhất định, đó là
cách thức mà các bên phải tiến hành nhằm xác lập mối quan hệ hợp đồng có giá trị
pháp lý. BLDS 2005 quy định cụ thể và chi tiết về đề nghị giao kết hợp đồng, thời hạn
trả lời chấp nhận đề nghị giao kết, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng…
Các quy phạm khác về hợp đồng mua bán doanh nghiệp: BLDS 2005 cũng quy
định trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp trong quá
trình thực hiện hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Các nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán doanh nghiệp
1.3.1. Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận, không được trái pháp luật, đạo
đức xã hội
Hợp đồng mua bán doanh nghiêp là một dạng hợp đồng vì vậy nó được điều
chỉnh bởi các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nói chung và các nguyên tắc của hợp
đồng nói riêng. Nguyên tắc đặc trưng trước tiên đó là: nguyên tắc tự do, tự nguyện
thỏa thuận, không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Theo nguyên tắc tự do giao kết

hợp đồng, các bên chủ thể giao kết hợp đồng được quyết định mọi vấn đề liên quan
đến hợp đồng, không có bất kỳ cá nhân, tổ chức nào kể cả Nhà nước được can thiệp,
làm thay đổi ý chí của các bên chủ thể. Tuy nhiên sự thỏa thuận của các bên trong hợp
đồng không được trái với điều cấm của pháp luật và những chuẩn mực đã được xã hội
thừa nhận rộng rãi. Nguyên tắc này được thể hiện tại Điều 4 BLDS 2005 (Nguyên tắc
tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận); khoản 1 Điều 389 BLDS 2005 (Tự do giao kết
hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội).
1.3.2. Nguyên tắc bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Việc tham gia hợp đồng hay không là do các bên có toàn quyền định đoạt. Không
một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được áp đặt ý chí của mình cho đơn vị kinh tế khi
ký kết hợp đồng. Mọi sự ép buộc ký kết hợp đồng giữa bên này với bên kia đều làm
cho hợp đồng vô hiệu. Tại Điều 5; khoản 2 Điều 389 BLDS 2005 quy định mọi thành
phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại, quan hệ hợp
18


đồng. Theo nguyên tắc này, nội dung của hợp đồng phải bảo đảm hài hòa lợi ích cũng
như quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Tự nguyện trong việc thỏa thuận giá cả, phương
thức thanh toán, thời hạn và địa điểm giao nhận. Các bên phải thỏa thuận thống nhất ý
chí, không bên nào được áp đặt đe dọa, lừa dối đối tác. Nếu vi phạm nguyên tắc này
thì hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu.
1.3.2. Nguyên tắc thực hiện đúng
Chấp hành thực hiện đúng hợp đồng là không được tự ý thay đối tượng này bằng
một đối tượng khác hoặc không được thay thế việc thực hiện nó bằng cách trả một số
tiền nhất định hoặc không thực hiện nó. Nguyên tắc này đòi hỏi thỏa thuận cái gì thì
thực hiện đúng cái đó.
1.3.3. Nguyên tắc thực hiện đầy đủ.
Nguyên tắc này có nghĩa là thực hiện đầy đủ tất cả các điều khoản đã cam kết
trong hợp đồng, tức là tất cả các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng đều
phải được thực hiện đầy đủ.

1.3.4. Nguyên tắc giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng
Nguyên tắc này đòi hỏi các bên phải hợp tác chặt chẽ với nhau, thường xuyên
theo dõi và giúp đỡ nhau để thực hiện đúng và nghiêm chỉnh mọi điều khoản của hợp
đồng, giúp nhau khắc phục những khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh
tế.

19


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG MUA
BÁN DOANH NGHIỆP – THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY TNHH
THƯƠNG MẠI VÀ SẢN XUẤT TÂN HUY HOÀNG.
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh
hợp đồng mua bán doanh nghiệp
2.1.1. Tổng quan tình hình về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán doanh
nghiệp
Ở Việt Nam, hoạt động mua bán doanh nghiệp được quan tâm kể từ khi Luật
Doanh nghiệp 1999 được ban hành. Trước đó, phần lớn các giao dịch mua bán doanh
nghiệp diễn ra trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và được điều chỉnh
theo Luật Đầu tư nước ngoài 1996. Tuy nhiên kể từ sau thời điểm Việt Nam chính thức
gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì mua bán doanh nghiệp mới phát triển
một cách mạnh mẽ. Nền kinh tế Việt Nam mở cửa giao thương với nền kinh tế thế giới
cùng với sự ra đời của hàng loạt các văn bản pháp luật như Luật Doanh nghiệp (2005),
Luật Đầu tư (2005), Luật Cạnh Tranh (2004) và sau này là Luật Doanh nghiệp
(2014) và Luật Đầu tư (2014), các quy định pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước… đã góp phần tạo môi trường đầu tư rộng mở cho tất cả các thành phần kinh
tế và cũng từ đây hoạt động mua bán doanh nghiệp trở nên được quan tâm nhiều hơn.
Thêm vào đó là những tác động của cuộc khủng hoảng nền kinh tế thế giới cùng với sự
cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài
và các doanh nghiệp trong nước với nhau trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới, đã

có không ít các doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn này bị khủng hoảng, kiệt quệ. Ngoài
một số bộ phận chấp nhận phá sản, thì một số bộ phận khác chọn phương cách tái cơ
cấu để trụ vững qua thời kỳ khủng khoảng và mua bán doanh nghiệp là một công cụ
tái cơ cấu đã được rất nhiều doanh nghiệp áp dụng.
Bên cạnh đó, sự thay đổi trong chính sách pháp luật để phù hợp hơn với thông lệ
quốc tế cũng như với cam kết gia nhập WTO cùng với sự ra đời các luật và nghị định
về kinh doanh đã giúp cho thị trường tài chính nói chung và thị trường mua bán doanh
nghiệp nói riêng trở nên minh bạch hơn thu hút được nhiều nhà đầu tư cả trong nước
lẫn ngoài nước.
Từ tình hình thực tiễn trên cùng với tính chất phức tạp của giao dịch mua bán
doanh nghiệp mà việc ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh về hợp đồng mua
bán doanh nghiệp được xem là một sự tất yếu cần phải có.

2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
20


2.1.2.1. Môi trường thể chế, chính trị
Đối với mọi hoạt động kinh doanh nói chung và đối với hợp đồng mua bán doanh
nghiệp nói riêng đều nhạy cảm với tình hình chính trị của mỗi quốc gia. Các yếu tố
về thể chế, pháp luật có thể ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh tế trong đó có hoạt
động mua bán doanh nghiệp. Một nền chính trị ổn định, không có những yếu tố gây
xung đột sẽ tạo tâm lý ổn định cho các nhà đầu tư. Các chính sách, qui định, đạo luật
liên quan đến hoạt động mua bán doanh nghiệp như luật dân sự, luật doanh nghiệp,
luật đầu tư hay luật cạnh tranh nếu được xem xét xây dựng một cách có khoa học, đầy
đủ, rành mạch sẽ tạo một khung pháp lý vững chắc thúc đẩy hoạt động mua bán doanh
nghiệp phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập các hợp đồng mua bán.
2.1.2.2. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế cũng là một trong những nhân tố có tác động không nhỏ đển
hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Theo học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế xã

hội thì cơ sở hạ tầng (bao gồm toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh
tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định) quyết định đến kiến trúc thượng tầng.
Vì vậy, yếu tố quan trọng quyết định đến việc thực thi pháp luật nói chung và pháp luật
về hợp đồng mua bán doanh nghiệp nói riêng chính là cơ sở kinh tế. Điều kiện kinh tế
thấp kém thì tính chất của hành vi thực thi pháp luật ít phức tạp hơn; ngược lại, kinh tế
càng phát triển thì tính chất của hành vi thực hiện pháp luật càng trở lên phức tạp.
Điều đó cho thấy trình độ phát triển kinh tế tác động thường xuyên, trực tiếp đến chất
lượng và hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mọi sự vận động của nền kinh tế
được vận động dưới sự kiểm soát của nhà nước về các yếu tố sản xuất cũng như phân
phối về thu nhập, nhà nước can thiệp sâu vào tất cả các hoạt động của nền kinh tế,
không coi trọng quy luật vận động của thị trường. Vì thế việc hoạt đồng mua bán
doanh nghiệp gần như không xuất hiện nhiều và vì vậy cũng không có nhiều các hệ
thống quy phạm pháp luật điều chỉnh loại hợp đồng mua bán này. Ngược lại, trong cơ
chế kinh tế thị trường, quyền tự do kinh doanh, đầu tư và hội nhập của các chủ thể
kinh tế trong xã hội rất lớn vì vậy hoạt động mua bán doanh nghiệp cũng từ đó mà
phát triển. Chính vì thế, việc thiết lập các hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cho
họa động mua bán nói chung và hợp đồng mua bán doanh nghiệp nói riêng là vấn đề
cấp thiết cần phải thực hiện.
2.1.2.3. Hệ thống pháp luật về hợp đồng
21


Bên cạnh các nhân tố kể trên, bản thân hệ thống pháp luật về hợp đồng mua bán
doanh nghiệp cũng là một trong những yếu tố lớn ảnh hưởng đến việc thực thi pháp
luật về hợp đồng. Sự ra đời và sửa đổi một loạt các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động mua bán doanh nghiệp được coi là một bước tiến lớn trong quá trình
phát triển, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự vận động của nền kinh tế thị trường đã
làm đòi hỏi hệ thống pháp luật Việt Nam cần thiết phải xây dựng các quy phạm pháp
luật điều chỉnh hoạt động mua bán doanh nghiệp. Mặc dù hợp đồng mua bán doanh

nghiệp thực chất là việc người mua và người bán tự tìm đến với nhau, tự thỏa thuận và
thực hiện thương vụ. Nó gần như mang tính tự nguyện không chịu sự tác động của các
quy định pháp lý. Song, hợp đồng mua bán hàng hóa lại cần có những quy định, hướng
dẫn cụ thể từ phía các cơ quan chức năng để hướng dẫn thực hiện, kết thúc và giải
quyết các vấn đề hậu giao kết và thực hiện họp đồng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
cho tất cả các bên liên quan.
Cùng với đó, việc ban hành các quy phạm pháp luật nhằm mục đích để ngăn
chặn tình trạng cạnh tranh không lành mạnh hay độc quyền lũng đoạn thị trường của
một nhóm doanh nghiệp khi thực hiện mua bán doanh nghiệp với mục đích thâu tóm
hay lũng đoạn thị trường. Trong trường hợp, nếu khung pháp lý liên quan tới hợp đồng
mua bán doanh nghiệp chưa thực sự đi sâu, chưa phản ánh đúng thực trạng hoạt động
mua bán doanh nghiệp của nền kinh tế nơi mà các hợp đồng được ký kết thì có thể sẽ
gây nên những khó khăn với doanh nghiệp khi tiến hành các thủ tục mua bán doanh
nghiệp cần thiết.
2.1.2.4. Nguồn lực của doanh nghiệp.
Nhân tố này ảnh hưởng lớn đến hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán doanh
nghiệp nói riêng, nó có thể tác động trực tiêp đến việc thực hiện hợp đồng nhanh
chóng hơn, đơn giản hơn và hiệu quả hơn hoặc ngược lại.
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
doanh nghiệp
2.2.1. Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán doanh nghiệp
Pháp luật Việt Nam không có định cụ thể về chủ thể trong hợp đồng mua bán
doanh nghiệp. Duy nhất, tại điều 187 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “chủ doanh
nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác”. Trên thực tế,
khi tiến hành giao dịch, các bên căn cứ vào các quy định gián tiếp và thông lệ thực tế
để xác định rằng chủ thể của giao dịch mua bán doanh nghiệp. Chủ thể của hợp đồng
mua bán doanh nghiệp gồm bên bán doanh nghiệp là chủ sở hữu doanh nghiệp và bên
22



mua là tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua doanh nghiệp. Việc xác định về chủ thể mua
doanh nghiệp là cơ sở pháp lý giúp các bên có nhu cầu mua doanh nghiệp xem xét họ
có được quyền mua doanh nghiệp hay không để hạn chế việc đầu tư không khả thi.
Mặt khác, quy định pháp luật về chủ thể mua bán doanh nghiệp chính là một trong căn
cứ để xem xét điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Quy định về chủ thể bán doanh nghiệp: Về nguyên tắc, chủ sở hữu doanh nghiệp
có quyền bán doanh nghiệp. Riêng đối với các doanh nghiệp nhà nước, do đặc thù chủ
sở hữu là Nhà nước, một chủ thể đặc biệt nên xác định cơ quan, tổ chức nào đại diện
cho bên bán doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa được xác định rõ ràng trong các văn
bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. Việc không quy định rõ ràng này sẽ gây ra
không ít những khó khăn trong việc xác định cơ quan nào sẽ là đại diện cho bên bán
trong một thương vụ mua bán doanh nghiệp nhà nước.
Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, để hòa nhập với nền kinh tế thế giới và để
tuân thủ theo các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký với các tổ chức quốc tế, nước ta
đang cố gắng cổ phần hóa hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước, thể hiện đúng quy luật
và đặc tính của nền kinh tế thị trường, xóa bỏ hoàn toàn bàn tay điều tiết vô hình của
nhà nước đến nền kinh tế, để nền kinh tế thị trường tự mình điều chỉnh, phát triển và tự
đào thải theo đúng quy luật cung cầu vốn có của nó. Chính vì vậy các thương vụ mua
bán doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt là dưới hình thức cổ phần hóa các công ty cổ
phần xuất hiện ngày càng nhiều. Tuy nhiên cơ quan nào sẽ đại diện cho nhà nước đứng
ra làm đại diện cho bên bán khi nhà nước được hình thành, điều hành quản lý bởi rất
nhiều các cơ quan, bộ, ban ngành khác nhau. Nếu không xác định rõ được đại diện chủ
thể bán trong trường hợp đặc biệt này sẽ gây ra các vấn đề lạm quyền hoặc thực hiện
sai thẩm quyền từ đó tác động trực tiếp đến tính pháp lý của hợp đồng mua bán doanh
nghiệp.
Nhìn nhận ra được vấn đề này một số nước trên thế giới đã có những quy định về
việc xác định đại diện chủ sở hữu đối với trường hợp mua bán doanh nghiệp nhà nước
như pháp luật Nga. Tại Bộ luật Dân sự Liên bang Nga đã quy định: Trong hợp đồng
mua bán doanh nghiệp nhà nước, bên mua là chủ thể chung trong các hợp đồng dân
sự: cá nhân, tổ chức (Điều 17, điều 48) và một số doanh nghiệp nhà nước khác. Bên

bán đại diện cho Nhà nước (là Chính phủ, cơ quan Liên bang về quản lí tài sản quốc
gia, các cơ quan liên bang hành pháp khác, cơ quan thuộc chủ thể liên bang và cơ quan
vùng tự trị) . Từ đây, pháp luật Việt Nam có nên chăng cần tham khảo xem xét để cụ
thể hóa hơn nữa về nội dung này để đảm bảo tính chặt chẽ trong việc xác định chủ thể
bên bán đối với việc mua bán doanh nghiệp nhà nước.

23


Quy định về chủ thể có quyền mua doanh nghiệp: Chủ thể mua lại doanh nghiệp
là tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua doanh nghiệp và đáp ứng các điều kiện về tư cách
chủ thể mua doanh nghiệp. Pháp luật Việt Nam quy định về một số chủ thể không có
quyền thành lập quản lý doanh nghiệp và một số đối tượng khác không được mua
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Cụ thể là về một số chủ thể không có quyền thành
lập và quản lý doanh nghiệp được quy định tại khoản 2 điều 18 luật Doanh nghiệp
2014:
“ Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp
tại Việt Nam:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để
thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức, viên chức;
c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc
phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người
được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh
nghiệp;
d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước, trừ những
người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại
doanh nghiệp khác;

đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất
năng lực hành vi dân sự; tổ chức không có tư cách pháp nhân;
e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết
định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc
đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định,
liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác theo quy
định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng.”
Tuy nhiên những quy định này lại tạo ra một số vấn đề không rõ ràng trong việc
xác định các chủ thể được quyền mua doanh nghiệp. Nếu xác định chủ thể có quyền
mua lại doanh nghiệp là những chủ thể được quyền mua bán doanh nghiệp và không
thuộc các trường hợp bị pháp luật cấm quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp, thì
những đối tượng thuộc khoản 2 điều 18 Luật Doanh nghiệp hoàn toàn không được
phép tham gia với tư cách chủ thể trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Thế nhưng,
nếu mục đích của những đối tượng kể trên không phải là thành lập quản lý doanh
nghiệp mà đơn cử họ mua lại doanh nghiệp để mang toàn bộ doanh nghiệp đó làm tài
24


sản góp vốn vào một doanh nghiệp khác, hoặc người mua dùng doanh nghiệp mua
được làm tài sản tặng cho một người khác có đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp,
hoặc dùng làm tài sản thừa kế. Những điều này hoàn toàn không nằm trong những quy
định pháp luật cấm. Vậy những đối tượng kể trên có được thực hiện quyền mua bán
doanh nghiệp hay không. Pháp luật Việt Nam có nên tước bỏ hoàn toàn các quyền mua
bán doanh nghiệp của các đối tượng kể trên cho dù mục đích mua lại doanh nghiệp của
những đối tượng này không nhằm thành lập và quản lý doanh nghiệp hay cần bổ sung
một quy định rõ ràng về các trường hợp ngoại lệ dựa trên mục đích mua lại doanh
nghiệp của các đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp tại điều 18 được
phép mua lại doanh nghiệp.
2.2.2. Hình thức của hợp đồng mua bán doanh nghiệp
Pháp luật Việt Nam hiện hành không quy định cụ thể về hình thức của hợp đồng

mua bán doanh nghiệp. Do đó, về mặt nguyên tắc, hợp đồng mua bán doanh nghiệp có
thể được xác lập theo một trong các hình thức của hợp đồng dân sự như quy định tại
Điều 410, Bộ luật Dân sự 2005, như bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ
thể. Tuy nhiên, xuất phát từ các các quy định gián tiếp của pháp luật và đặc trưng về
đối tượng của hợp đồng mua bán doanh nghiệp, hình thức của hợp đồng mua bán
doanh nghiệp cần được xác lập bằng văn bản. Cụ thể là:
Tại khoản 3, điều 15 Nghị định 128/2014/NĐ-CP điều chỉnh về việc bán, giao và
chuyển giao doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước quy định trong thời hạn mười ngày
làm việc, kể từ khi có quyết định kết quả bán doanh nghiệp, đại diện người bán và
người mua phải ký kết hợp đồng mua bán doanh nghiệp;
Tại khoản 1, điều 46 Nghị định 78/2015/NĐ-CP quy định về đăng ký doanh
nghiệp quy định trường hợp chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
chuyển nhượng toàn bộ vốn điều lệ cho một cá nhân hoặc một tổ chức thì trong hồ sơ
đăng ký thay đổi chủ sở hữu công ty phải có hợp đồng chuyển nhượng vốn;
Tại khoản 3, điều 47 Nghị định 78/2015/NĐ-CP cũng quy định trong hồ sơ đăng
ký thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân khi chủ doanh nghiệp tư nhân bán doanh nghiệp
của mình cho người khác phải có hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Do đó, một cách gián tiếp pháp luật Việt Nam đã quy định hợp đồng mua bán
doanh nghiệp phải được xác lập bằng văn bản.
Việc xác lập hợp đồng dưới hình thức bằng văn bản pháp luật Việt Nam có quy
định: Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ
liệu được coi là giao dịch bằng văn bản (Khoản 1, Điều 124, Bộ luật Dân sự 2005);
Như vậy từ quy định này có thể đương nhiên hiểu rằng: hợp đồng mua bán doanh
nghiệp qua các hình thức điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu cũng được công nhận
25


×