Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

THIÊN CHÚA GIÁO – CÔNG GIÁO RÔMA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.25 KB, 33 trang )

THIÊN CHÚA GIÁO – CÔNG GIÁO RÔMA
Dẫn nhập1
Trong tiếng Việt, Thiên Chúa giáo là thuật ngữ lỏng lẻo thường dùng để
chỉ Công giáo Rôma, hay gọi tắt là Công giáo (tiếng
Latinh: Catholicismus). Thuật ngữ này cũng được dùng để gọi
chung Kitô giáo (Christianitas). Tuy nhiên, xét về mặt ngữ nghĩa thì cụm
từ "Thiên Chúa giáo" có thể đề cập đến tất cả các tôn giáo độc
thần (monotheismus), khi đó cách gọi Thiên Chúa được dùng để đề cập
tới thần linh tối cao và duy nhất. Từng tôn giáo đó có quan điểm và cả
cách gọi khác nhau về Thiên Chúa, ví dụ như trong số các tôn giáo khởi
nguồn từ Abraham có:


Ki-tô giáo (hay Cơ Đốc giáo): gồm các nhánh chính là Công giáo
Rô-ma, Chính thống giáo Đông phương, Tin Lành và nhánh trung
dung Anh giáo đều thờ Thiên Chúa Ba Ngôi



Do Thái giáo: thờ Thiên Chúa mang danh hiệu là "Yahweh" (Việt
hóa là "Giavê")



Hồi giáo: thờ Thiên Chúa mang danh hiệu là "Allah"

Tại Việt Nam, do các yếu tố lịch sử mà từ "Thiên Chúa giáo" thường
được dùng để gọi Công giáo Rôma. Đây là tôn giáo thờ Thiên Chúa
được truyền bá vào Việt Nam sớm nhất (dù rằng việc thờ Ông
Trời theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam về phương diện nào đó có thể
coi là thờ Thiên Chúa). Đ ây cũng là tôn giáo đầu tiên dùng thuật từ


"Thiên Chúa" để đề cập đến thần linh tối cao và duy nhất, theo thuật từ
trong tiếng Hán: 天天 (pīnyīn: Tiānzhǔ, âm Hán Việt: Thiên Chủ, âm Hán
Nôm-hóa: Thiên Chúa) do các nhà truyền giáo Dòng Tên tại Trung
Hoa sử dụng từ thế kỷ 16.
Vì thế, trong bài khảo luận này, chỉ xin được trình bày về Công Giáo
Rôma.

1 Theo tải ngày 18/12/2019.


Tổng quát2
Giáo hội Công giáo (cụ thể hơn gọi là Giáo hội Công giáo Rôma) là
một giáo hội thuộc Kitô giáo, hiệp thông hoàn toàn với vị Giám mục Giáo
phận Rôma, hiện nay là Giáo hoàng Phanxicô. Giáo hội Công giáo hiện
là nhánh Kitô giáo lớn nhất, với trên một tỉ thành viên, chiếm hơn một
nửa số Kitô hữu và 1/6 dân số thế giới. Tín hữu tuyên xưng Giáo hội
Công giáo Rôma là giáo hội duy nhất do chính Chúa Giêsu
Kitô (Kitô hay Cơ Đốc, trước đây phiên âm là Kirixitô đều mang nghĩa là
"đấng được xức dầu") thiết lập dựa trên các tông đồ của Chúa
Giêsu, giáo hoàng là người kế vị tông đồ trưởng Phêrô, còn các Giám
mục là những người kế vị các tông đồ khác. Dưới sự lãnh đạo của Giáo
hoàng, Giáo hội Công giáo xác định nhiệm vụ của họ là truyền bá Phúc
Âm của Chúa Giêsu Kitô, cử hành các bí tích - đặc biệt là Bí tích Thánh
Thể - và thực hành bác ái.
Được xem là một trong những tổ chức lâu đời nhất trên thế giới, Giáo
hội Công giáo đã đóng vai trò nổi bật trong lịch sử nền văn minh Phương
Tây. Đây cũng là tôn giáo được tổ chức lớn và chặt chẽ. Ngày nay, Giáo
hội Công giáo hoàn vũ được chia thành nhiều giáo phận ở nhiều quốc
gia, thông thường là trên cơ sở lãnh thổ hành chính; lãnh đạo mỗi giáo
phận là một vị giám mục chính tòa.


I. Nguồn gốc và lịch sử3
Giáo hội Công giáo gắn liền với Chúa Giêsu và Mười hai Thánh Tông đồ
và coi các giám mục của Giáo hội là những người kế vị các tông đồ, giáo
hoàng là người kế vị Thánh Phêrô, lãnh đạo Giáo hội. “Giáo hội Công
giáo” là thuật ngữ đầu tiên được sử dụng bởi Thánh Ignatius Antioch
(Inhaxiô) vào năm 107, [đại ý rằng]: nơi nào có Đấng Kitô ngự trị, nơi đó
là Giáo hội Công giáo, như là sự tuyệt đối hóa vai trò của Giáo hội và
Giáo hoàng. Đồng thời, những văn sĩ Công giáo cũng liệt kê một số trích
ngôn từ những thầy giảng sơ khai để củng cố luận cứ này theo ngụ ý
của Tòa Thánh, trong khi các văn sĩ Chính Thống giáo lại không chấp
nhận điều này vì cho rằng, vị giáo hoàng đầu tiên - Thánh Phêrô - chỉ là
2 Theo />%C3%B4ma#Ngu%E1%BB%93n_g%E1%BB%91c_v%C3%A0_l%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD,
18/12/2019.
3 Theo 18/12/2019.


một chức vị đứng đầu mang tính danh dự. Đây là nguyên nhân chính
dẫn đến cuộc Đại Ly Giáo năm 1054, mặc dù giữa họ cũng mâu thuẫn
về một số tín điều. Trung tâm học thuyết của Giáo hội Công giáo là sự
kế vị liên tục các tông đồ mà giờ đây gọi là các giám mục. Giáo hội Công
giáo tuyên bố tiếp tục chung thủy với sự dẫn dắt của các giám mục và
bác bỏ hoàn toàn những lạc giáo.
I. 1. Giáo hội Sơ khai trong bối cảnh đế quốc La Mã

Theo sử sách, các tông đồ đã đi truyền giảng ở Bắc Phi, Tiểu Á, Ả Rập,
Hy Lạp và Rome để thành lập những cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, năm
100, đã có hơn 40 cộng đoàn. Ngay từ thời sơ khai này, các Kitô hữu bị
bắt bớ, đàn áp và hành hạ, thậm chí bị giết chết như trường hợp của
Stêphanô (Stephen) (Sách Công vụ Tông đồ 7:59) và Giacôbê, con ông

Dêbêđê (James) (12:2) qua bàn tay quyền lực của Đế quốc La Mã. Năm
64, dưới sự đàn áp của Hoàng đế Nero, Phêrô và Phaolô tử đạo tại
Roma. Năm 96, Giáo hoàng Clement I viết lá thư đầu tiên gửi Giáo hội ở
Côrintô (Corinthios), một năm sau cái chết của Thánh Gioan tại Êphêsô
(Ephesios) – vị tông đồ cuối cùng - châm ngòi cho sự đàn áp Giáo hội
qua tận chín đời Hoàng đế La Mã gồm cả Domitian, Decius và
Diocletian.
Từ năm 150, những thầy giảng bắt đầu rao giảng thần học Kitô để củng
cố lòng tin trong tín hữu. Những người này đóng vai trò như những vị
linh mục ngày nay. Đáng chú ý là Ignatius Antioch, Polycarp, Justin Tử
đạo, Irenaeus, Tertullian, Clement Alexandria và Origen. Công giáo được
hợp pháp hóa vào thế kỷ thứ 4 khi Constantine I ban hành Sắc lệnh
Milano năm 313. Constantine là nhân vật có ảnh hưởng trong Công
đồng Nicaea I vào năm 325, hướng mũi tên vào phái tà giáo Aria và
Nicea, khiến vai trò của ông hiện nay vẫn còn trong Giáo hội Công giáo,
Chính Thống giáo, Cộng đồng Anh giáo và các giáo hội Kháng Cách.
Vào năm 326, Giáo hoàng Sylvester I cung hiến Đại giáo đường Thánh
Phêrô do Constantine xây dựng. Ngày 27 tháng 2 năm 380, Hoàng đế
Theodosius I công nhận Công giáo là quốc giáo của Đế quốc La Mã.
Thời kỳ lịch này đánh dấu sự khởi đầu cho việc thiết lập nền tảng thần
học và giáo luật của Giáo hội. Năm 386, Công đồng Rôma thiết lập Quy
điển Thánh Kinh, ra danh sách những quyển sách được Giáo hội chấp
nhận từ Cựu Ước và Tân Ước. Năm 431, Công đồng Êphêsô công khai


tín điều, khẳng định Đức Giêsu mang hai bản thể: Con Thiên Chúa và
con người, minh bạch hóa tín điều về Ba Ngôi.
I. 2. Thời Trung Cổ

Sự suy yếu của La Mã đã tạo tiền đề thuận lợi cho Công giáo phát triển.

Trong thời đại loạn lạc này, những hành động nhân đạo, cứu giúp kẻ khó
khăn của các tu sĩ Công giáo nhanh chóng được nhân dân ủng hộ và đi
theo. Đặc biệt, năm 452, Giáo hoàng Lêô Cả gặp gỡ Attila Hun để
khuyên can ý định tôn tính thành Roma. Năm 476, Romulus Augustus Hoàng đế La Mã cuối cùng - bị truất phế, theo sau là sự sụp đổ của Đế
quốc La Mã ở phương tây, Giáo hội bước vào thời kỳ truyền giáo lâu dài
cho dân ngoại. Người Công giáo phát triển rồi hòa trộn vào trong cộng
đồng người Đức (cạnh tranh với giáo phái Aria), người Celt, người Slav,
người Viking, người Scandinavia, Hungary, Baltic và Phần Lan. Sự xuất
hiện của Hồi giáo năm 630 đã lấy những phần đất ở Bắc Phi thuộc Tây
Ban Nha ra khỏi sự kiểm soát của Công giáo. Năm 480, Thánh Benedict
(Biển Đức) thiết lập hệ thống luật lệ cho việc ra đời các dòng tu. Các
dòng tu Công giáo phát triển mạnh mẽ ở châu Âu vào thế kỷ thứ 9, nhất
là ở Ireland, Scotland thời Phục Hưng. Thời Trung Cổ mang đến những
biến đổi cơ bản bên trong Giáo hội. Giáo hoàng Gregory Cả cải cách
đáng kể cơ cấu quản trị của Giáo hội. Đầu thế kỷ thứ 8, sự bài trừ thánh
tượng là vấn đề gây sự chia rẽ giữa Giáo hội với xã hội khi nó được
Hoàng đế Byzantine hậu thuẫn. Giáo hoàng thách thức sức mạnh của
đế quốc khi tiếp tục bảo vệ các thánh tượng.
I.3. Thượng Trung Cổ

Đầu thế kỷ thứ 10, các dòng tu phương tây lan rộng khắp nơi, dẫn đầu là
Dòng Biển Đức. Đầu thế kỷ 11, các trường dòng phát triển thành các
viện đại học (Đại học Paris, Oxford, Bologna…) mà trước đây chỉ dạy
thần học, sau này dạy cả y học, luật pháp, triết học để rồi trở thành nền
tảng cho giáo dục hiện đại của phương tây. Sự xuất hiện của Dòng
Phanxicô và Dòng Đa Minh do Thánh Phanxicô và Thánh Đa Minh thành
lập đã có những đóng góp hết sức quan trọng cho sự phát triển của các
đại học lớn ở châu Âu. Thời kỳ này, các công trình kiến trúc của Giáo hội
đạt đến những tầm cao mới, cực điểm là phong cách kiến trúc Roman,
Gothic trong các đại giáo đường ở châu Âu.

Tại Công đồng Clermont, Giáo hoàng Urban II đưa ra những bước
chuẩn bị cho cuộc Thập Tự Chinh đầu tiên. Từ năm 1095, thời Giáo


hoàng Urban II, những cuộc Thập Tư Chinh bùng phát. Đó là hàng loạt
chiến dịch quân sự tại khu vực Đất Thánh (Jerusalem) và những nơi
khác như một nỗ lực chống lại sự bành trướng của Thổ Nhĩ Kỳ đại diện
cho Hồi giáo. Bên cạnh lý do đó, là một ẩn ý của tham vọng bành trướng
ngược lại bằng cách xâm lăng đất đai của người Hồi giáo. Trong giai
đoạn này, Kitô giáo đã bị các thế lực phong kiến và thậm chí là các giáo
hoàng đương thời lợi dụng và diễn dịch theo nghĩa phục vụ cho cuộc
chiến của họ. Điều đó cuối cùng đã trở thành một trong các nguyên nhân
biến Thập Tự Chinh trở thành một trong những vết nhơ khủng khiếp
nhất của lịch sử Kitô giáo.
Trong suốt những cuộc viễn chinh, những đoàn quân Thập Tự đã thẳng
tay tàn sát, cướp bóc, thậm chí cá biệt có nơi còn ăn thịt người Hồi giáo,
hoặc cổ động cả trẻ em vào cuộc chiến, dẫn đến việc hàng ngàn em bị
bắt bán làm nô lệ. Cuối cùng, những cuộc Thập Tự Chinh cũng không
bóp ngạt được sự xâm lăng của Hồi giáo mà thậm chí lại góp phần làm
sụp đổ và chiếm đóng của Constantine trong cuộc Thập Tư Chinh thứ
tư. Bắt đầu khoảng năm 1184, là những cuộc giao chiến với tà giáo
Cathar nhằm giữ an toàn cho sự đồng nhất trong học thuyết Công giáo,
bài trừ dị giáo.
I.3.1. Đại Ly Giáo
Qua một thời kỳ từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 14, Giáo hội Công giáo
nguyên thủy dần dần bị phân tách thành hai nhánh: Tây phương
(Latinh), thường được gọi là Giáo hội Công giáo, và Đông phương (Hy
Lạp), sau này trở thành Chính Thống giáo. Hai giáo hội này bất đồng
quan điểm về cách tổ chức, nghi thức và những học thuyết mà đặc biệt
là địa vị của Giáo hoàng. Công đồng Lyon II (1274) và Công đồng

Firenze (1439) thử tìm cách hiệp thông lại hai giáo hội nhưng tất cả đều
bị Chính Thống giáo khước từ. Vài giáo hội Đông phương sau này hiệp
thông lại với Giáo hội Công giáo Rôma, tuyên bố không bao giờ thoát ly
khỏi giáo hoàng. Tuy nhiên, hai nhánh giáo hội chủ chốt vẫn phân ly cho
đến ngày nay mặc dù đã hóa giải việc rút phép thông công lẫn nhau giữa
Rôma và Constantine vào năm 1965.
I.3.2. Cải cách Kháng Cách
Thời kỳ Phục Hưng thế kỷ 15 có một sự kiện đáng quan tâm trong cổ
điển học đó là sự xét lại về học thuyết và đức tin của Công giáo. Năm


1492, Christopher Columbus khám phá ra châu Mỹ dẫn đến làn sóng
truyền giáo tích cực của Công giáo Rôma tại khắp lục địa này. Giáo
hoàng Alexander VI trao “sứ mệnh” truyền giáo tại vùng đất mới khám
phá cho Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Ngày 31 tháng 10 năm 1517, Martin Luther đưa ra những bài luận văn
mang nội dung bài trừ những học thuyết của Công giáo đương thời.
Những bài tương tự được phát ra với những chi tiết căn bản thậm chí
vượt bậc hơn cả những gì Công giáo thuyết giảng. Họ chĩa mũi nhọn
vào Công đồng Trent, bản chất của Kháng Cách - như tên gọi của nó - là
đòi hỏi khôi phục những học thuyết và cách thực hành Công giáo truyền
thống. Công đồng Trent sàng lọc và định nghĩa lại các học thuyết, ban
bố các giáo điều.
Năm 1534, Nghị viện Anh thông qua quyền tối cao của Vua nước Anh
đối với Giáo hội Anh như là cách để tuyên bố ly khai khỏi Giáo hội. Từ
năm 1536, nhiều nhà dòng Công giáo tại xứ Anh, xứ Wales và Ireland bị
giải thể. Giáo hoàng Phaolô III rút phép thông công đối với Vua Henry III
vào năm 1538, như vậy Anh giáo chính thức phân ly khỏi Công giáo.
Sự lan rộng khắp thế giới của Công giáo song hành cùng chủ nghĩa thực
dân châu Âu vươn đến châu Mỹ, châu Á, châu Phi và châu Đại Dương.

I.4. Hậu Trung Cổ, Phục Hưng

Trong năm 1521, nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan thực
hiện chuyến đi truyền giáo đầu tiên đến Philippines. Những năm sau,
các giáo sĩ Dòng Anh em Hèn mọn đặt chân đến Mexico, xây dựng
trường học, mô hình trang trại và các bệnh viện. Hơn 150 năm tiếp theo,
sứ vụ được mở rộng sang tây nam Bắc Mỹ. Người Bồ Đào Nha và Tây
Ban Nha theo nhà sáng lập Dòng Tên Phanxicô Xaviê đến Ấn Độ và
Nhật Bản. Cuối thế kỷ 16, hàng chục ngàn người Nhật theo đạo Công
giáo. Giáo hội tại Nhật Bản phát triển và bị gián đoạn và đàn áp vào năm
1597, dưới thời Shogun (Tướng quân) Tokugawa Iemitsu. Iemitsu là vị
Tướng quân có nỗ lực cô lập quốc gia khỏi ảnh hưởng từ ngoại bang.
I.5. Hiện đại

Thế kỷ 18 và 19, Giáo hội phải đối mặt với làn sóng truyền giáo mạnh
mẽ của Tin Lành, Chủ nghĩa Khai Sáng và Chủ nghĩa Canh Tân. Chủ
nghĩa Vô thần và bài trừ tôn giáo được đẩy mạnh lan rộng khiến giáo hội
phải tự vận động để thích nghi với hoàn cảnh và chức năng. Nhiều


thành phần của giáo hội trên thế giới bị đàn áp, công tác mục vụ bị gây
cản trở, giáo dục, y tế vốn có của giáo hội bị chính phủ kiểm soát.
I.5.1. Công đồng Vatican II
Thời Công đồng Vatican II (1962-1965) do Giáo hoàng Gioan XXIII triệu
tập, Giáo hội Công giáo trải qua một quá trình cải cách toàn diện. Công
đồng nhấn mạnh phải nhìn thấy rõ vai trò của Giáo hội Công giáo trong
cộng đồng Kitô hữu tin Chúa Giêsu và trong các tôn giáo khác. Công
đồng được coi là mở ra thời kỳ lịch sử của Giáo hội Công giáo hiện đại.
Công đồng phát hành nhiều tài liệu về tình trạng Giáo hội, sứ mạng các
hội đoàn và tự do tôn giáo. Ngoài ra còn ban hành những phương

hướng thích nghi dành cho các nghi lễ, trong đó cho phép sử dụng tiếng
bản xứ thay vì phải dùng tiếng Latin trong phụng vụ.
I.6. Đương đại

Thành viên giáo hội trong năm 2017 là 1 tỷ 313 triệu người Công giáo
được rửa tội trong tổng dân số thế giới là 7 tỷ 408 triệu người, có chiếm
17,7% dân số thế giới.4 Đây là giáo hội lớn nhất của Kitô giáo, bao gồm
hơn nửa Kitô hữu. Mặc dù số lượng người thực hành nghi thức Công
giáo trên toàn thế giới chưa được thống kê hết, nhưng đặc biệt phát triển
ở châu Phi và châu Á.
Với số lượng lớn người trưởng thành được rửa tội, giáo hội tăng trưởng
nhanh hơn ở châu Phi hơn bất cứ nơi nào khác. Trong những năm gần
đây, một vài nơi ở châu Âu và châu Mỹ thiếu thốn linh mục, số lượng linh
mục không tăng theo tỷ lệ số lượng giáo dân. Chủ nghĩa thế tục tăng ổn
định ở châu Âu, nhưng sự hiện diện của Công Giáo vẫn còn mạnh nơi
đây.
I.7. Tân Phúc Âm hóa5

Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã công nhận sự cần thiết để tân phúc âm
hóa (hay còn gọi là tái rao giảng Tin Mừng) cho một thế giới ngày càng
trở nên thế tục hóa, đồng thời sử dụng các phương tiện tân tiến để tiếp
cận với các tín hữu. Ông đã thành lập Đại hội Giới trẻ Thế giới, được tổ
chức mỗi 2 hoặc 3 năm tại nhiều quốc gia khác nhau để người trẻ được
củng cố đức tin Công giáo. Ông đi ra ngoài Thành Vatican nhiều hơn bất
4 Theo 18/12/2019.
5 Theo />%C3%B4ma#%C4%90%C6%B0%C6%A1ng_%C4%91%E1%BA%A1i_v%C3%A0_t%C3%A2n_Ph
%C3%BAc_%C3%82m_h%C3%B3a, 18/12/2019.


kỳ Giáo hoàng khác, và đã thực hiện 104 chuyến tông du đến thăm 129

quốc gia.[43][44]
Với việc đăng quang vào năm 2005, Giáo hoàng Biển Đức XVI hiện tại
phần lớn vẫn tiếp nối các chính sách của người tiền nhiệm là Gioan
Phaolô II, tuy cũng có một số trường hợp ngoại lệ đáng chú ý: trong năm
2007, Giáo hoàng Biển Đức XVI đã lập một kỷ lục trong Giáo hội khi phê
chuẩn việc phong chân phước cho 498 vị tử đạo Tây Ban Nha. Gần đây,
Giáo hoàng này đã ban hành Tông hiến thiết lập các giáo hạt tòng nhân
để đón nhận các tín hữu Anh giáo trở về Công giáo.[45] Hiện tại, Giáo
hội Công giáo vẫn nỗ lực cải thiện quan hệ đại kết[46] với các Giáo hội
Kitô giáo khác như Chính Thống giáo Đông Phương, Tin Lành và mở
các cuộc đối thoại lớn với Do Thái giáo[47] và các tôn giáo khác

II. TỔ CHỨC VÀ QUẢN TRỊ6
II.1. Giáo huấn và Giáo Triều

Hệ thống phẩm trật của Giáo hội Công giáo đứng đầu là vị Giám mục
Giáo phận Rôma, chức danh là giáo hoàng. Ông được tín hữu coi là đại
diện cao nhất của Thiên Chúa ở trần gian, người có quyền uy, ảnh
hưởng lớn nhất trong Giáo hội Công giáo toàn cầu (trong đó bao gồm cả
giáo hội theo nghi lễ Latinh và những giáo hội Công giáo theo nghi lễ
Đông phương nhưng có hiệp thông trọn vẹn với Rôma). Thuật ngữ
"Đông Phương" và "Tây Phương" mà Giáo hội Công giáo sử dụng
không hàm ý chỉ về châu Á hay châu Âu nhưng chỉ về khu vực lãnh thổ
của giáo hội trong lịch sử và văn hóa, với hai trung tâm là Rôma (Tây
Phương) và Constantinopolis (Đông Phương).
Giáo hoàng hiện nay là Giáo hoàng Phanxicô, người được bầu trong
một cuộc Mật nghị Hồng y vào ngày 13 tháng 3 năm 2013. Thẩm quyền
của Giáo hoàng gọi là Giáo huấn (Papacy), nghĩa là quyền giảng dạy tín
hữu. Cơ quan trung ương giáo huấn thường được gọi là "Tòa Thánh"
(Sancta Sedes trong tiếng Latinh), hoặc "Tông Tòa" (Apostolic See)

nghĩa là "ngai tòa của Thánh Phêrô Tông đồ". Trực tiếp cộng tác với
6 Theo />%C3%B4ma#T%E1%BB%95_ch%E1%BB%A9c_v%C3%A0_qu%E1%BA%A3n_tr%E1%BB%8B,
18/12/2019.


Giáo hoàng là Giáo triều Rôma, tức cơ quan quản lý và điều hành hoạt
động của Giáo hội Công giáo. Giáo hoàng cũng là nguyên thủ quốc gia
của Thành Vatican, một quốc gia có chủ quyền đầy đủ trên một lãnh thổ
nằm trong thành phố Rôma, thủ đô nước Ý.
Sau khi một vị Giáo hoàng qua đời hoặc từ chức, chỉ có các thành viên
dưới 80 tuổi trong Hồng y Đoàn mới có quyền họp tại Nhà nguyện
Sistina ở Rôma để bầu ra Giáo hoàng mới. Mặc dù cuộc bầu chọn này,
thực tế chỉ dành riêng cho các hồng y bầu chọn cho nhau, nhưng về mặt
lý thuyết, bất kỳ người nam nào theo đạo Công giáo cũng có thể được
chọn làm Giáo hoàng. Kể từ 1389, chỉ có hồng y mới được nâng lên vị trí
đó. Hồng y là một tước hiệu danh dự mà Giáo hoàng ban cho một số
giáo sĩ Công giáo, phần lớn là các vị lãnh đạo trong Giáo triều Rôma,
các Giám mục của các thành phố lớn và các nhà thần học lỗi lạc, phụ
giúp Giáo hoàng quản trị Giáo hội.
II.2. Các phương quản trị đặc biệt

Nhà thờ Truyền Tin - nhà thờ lớn nhất ở Trung Đông dưới sự giám sát
của Thánh Bộ các Giáo hội Đông Phương
Giáo hội Công giáo Hoàn vũ gồm có 23 phương quản trị (sui iuris). Lớn
nhất trong số các phương quản trị này là Giáo hội Latinh, gồm hơn 1 tỷ
giáo dân, phát triển ở Tây Âu trước khi lan rộng khắp thế giới. Vì thế,
mỗi khi nhắc đến Giáo hội Công giáo, nhiều người thường đề cập đến
giáo hội này. Giám mục thành Rôma (Giáo hoàng) là thượng phụ của
phương quản trị Giáo hội Latinh. Giáo hội Latinh coi mình là nhánh lâu
đời nhất và lớn nhất của Kitô giáo Tây Phương.

Nhỏ bé hơn so với Giáo hội Latinh là 22 phương tự trị giáo hội ở Đông
Phương1 với 17,3 triệu giáo dân. Mỗi phương quản trị (hay "lễ chế")
trong số đó đều chấp nhận thẩm quyền của vị Giám mục Rôma về các
vấn đề giáo lý. Những lãnh thổ này sở dĩ gọi là "tự quản đặc biệt" là vì
cộng đoàn Kitô hữu Công giáo ở đó có khác nhau về lịch sử, văn hóa,
hình thức lễ nghi, thờ phượng chứ không khác biệt về giáo lý. Nói
chung, đứng đầu mỗi phương quản trị thế này là một thượng phụ
(patriarch) hay giám mục cao cấp, và họ được trao quyền quản trị đối với
lãnh thổ của mình ở một mức độ tương đối về các nghi thức phụng vụ,
lịch phụng vụ, và các khía cạnh thờ phượng khác.


Các phương quản trị giáo hội Công giáo ở Đông Phương là những tín
hữu vẫn theo các niềm tin và truyền thống của Kitô giáo Đông Phương
nhưng vẫn luôn hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo; hoặc những
tín hữu đã ly khai sau cuộc Ly giáo Đông - Tây nay trở về hiệp thông với
Rôma. Thượng phụ của các phương quản trị Công giáo Đông Phương
do Thượng hội đồng Giám mục (synod of the bishops) của giáo hội đó
bầu lên, các chức vị khác lần lượt là: tổng giám mục miền, giám mục
v.v.. Tuy nhiên, Giáo hội Latinh có Giáo triều Rôma được tổ chức cụ thể
hơn, gồm có Thánh Bộ các Giáo hội Đông Phương, để duy trì mối quan
hệ với họ.
II.3. Các giáo phận, giáo xứ và dòng tu

Giáo hội Công giáo tại từng quốc gia, khu vực, hoặc các thành phố lớn
gọi là giáo hội địa phương, được tổ chức thành giáo phận (diocese hoặc
eparchies, tùy văn cảnh là Đông phương hay Tây phương), mỗi giáo
phận do một Giám mục Công giáo lãnh đạo. Tính đến năm 2012, toàn
Giáo hội Công giáo (cả Đông phương và Tây phương) gồm 2.966 đơn vị
hành chính tương đương giáo phận. Các Giám mục trong một quốc gia

hoặc khu vực cụ thể thường được tổ chức thành một Hội đồng Giám
mục. Hội đồng Giám mục là nơi quy tụ các vị lãnh đạo Giáo hội trong
một quốc gia hay một lãnh thổ để hợp nhất với nhau thi hành mục vụ
theo thể cách và phương thức thích hợp với hoàn cảnh. Các giáo phận
lại được phân thành rất nhiều cộng đoàn nhỏ được gọi là giáo xứ (hay
xứ đạo, họ đạo), mỗi giáo xứ có một hoặc nhiều linh mục, phó tế lãnh
đạo dưới quyền của Giám mục. Giáo xứ là đơn vị có trách nhiệm trực
tiếp cử hành Thánh lễ, các bí tích và mục vụ cho giáo dân Công giáo.
Mọi giáo dân đều có thể gia nhập vào đời sống tu trì tại các dòng tu. Các
giáo dân nam giới còn có quyền học tập để được thụ phong thành linh
mục. Mọi tu sĩ Công giáo thường phải thực hiện theo ba lời khuyên trong
Phúc Âm là: khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Các dòng tu nổi tiếng
là: Dòng Biển Đức, Dòng Cát Minh, Dòng Đa Minh, Dòng Phanxicô,
Dòng Thừa Sai Bác Ái, Dòng Tên...


III. GIÁO LÝ ĐỨC TIN7
Đức tin Công giáo được tóm lược trong Tín điều Nicea và thể hiện chi
tiết trong Sách Giáo lý Công giáo. Căn cứ vào những lời hứa của Chúa
Kitô trong Sách Phúc Âm, Giáo hội Công giáo tin rằng họ liên tục được
hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần để bảo vệ họ không rơi vào những lạc
giáo. Chúa Thánh Thần soi dẫn để tín hữu nhận biết Thiên Chúa qua
Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền của Giáo hội. Bà Maria cũng
chiếm vị trí quan trọng trong đức tin của người Công giáo. Họ tin rằng vì
bà là mẹ Chúa Giêsu nên bà có sức ảnh hưởng lớn đến việc Thiên Chúa
ban ơn cho tín hữu.
III.1. Thiên Chúa Ba Ngôi

Giáo hội Công giáo dạy rằng Thiên Chúa là đấng duy nhất, vĩnh hằng,
thượng quyền, thông suốt tất cả, công chính vẹn toàn và hiện diện mọi

nơi. Tín hữu Công giáo tin thuyết Ba Ngôi: Thiên Chúa là tự nhiên mà
có, bản thể và hiện thân là một Chúa nhưng lại tồn tại trong ba ngôi vị
(tam vị nhất thể), từng ngôi vị đồng nhất với bản thể, không ngôi vị nào
hơn ngôi vị nào và chỉ phân biệt về quan hệ giữa ba ngôi vị: giữa Chúa
Cha và Chúa Con, giữa hai ngôi vị này với Chúa Thánh Thần, thành một
Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chúa Cha thường được liên tưởng là đấng sáng tạo ra mọi vật mọi loài
trong vũ trụ. Thiên Chúa cũng yêu thương và chăm sóc cho thụ tạo của
mình, ngài trực tiếp tham gia vào thế giới và cuộc sống của con người,
mong muốn con người kính thờ Chúa và yêu thương đồng loại. Công
giáo còn tin rằng, con người là loài thụ tạo có thân xác (hữu hình) và linh
hồn (vô hình) gắn bó mật thiết với nhau. Bên cạnh đó, còn có thụ tạo vô
hình khác là thiên thần, làm nhiệm vụ tôn thờ và phục vụ Thiên Chúa.
Một số thiên thần đã chọn chống lại Thiên Chúa, trở thành ma quỷ, và
tìm cách gây hại cho nhân loại. Trong số đó, lãnh đạo thiên thần nổi loạn
gọi là Satan hoặc Lucifer.
Giáo hội Công giáo tin rằng Thiên Chúa chỉ mặc khải trọn vẹn qua người
con duy nhất là Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người.
Giáng sinh xuống trần gian bởi Trinh nữ Maria nên Giêsu vừa mang bản
tính Thiên Chúa vừa mang bản tính loài người. Qua cuộc đời và triết lý
của mình, Giêsu đã dạy mọi người cung cách sống, nói về tình yêu của
7 Theo />%C3%B4ma#Gi%C3%A1o_l%C3%BD_%C4%90%E1%BB%A9c_tin, 18/12/2019


Thiên Chúa và ban tặng hồng ân, vinh quang cho những ai tin mình.
Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu là cái giá tột đỉnh mà Chúa
phải gánh chịu để đền bù cho tội lỗi của loài người, để họ được thứ tha
và hòa giải với Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần được tin canh tân, Thánh
hóa Giáo hội kể từ sau khi Chúa Giêsu về trời.
Theo Công giáo, "mầu nhiệm" là những điều huyền bí về Thiên Chúa mà

tài trí con người không thể hiểu và giải thích đầy đủ được nhưng tin đó là
chân lý. Tóm lại, tín hữu Công giáo có thể tuyên xưng đức tin cơ bản
qua câu nói: "Có ba mầu nhiệm chính trong Đạo: Thứ nhất là Mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi, thứ hai là Mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm
người, thứ ba là Mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc".
III.2. Tội nguyên tổ

Trong đức tin của người Công giáo, loài người trước đây được Thiên
Chúa sáng tạo ra để hiệp thông với ngài nhưng vì không vâng lời Thiên
Chúa khi ăn trái của "cây biết điều thiện điều ác" (trái cấm), Adam và Eve
- tổ tiên loài người – đã làm mối quan hệ đó bị đổ vỡ khiến tội lỗi và sự
chết lan tràn khắp thế giới. Vấp ngã này của con người được gọi là tội
nguyên tổ (hay tội tổ tông). Từ đây, con người đánh mất đi tình trạng
nguyên thủy của mình là được hiệp thông với Thiên Chúa, bị đưa vào
tình trạng của sự chết nhưng qua ý tưởng con người có một linh hồn bất
tử. Khi Giêsu đến với thế giới, giữa Thiên Chúa và loài người đã có sự
hòa giải qua hiến tế bằng cái chết và sự sống lại của Giêsu, một lần nữa
con người lấy lại được sự hiệp thông và dự phần vào vinh quang Thiên
Chúa.
III.3. Cứu rỗi

Giáo hội dạy rằng Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người sự cứu rỗi để
hướng tới một cuộc sống vĩnh hằng và ngài coi đó như là một hồng ân,
một vinh quang qua sự hiến tế của Đấng Kitô. "Với những nỗ lực để tỏ
tường về Thiên Chúa, chẳng có câu trả lời chính xác nào hay tài trí nào
của con người làm được. Giữa Thiên Chúa và chúng ta có một sự khác
biệt vô tận khiến chúng ta phải thừa nhận về ngài, Thiên Chúa chúng ta".
Thiên Chúa là đấng bào chữa, là đấng giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi.
Hoặc là chúng ta đón nhận hồng ân này Thiên Chúa ban cho ta thông
qua đức tin vào Giêsu Kitô và phép rửa tội hoặc là khước từ nó. "Đức tin

không hành động là đức tin chết".


Giáo hội còn dạy rằng con người cần phải được thanh tẩy ngay từ lúc
này, ngay trong thực tại này (tức cuộc sống trần thế) vì khi chết rồi thì
không thể làm gì hơn được nữa. Thanh tẩy là khi nhận Phép rửa và nó
bị mất đi khi linh hồn phạm tội chết (tội trọng). Tội trọng là sự cố ý vượt
quá giới luật của Thiên Chúa cách nghiêm trọng. Nhưng con người có
thể lại được sự Thánh tẩy khi người ấy thành thật thú nhận trong Bí tích
Hòa giải. Nếu ai đó biết sám hối tội lỗi của họ trước khi chết mà không
thể thông qua Bí tích Hòa Giải được vì lý do khách quan nào đó thì với
lời khẩn cầu, tội của họ cũng tự nhiên được tha thứ.
Qua hiến tế của Giêsu bằng cái chết trên thập giá, sự cứu rỗi thậm chí
còn được ban ra bên ngoài ranh giới của Giáo hội, nghĩa là phổ biến cho
mọi người. Do đó, các Kitô hữu lẫn dân ngoại, nếu ai nhiệt thành đáp lại
chân lý này thì Thiên Chúa sẽ bày tỏ lòng xót thương của ngài đối với
họ. Điều này đôi khi là một trách nhiệm để trở thành thành viên của Giáo
hội.
Phép Thanh Tẩy (rửa tội) là một nghi thức quan trọng của người Kitô
hữu, qua lăng kính của Giáo hội Công giáo, nó được nâng lên hàng bí
tích. Phép rửa không chỉ làm thanh tẩy tội lỗi của một người nào đó, nó
cũng làm cho họ trở thành "con cái Thiên Chúa và được dự phần với
ngài", trả lại cho con người trạng thái nguyên bản mà đã được hình
thành giống như hình ảnh của Thiên Chúa. Phép rửa còn là cầu nối giữa
người nào đó với đời sống cộng đoàn Giáo hội. Bởi vậy, khi chịu phép
rửa trong Giáo hội, là thân thể Đức Kitô, người ta cũng sẻ chia cuộc khổ
nạn và phục sinh với ngài. Sự cứu rỗi là phổ biến cho tất cả mà không
loại trừ ai. Công giáo tin rằng Thiên Chúa không nỡ từ chối một khẩn
cầu cứu rỗi của ai đó bên ngoài Giáo hội. Điều này là một trong những
quan điểm bất đồng lớn giữa Công giáo và Kháng cách.

III.4. Thánh Kinh và Thánh Truyền

Bài chi tiết: Thánh Kinh Kitô giáo
Những lời giảng dạy của Giáo hội Công giáo là những điều được trích
dẫn ra từ hai nguồn: Thánh Kinh và Thánh Truyền. Họ cho rằng cả hai
đều xuất phát từ Thiên Chúa và được giải thích bởi Huấn Quyền
(Magisterium) của Giáo hội. Danh sách và nội dung chính thức về các
sách Thánh kinh được Giáo hội Công giáo chấp nhận là những bản
Thánh Kinh viết bằng tiếng Latin hồi thế kỷ thứ IV, cụ thể là 46 quyển
của Cựu Ước và 27 quyển của Tân Ước.


Năm 1943, trong bức thông điệp "Divino Afflante Spiritu", Giáo hoàng Piô
XII đã khuyến khích những học giả Thánh Kinh hãy cần mẫn nghiên cứu
về ngôn ngữ nguyên bản của các sách Thánh Kinh (tiếng Do Thái, Hy
Lạp, Aram trong Cựu Ước và tiếng Hy Lạp trong Tân Ước) và những
ngôn ngữ chung nguồn gốc khác để hiểu biết sâu rộng và đầy đủ hơn về
những văn bản này, và cho rằng: "văn bản nguyên bản… được viết bằng
ơn linh hứng của tác giả thì có thẩm quyền và giá trị hơn bất kỳ bản nào,
thậm chí cả những bản đã được dịch rất hoàn hảo, dù đó là cổ xưa hay
hiện đại".
Thánh Truyền (gọi tắt của Truyền thống các Thánh Tông Đồ) mà Giáo
hội Công giáo định nghĩa rằng: "mang lời của Thiên Chúa đã được Chúa
Kitô và Chúa Thánh Thần ủy thác cho các Tông Đồ và truyền đạt lời
Chúa cách nguyên vẹn cho những người kế vị các Tông Đồ để các vị
này gìn giữ, trình bày và truyền bá lời đó cách trung thành khi giảng
dạy". Nguồn gốc Thánh Truyền thì rất đa dạng và những giảng dạy của
Giáo hội ngày nay thường là được truyền khẩu từ các tông đồ. Nhiều ghi
chép của các cha đạo sơ khai đã phản ánh được Thánh Truyền.
Huấn Quyền là thẩm quyền giáo huấn, giải thích Kinh Thánh và đức tin

của các vị lãnh đạo giáo hội như Giáo hoàng, Giám mục, linh mục, nhằm
giúp cho tín hữu hiểu rõ vấn đề.
III.5. Giáo hội Tông Truyền

Giáo hội là "thân thể Chúa Kitô" mà ngài là "đầu" và Công giáo dạy rằng
đó là một thân thể được hiệp nhất bởi những người tin Chúa cả trên
thiên đàng và trên địa cầu này. Theo Giáo Lý, Giáo hội Công giáo xưng
mình là "Giáo hội duy nhất của Chúa Kitô". Giáo hội này dạy rằng người
sáng lập ra họ là chính Chúa Giêsu Kitô, đã bổ nhiệm mười hai tông đồ
tiếp tục công việc của Chúa Giêsu sau khi ông về trời. Các tông đồ đó là
những vị Giám mục đầu tiên của Giáo hội.
Giáo hội Công giáo diễn giải: tổ chức Giáo hội của họ là sự hiện diện
liên tục của Chúa Giêsu trên Trái Đất, và tất cả các Giám mục được tấn
phong hợp lệ là người kế thừa các tông đồ khi xưa (Tông Truyền). Trong
đó, các Giám mục thành Rôma được coi là người kế vị tông đồ trưởng
Simon Phêrô, có quyền tối thượng ở trần gian nên được gọi là Giáo
hoàng.


III.6. Niềm tin về cái chết

Chúa Thăng Thiên, tranh của Dosso Dossi (thế kỷ XVI) với thiên đàng
bên trên và trần gian bên dưới.
Giáo hội Công giáo dạy rằng, con người gồm có thể xác và linh hồn. Cái
chết chỉ là sự chấm dứt của thân xác nhưng linh hồn là bất diệt. Ngay
sau khi chết, linh hồn của mỗi người sẽ nhận được một cuộc phán xét
riêng của Thiên Chúa, nhưng vẫn còn một cuộc phán xét chung thẩm
cho cả nhân loại trong ngày tận thế, khi mà Chúa Kitô quay lại trần gian
làm thẩm phán. Theo đó, cuộc chung thẩm này sẽ chấm dứt tình trạng
hiện tại của nhân loại và bắt đầu một Thiên Quốc (Nước Trời) mới và tốt

đẹp hơn do Thiên Chúa cai trị. Theo Giáo lý Công giáo, vào ngày tận
thế, linh hồn sẽ nhập lại thể xác (được tái sinh) và sau đó mỗi người sẽ
phải chịu bản án thưởng hay phạt tùy theo những việc họ đã làm khi còn
sống ở trần gian. Họ sẽ đi vào một trong ba tình trạng sau:
Thiên đàng là tình trạng hạnh phúc tối thượng và vĩnh viễn. Ai chết trong
ân sủng của Thiên Chúa và ai không cần bất cứ sự thanh luyện cuối
cùng nào, sẽ được qui tụ quanh Chúa Giêsu và Đức Maria, các thiên
thần và các Thánh … được chiêm ngắm Thiên Chúa "mặt giáp mặt" (1
Cr 13,12) … sống trong sự hiệp thông tình yêu với Chúa Ba Ngôi và
chuyển cầu cho chúng ta (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo hội Công giáo, số
209).
Luyện ngục là tình trạng của những người chết trong tình thân với Thiên
Chúa, nhưng dù đã được đảm bảo ơn cứu độ vĩnh cửu, họ còn cần
thanh luyện trước khi được hưởng hạnh phúc thiên đàng (Toát Yếu Giáo
Lý của Giáo hội Công giáo, số 210). Những linh hồn ở luyện ngục có thể
nhận được sự cầu thay nguyện giúp của các Thánh trên thiên đàng và
những người đang sống ở trần gian.
Hỏa ngục: là tình trạng xa cách đời đời khỏi Thiên Chúa. (Toát Yếu Giáo
Lý của Giáo hội Công giáo, số 212), phải chịu sự đau khổ vô cùng, dành
cho những người phạm tội trọng và không chịu hối cải. Tình trạng ày kéo
dài vô hạn. Trước đây, quan niệm hỏa ngục là nơi chịu sự tra tấn, thiêu
đốt bằng lửa cực nóng của ma quỷ nhưng quan niệm hiện đại cho rằng,
nơi nào mà không có sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa thì cũng
chịu đau khổ như hỏa ngục vậy.


III.7. Maria và các Thánh

Đức Nữ Đồng Trinh cầu nguyện, tranh của Sassoferrato, thế kỷ XVII
Bà Maria - mẹ của Giêsu Nazareth - chiếm một vị trí quan trọng trong

Giáo hội Công giáo. Các giáo phái Kháng Cách thường chỉ trích Công
giáo về điều này vì họ cho rằng chỉ nên tôn thờ Thiên Chúa mà thôi, việc
tín hữu Công giáo tôn thờ bà Maria là tôn thờ ngẫu tượng, trái với luật
Chúa. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo lập luận rằng họ chỉ dành cho bà
Maria sự tôn kính đặc biệt chứ đó không phải là sự tôn thờ. Giáo hội
Công giáo thường xưng bà Maria với danh hiệu là Đức Mẹ, Nữ Vương,
Thánh Mẫu... Họ tin rằng bà Maria đồng trinh vĩnh viễn và là Mẹ của
Thiên Chúa. Ngoài ra, họ còn tin bà "Vô Nhiễm Nguyên Tội" và hồn và
xác của bà đã được vào thiên đàng. Bốn luận điểm này đã được chế
định thành tín điều (điều phải tin), hai điều sau do Giáo hoàng Piô IX và
Giáo hoàng Piô XII công bố lần lượt trong các năm 1854 và 1950.
Việc tôn kính bà Maria của Giáo hội Công giáo không chỉ trong các lời
kinh, lời ca tụng về cuộc đời bà trong cuộc sống hàng ngày mà còn trong
rất nhiều tác phẩm văn hóa nghệ thuật, âm nhạc, điêu khắc và kiến trúc.
Giáo hội Công giáo xác nhận chính thức một số cuộc hiện ra của bà
Maria, như tại Lộ Đức, Fatima, Guadalupe... Những nơi này cũng là địa
điểm hành hương lớn thu hút nhiều tín đồ Công giáo. Kinh Mân Côi
chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống cầu nguyện của người Công
giáo. Cùng với Trinh nữ Maria, các vị Thánh là những người nam hay nữ
đã tuyên xưng niềm tin nơi Thiên Chúa, sống cuộc đời nêu gương sáng
và chết trong ân nghĩa với Chúa, được tin là đang vinh hiển trên thiên
đàng. Việc thờ phượng chỉ dành riêng cho Thiên Chúa; với các Thánh,
tín hữu chỉ tôn kính. Các tín hữu cầu nguyện với bà Maria và các Thánh
vì tin rằng nhờ lời chuyển cầu và trợ giúp của các vị, Thiên Chúa sẽ
nhậm lời họ cầu xin.
III.8. Đời sống thường ngày

Người Công giáo phải nỗ lực để trở thành môn đồ thực sự của Giêsu.
Họ mong đợi tìm kiếm được sự tha thứ cho những tội lỗi của mình qua
tấm gương và lời giảng dạy của Giêsu. Họ tin rằng thông qua Giêsu,

Thiên Chúa đã ban bảy phép bí tích cho mình như nhưng công cụ để trợ
giúp họ thực hiện được điều này. Người Công giáo tin rằng Thiên Chúa
luôn luôn tác động giữa loài người trên thế giới này. Người Công giáo
được "Thánh hóa" là nhờ các phép bí tích của Giáo hội và qua cả những


lời cầu nguyện, những công việc phúc đức, hành hương và ăn chay hãm
mình. Cầu nguyện cho người khác, thậm chí cho kẻ thù và những người
ngược đãi mình là một nhiệm vụ của Kitô hữu8. Người Công giáo cho
rằng có bốn mục đích cầu nguyện: tôn thờ, tạ ơn, ăn năn và khẩn cầu.
Người Công giáo cũng có thể cầu nguyện với Thiên Chúa xin tha tội cho
những ai đã chết (cầu cho các linh hồn), và đặc biệt là họ cũng có thể
cầu nguyện với Trinh nữ Maria - mẹ Thiên Chúa - và các Thánh nữa.

IV. THỰC HÀNH TÔN GIÁO
Giáo hội Công giáo có sự phân biệt giữa nghi thức phụng vụ chung của
toàn cộng đoàn và việc cầu nguyện hoặc thực hành sống đạo riêng của
từng cá nhân. Các nghi thức phụng vụ chung đều do Giáo hội quy định,
gồm có Thánh lễ, các Bí tích và Các giờ kinh Phụng vụ. Tất cả tín hữu
Công giáo được Giáo hội khuyến khích tham dự vào các nghi thức
phụng, nhưng việc cầu nguyện và sống đạo là vấn đề cá nhân, không ai
có thể can thiệp vào ai.
IV.1. Thánh lễ

Trung tâm của việc thờ phượng là cử hành Bí Tích Thánh Thể. Theo
giáo lý của Giáo hội Công giáo, mỗi lần cử hành Thánh lễ thì bánh mì và
rượu nho trở thành Mình và Máu của Chúa Kitô, qua lời truyền phép của
linh mục. Đó là sự biến đổi về bản thể (thần tính) chứ không phải về vật
lý (lý tính). Những lời truyền phép này được trích ra từ Phúc âm Nhất
lãm và một lá thư của Tông đồ Phaolô. Giáo hội dạy rằng, Chúa Kitô đã

thiết lập một Giao Ước Mới (Tân Ước) với nhân loại thông qua việc cử
hành Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly, theo như Kinh Thánh đã
chép.
Bởi vì họ tin rằng Chúa Kitô hiện diện trong Thánh Thể, nên có những
quy tắc nghiêm ngặt về việc lãnh nhận Bí tích Thánh Thể (rước lễ). Bí
tích này chỉ có thể được cử hành bởi một linh mục hay Giám mục Công
giáo. Những người cho rằng mình đang phạm tội trọng thì bị cấm không
được lãnh nhận bí tích cho đến khi họ đã nhận được ơn tha thứ thông
qua các Bí tích Hòa Giải. Người Công giáo thường phải nhịn ăn uống
(ngoại trừ nước lã và thuốc trị bệnh) ít nhất một giờ trước khi rước lễ5.


Người Công giáo không được phép lãnh nhận bánh và rượu được cử
hành trong các nhà thờ Tin Lành, vì theo quan điểm của Giáo hội Công
giáo, các nhánh Tin Lành đã thiếu đi Bí tích Truyền Chức Thánh, và do
đó họ cũng không có Bí tích Thánh Thể hợp lệ. Còn tại các giáo hội
Chính Thống giáo Đông phương, một tín hữu Công giáo vẫn có thể lãnh
nhận Thánh Thể từ một nhà thờ thuộc giáo hội này trong hoàn cảnh đặc
biệt có sự phê duyệt của giáo quyền địa phương, dù rằng việc đó là
không được khuyến khích6. Tuy nhiên, đối với các Thánh lễ cử hành bởi
giáo sĩ thuộc Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc (tổ chức không được
Tòa Thánh công nhận), tín hữu vẫn có thể tham dự và rước lễ nếu
không có sự lựa chọn nào khác.
Cả 23 phương tự trị (sui iuris) của Giáo hội Công giáo đều có hình thức
lễ nghi và truyền thống phụng vụ riêng của mình. Điều này phản ánh sự
đa dạng về lịch sử và văn hóa chứ không phải là sự khác biệt trong đức
tin. Các hình phụng vụ của lễ nghi Rôma được sử dụng phổ biến hơn
cả, nhưng ngay cả trong giáo hội tại Latinh cũng chỉ sử dụng một vài lễ
nghi khác nhau, còn các giáo hội tại Đông Phương thì có nghi thức riêng
biệt cho từng giáo hội. Dù rằng có thể khác nhau về lễ nghi nhưng các

giáo hội tự trị đều cử hành Bí tích Thánh Thể trong Thánh lễ và coi đó là
trung tâm của tất cả các nghi thức phụng vụ Công giáo.
IV.1.1. Lễ nghi Tây Phương
Một Thánh lễ Tridentine cổ xưa được tái cử hành năm 2009 tại một nhà
nguyện
Lễ nghi Latinh (Rôma) là nghi thức thờ phượng được sử dụng phổ biến
nhất của Giáo hội Công giáo. Lễ nghi này được sử dụng trên toàn thế
giới, thông qua các hoạt động truyền giáo tích cực của các quốc gia Tây
Âu (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Ý...) trong suốt chiều dài lịch sử
Kitô giáo.
Có hai ấn bản lễ nghi Rôma được sử phép sử dụng hiện nay: ấn bản
sau năm 1969 của Sách Lễ Rôma (do Giáo hoàng Phaolô VI chuẩn
nhận) hiện nay đang được sử dụng trong các ngôn ngữ bản địa trên
khắp thế giới; và ấn bản năm 1962 (Thánh Lễ Tridentina). Kể từ năm
2007, nghi thức Thánh lễ bằng tiếng Latinh "Tridentina" được giáo hội
bắt đầu sử dụng lại sau khi bị hủy bỏ từ Công đồng Vatican II năm 1963.
Tại Hoa Kỳ, các giáo xứ lại sử dụng một lễ nghi riêng, là biến thể giữa lễ
nghi Rôma nhưng vẫn giữ được một số từ ngữ trong phụng vụ Anh giáo.


Dự kiến cũng sẽ có một lễ nghi riêng dành cho các cựu tín hữu Anh giáo
nay gia nhập vào Giáo hội Công giáo. Ngoài ra còn có các lễ nghi Tây
Phương khác (không phải Rôma) bao gồm Lễ nghi Ambrosian và
Mozarabic.
IV.1.2. Lễ nghi Đông Phương
Một Giám mục Công giáo Đông phương chủ trì một nghi thức theo
truyền thống
Lễ nghi của cá giáo hội Công giáo ở Đông Phương thường tương tự với
lễ nghi của Chính thống giáo và các giáo hội khác ở Đông Âu, Đông Bắc
Phi, và Trung Đông không còn hiệp thông với Giám mục Rôma nữa.

Giáo hội Công giáo Đông Phương là một trong hai nhóm tín hữu đã khôi
phục hoàn toàn sự hiệp thông với Giám mục Rôma, nhưng vẫn giữ gìn
bản sắc Kitô hữu Đông Phương độc đáo của họ.
Các nghi lễ được sử dụng bởi giáo hội Công giáo Đông Phương bao
gồm: lễ nghi Byzantine sử dụng ở Antiochian, Hy Lạp và Slave, lễ nghi
Alexandria, lễ nghi Syria, lễ nghi Armenia, lễ nghi Maronite, và lễ nghi
Chaldean. Trong những năm gần đây, giáo hội Công giáo Đông Phương
đã quay trở lại với tập quán truyền thống phù hợp với Sắc lệnh về các
Giáo hội Đông phương (Orientalium Ecclesiarum) của Công đồng
Vatican II. Mỗi giáo hội có lịch phụng vụ riêng của mình.
IV.2. Các Bí tích

Giáo hội Công giáo dạy rằng: các bí tích là những dấu hiệu thiêng liêng
do Đấng Kitô lập ra và giao phó cho Giáo hội để ban lại cho chúng ta.
Chúng mang lại hiệu quả Thánh thiện cho những ai thực tâm đón nhận
chúng. Toàn bộ đời sống phụng vụ của Giáo hội xoay quanh việc cử
hành Thánh lễ và các bí tích. Có bảy Bí tích được Giáo hội công nhận là:
Thanh Tẩy (rửa tội), Thêm Sức, Thánh Thể, Bí tích Hòa Giải (giải tội),
Truyền Chức Thánh, Xức Dầu Thánh và Hôn Phối. Những người bị vạ
tuyệt thông thì mất quyền lãnh nhận các bí tích.
IV.3. Các Giờ Kinh Phụng vụ

Các Giờ Kinh Phụng vụ (hay còn gọi là kinh Thần Vụ) là những giờ kinh
của toàn thể Hội Thánh Công giáo dâng lên Thiên Chúa, được cử hành
cách long trọng trong các cộng đoàn dòng tu, chủng viện, các hội đoàn
giáo dân hay cũng có thể cử hành riêng mỗi cá nhân nếu không có điều


kiện đọc cùng cộng đoàn. Kinh Phụng vụ được chia làm nhiều giờ theo
thời gian trong ngày (kinh Sách, kinh Sáng, Kinh Trưa (giờ Ba, giờ Sáu,

giờ Chín), kinh Chiều, kinh Tối). Trong giờ kinh, họ thường đọc hoặc hát
các bài thánh thi, thánh vịnh và các lời cầu nguyện theo mẫu đã được
Hội Thánh quy định và biên soạn. Việc thực hành này là bắt buộc với
những người đã được lãnh nhận chức thánh (như phó tế, linh mục, giám
mục). Ngoài ra còn phải kể đến các hoạt động sùng bái của các tín hữu
ngoan đạo, đơn giản nhất là việc cầu nguyện vào buổi sáng và buổi tối,
hình thức khác là một mình hay tụ họp lại để đọc Thánh Kinh và suy
niệm.
Ngoài nghi thức phụng vụ ra, Giáo hội Công giáo còn có một sự đa dạng
về thực hành sống đạo mà cầu nguyện là hình thức rất được khuyến
khích vì nó được coi là sự vận động để phát triển đời sống thiêng liêng
của tín hữu, thắt chặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa. Các
việc làm đạo đức rất được Giáo hội khuyến khích. Chúng có thể là việc
tôn kính Thánh tượng, viếng nhà thờ, đi hành hương, rước kiệu, Đàng
Thánh Giá, Chầu Thánh Thể và đọc Kinh Mân Côi.

V. HÀNG GIÁO PHẨM8
Giáo hội Công giáo có tổ chức phân cấp, mỗi cấp có người trị sự được
Giáo hội chỉ định với ba chức thánh sau: giám mục, linh mục và phó tế.
Ngoài ra còn có các thừa tác viên.
V.1. Giám mục

Giám mục là những mục tử kế vị các thánh Tông đồ, các vị này có đầy
đủ quyền năng và uy phong như nhau, kể cả Giáo Hoàng. Nhưng vì
Giáo Hoàng là vị Tông đồ "trưởng"-là vị thủ lãnh các Tông đồ nên có
quyền quyết định cao hơn mà thôi. Giám mục là người đứng đầu các
linh mục đoàn, tương đương với cấp hành chính quận, huyện hoặc vùng
của chính quyền. Các giám mục được quyền bổ nhiệm linh mục cũng

8 Theo />sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=5&cad=rja&uact=8&ved=2ahUKEwjK34ieur_mAhWl7nMBHXpgC

agQFjAEegQIBRAB&url=https%3A%2F%2Fvoer.edu.vn%2Fm%2Fgiao-hoi-cong-giao-roma
%2F16aedd4f&usg=AOvVaw2xfgx5suMQ9Scjdueh2whs , 18/12/2019.


như Phó tế, cử hành bí tích truyền chức hai tín chức này cũng như trao
quyền cho linh mục cử hành một số bí tích khác.
V.2. Linh mục

Linh mục là những người phụ tá theo đúng nghĩa của các Giám mục.
Các linh mục phải tuân thủ hoàn toàn theo luật độc thân, tiết dục và khó
nghèo.Linh mục công giáo luôn luôn là nam, và chưa hề có tiền lệ là phụ
nữ. Các linh mục được làm Thánh lễ cũng như các bí tích khác khi có
chuẩn y của Giám mục. Linh mục cai quản một "xứ"- tương đương một
xã, phường. Khi hội đủ những điều kiện cần và đủ mọi linh mục có thể
được phong Giám mục
V.3. Thừa tác viên

Từ Công đồng Vatican II, Giáo hội cho phép những người trưởng thành
dù đã kết hôn được phong chức thừa tác viên vĩnh viễn với phương
châm “phục vụ chứ không đợi được phục vụ”. Họ có thể đảm nhận vai
trò đọc Phúc âm, dạy giáo lý, phụ tá rửa tội, dẫn dắt phụng vụ, làm
chứng hôn phối, hướng dẫn nghi thức tang lễ.
V.4. Hội đoàn

Tất cả thành viên của Giáo hội Công giáo khi đã được Rửa tội thì được
gọi là Kitô hữu, có đầy đủ phẩm giá, được kêu gọi trở nên thánh và đóng
góp xây dựng Giáo hội. Mọi người cũng được kêu gọi để chia sẻ bổn
phận làm thừa tác, tiên tri và vương đế của Đấng Kitô. Số ít trong số Kitô
hữu thực hiện vai trò liên quan đến mục tử (giáo phẩm) và sống chứng
nhân (tu trì) nhưng phần lớn là phải thực hiện ba bổn phận nói trên.


VI. VAI TRÒ TRÊN THẾ GIỚI9
VI.1. Đức tin và khoa học

Đức tin và khoa học luôn là đề tài gây tranh cãi về Giáo hội Công giáo.
Thuở ban đầu, Giáo hội Công giáo chấp nhận thuyết sáng tạo như được
chép trong Sách Sáng Thế (phần đầu của Cựu Ước). Sách này viết
rằng, vũ trụ và vạn vật được Thiên Chúa tạo dựng bằng lời phán, con
người là Adam và Eva được Thiên Chúa nặn ra từ bụi đất.
9 Theo />%C3%B4ma#Vai_tr%C3%B2_tr%C3%AAn_th%E1%BA%BF_gi%E1%BB%9Bi, 18/12/2019


Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, có những khi Giáo hội Công giáo
đã xung đột khắt khe với những nhà khoa học đi ngược với giáo thuyết
kể trên. Tuy nhiên ngày nay, sự xung đột giữa Giáo hội và các nhà
nghiên cứu khoa học không còn gay gắt. Từ Công đồng Vatican II, thái
độ của giáo hội về khoa học đã thay đổi, văn kiện trong công đồng này
viết: "Có hai lĩnh vực tri thức khác nhau: lĩnh vực đức tin và lĩnh vực lý
trí. Giáo hội không cấm các kỹ thuật và các bộ môn văn hóa nhân loại
dùng những nguyên lý và phương pháp riêng trong phạm vi của mình;
do đó, giáo hội nhìn nhận sự tự do chính đáng này và xác nhận sự tự trị
hợp pháp của văn hóa, nhất là khoa học". Giáo hội Công giáo đã nới
lỏng sự chấp nhận những bước tiến của khoa học hiện đại nhưng quan
niệm rằng các công trình khoa học đều có sự can thiệp của Thiên Chúa.
Có lẽ quan điểm dễ chấp nhận nhất là "đức tin và khoa học củng cố cho
nhau" (confirmation): Sự thật nào mà khoa học có thể làm sáng tỏ được
thì trở thành một phần của cuốn Thánh kinh sống trong thiên nhiên, giúp
con người hiểu thêm về Thiên Chúa và về chính mình, dù tự khoa học
không thể đưa tới cái hiểu biết này được, mà chỉ là một phần chất liệu
đưa tới sự hiểu biết này. Đồng thời, đức tin cũng có thể gợi ý và cảm

hứng cho khoa học, cho dù thần học không thay thế cho khoa học
được".
Gregor Mendel - một linh mục Dòng Augustine gây ảnh hưởng lớn đến di
truyền học hiện đại
Những giáo sĩ khoa học của Giáo hội (nhiều người trong số họ thuộc
Dòng Tên) đã ảnh hưởng lớn đến nền thiên văn học, di truyền học, khí
tượng học, địa chấn học và vũ trụ học. Các giáo sĩ đã đánh dấu tên tuổi
của mình trong nền khoa học thế giới như là Gregor Mendel thuộc Dòng
Augustine (đi tiên phong trong nghiên cứu di truyền học), Roger Bacon
thuộc Dòng Phanxicô (nhà triết học kinh điển, người tiên đoán ra nhiều
phát minh khoa học) và linh mục Georges Lemaître (đề xuất thuyết Vụ
Nổ Lớn). Thậm chí nhiều giáo dân Công giáo cũng bị thu hút vào khoa
học: Henri Becquerel khám phá ra chất phóng xạ; Luigi Galvani,
Alessandro Volta, André-Marie Ampère, Guglielmo Marconi mở đường
trong lĩnh vực điện năng và viễn thông; Antoine Lavoisier – "cha đẻ" của
hoá học hiện đại; Andreas Vesalius khai sinh ra ngành giải phẫu học;
Augustin Louis Cauchy là một trong những nhà toán học đặt nền tảng về
đại số; Giáo hoàng Grêgôriô XIII được coi là tác giả loại lịch mà cả thế
giới đang sử dụng phổ biến. Những vị trí này đã làm thay đổi cách nhìn


của những người hay chỉ trích rằng những học thuyết của Giáo hội làm
cho giáo dân và giáo sĩ mê muội và cản trở sự tiến bộ của nền văn minh
nhân loại. Thế kỷ XX đánh dấu sự phát triển nghiên cứu khoa học của
Dòng Tên.
Đối với trường hợp của Galileo Galilei, năm 1633, ông bị Giáo hội kết án
vì khẳng định thuyết nhật tâm mà Nicolaus Copernicus đề xuất trước đó
(cũng là một giáo sĩ Công giáo). Sau đó, Tòa án La Mã mở một cuộc xử
án, Galileo bị nghi ngờ là rối đạo (tà giáo) nhưng sự thật là ông bị tố cáo
oan và thuyết nhật tâm đến nay đã chứng minh là đúng. Galileo bị ép

buộc chối bỏ thuyết nhật tâm và những năm cuối đời ông bị quản chế.
Ngày 31 tháng 10 năm 1992, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã công khai
xin lỗi vì những hành xử của người Công giáo đối với Galileo trong cuộc
xử án đó là sai lầm.
Gần đây nhất, Giáo hoàng Biển Đức XVI phát biểu rằng: "Giữa đức tin
và khoa học không có sự chống đối nhưng có tình bạn". Dù vậy hiện
nay, Giáo hội Công giáo vẫn có lập trường bảo thủ trên một số vấn đề
nghiên cứu khoa học như: nhân bản vô tính người, nghiên cứu tế bào
gốc phôi thai người...
VI.2. Nghệ thuật

Ludwig van Beethoven - nhà soạn nhạc người Công giáo có nhiều tác
phẩm cổ điển nổi tiếng
Các nhà nghiên cứu cho rằng Giáo hội Công giáo đã góp công trong
việc tạo ra sự xán lạng và huy hoàng của nền nghệ thuật ở châu Âu.
Thần học Công giáo đã ảnh hưởng đến ý tưởng của các nhà văn như J.
R. R. Tolkien, C. S. Lewis và William Shakespeare. Sau thời Phục Hưng,
phong cách Baroque cho kiến trúc, hội họa và âm nhạc được Giáo hội
Công giáo đặc biệt khuyến khích vì họ nhận thấy rằng nó kích thích thêm
lòng mộ đạo. Về âm nhạc, tu sĩ Guido d'Arezzo (khoảng 991-1033),
người Ý thuộc Dòng Biển Đức, là người phát minh ra hình thức bảy nốt
nhạc và đặt tên là: Ut, Re, Mi, Fa, Sol, La và Si dựa trên chữ đầu của
một bài ca tụng Thánh Gioan10; cùng năm dòng kẻ nhạc cho các bản
Thánh ca trong nhà thờ, sau đó là tiêu chuẩn ký âm cho nền âm nhạc cổ
điển châu Âu, đến nay khắp thế giới đang sử dụng. Nhiều nhạc sĩ châu
Âu xuất thân từ Công giáo đã có những tác phẩm nổi tiếng, có thể kể
đến Ode hoan ca của Ludwig van Beethoven, Kính mừng Thánh Thể


của Wolfgang Amadeus Mozart, Ave Maria của Franz Schubert, Bánh

Thiên Thần của César Franck và Vinh Danh của Antonio Vivaldi.
VI.3. Giáo dục

Từ thời Trung Cổ, các tu sĩ Công giáo đã quan tâm đến việc giáo dục
đức tin và giáo dục dân sự. Lịch sử cho thấy rằng ở các vùng đất truyền
giáo, những người đầu tiên hoạt động về giáo dục là Công giáo. Ở một
số quốc gia, Giáo hội Công giáo mở rất nhiều trường học ngoài công lập
trở thành tổ chức sở hữu hệ thống trường ngoài công lập lớn nhất thế
giới hiện nay. Trên quy mô toàn cầu, các trường đại học thuộc Giáo hội
Công giáo và những trường thuộc các tôn giáo khác đã từ lâu là những
thành viên chủ chốt, được coi như những trường có chất lượng, những
lá cờ đầu trong đất nước của họ. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, 217 trường đại học
bốn năm của Giáo hội Công giáo chiếm 20% tổng số sinh viên vào đại
học và cao đẳng hàng năm. Trên thế giới có gần 1900 trường đại học và
cao đẳng của Giáo hội Công giáo.
VI.4. Phát triển kinh tế

Francisco de Vitoria, nhà thần học, nhà tư tưởng thuộc Dòng Đa Minh,
đệ tử của Tommaso d'Aquino đã có những nghiên cứu lớn về vấn đề liên
quan đến nhân quyền của người thuộc địa, người bản địa, mà đã được
Liên Hiệp Quốc công nhận như là người đặt nền tảng cho luật pháp
quốc tế, lý tưởng cho nền dân chủ và sự phát triển kinh tế của phương
Tây. Ngày nay, Giáo hội Công giáo, mà chính thể Vatican làm quan sát
viên tại Liên Hiệp Quốc, luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát
triển là phục vụ sự phát triển toàn diện của nhân vị, chứ không phải
ngược lại.
VI.5. Bác ái và phúc lợi xã hội

Bác ái và phúc lợi xã hội là hoạt động trọng điểm và nổi bật của Giáo hội
Công giáo. Thế kỷ thứ nhất, khi Giáo hội sơ khai được thành lập, các

tông đồ đối diện với một thách đố đe dọa chia rẽ cộng đoàn Kitô giáo
mới này. Vấn đề là các Kitô hữu gốc Hy Lạp than phiền rằng các bà góa
trong nhóm của họ không nhận được phần chia sẻ của cải chung. Các vị
tông đồ đã bổ nhiệm bảy phó tế với nhiệm vụ chuyên biệt là đảm bảo sự
công bằng trong việc chia sẻ của cải.
Đến thời Trung Cổ, việc chăm sóc cho những người khốn khổ đã được
quan tâm trong những tu viện Công giáo lớn, các tu sĩ chăm sóc cho các


trẻ mồ côi, người bệnh tật, già yếu, các du khách và người nghèo. Từ
các tu viện, công việc này được lan tỏa đến các thành phố để thiết lập
các viện tế bần, viện mồ côi, nhà dưỡng lão - dưỡng bệnh, trạm dừng
nghỉ, nhiều trung tâm chăm sóc sức khỏe và phục vụ xã hội khác. Sau
đó, các tổ chức giáo dân bắt đầu mở rộng và thực hiện trong công việc
này, như Hiệp hội Bác ái Vinh Sơn của Vinh Sơn đệ Phaolô.
Những công việc hiện nay của các tổ chức bác ái Công giáo trên toàn
thế giới tiếp tục ưu tiên phục vụ những đối tượng: phụ nữ, trẻ em nghèo
đói, các cá nhân bị loại trừ (vì là lao động nước ngoài, người di dân, tị
nạn, khác chủng tộc, bị thiểu năng, HIV/AIDS, hoặc lý do nào đó) vì Giáo
hội Công giáo quan niệm rằng tất cả mọi người đều là con của một
Thiên Chúa. Ngày nay, Caritas Quốc tế là một trong những tổ chức Công
giáo phục vụ bác ái, phúc lợi xã hội lớn trên thế giới.
VI.6. Tác động xã hội đương đại

Năm 1978, Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trước đây là Tổng Giám mục
của giáo phận Kraków thời Ba Lan là nhà nước cộng sản, đã trị vì 27
năm - một trong những triều đại Giáo hoàng lâu nhất trong lịch sử. Chính
Mikhail Gorbachev, chủ tịch của Liên Xô đã ghi nhận rằng Giáo hoàng
người Ba Lan này là nhân tố đẩy nhanh sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng
sản ở châu Âu. Mẹ Teresa thành Calcutta được trao tặng Giải Nobel Hòa

bình vào năm 1979 vì những công việc nhân đạo của bà dành cho người
nghèo ở Ấn Độ. Giám mục Carlos Filipe Ximenes Belo cũng giành giải
thưởng tương tự vào năm 1996 vì giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột
ở Đông Timor. Hiện nay, Tòa Thánh Vatican là một quốc gia trung lập,
đại diện cho Giáo hội Công giáo giữ vị trí quan sát viên tại Liên Hiệp
Quốc và thường nêu lên các quan điểm bảo vệ tự do tôn giáo, nhân
quyền, chống đói nghèo và nền hòa bình của các quốc gia.

VII. CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM10
Cộng đồng Công giáo tại Việt Nam là một bộ phận của Giáo hội Công
giáo Rôma, dưới sự lãnh đạo tinh thần của Giáo hoàng và Giáo triều
Rôma. Với gần 8%, Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ người Công giáo trong
tổng dân số xếp thứ năm ở châu Á (sau Đông Timor, Philippines, Liban
10 Theo />18/12/2019.


×